Các nhà nhập khẩu cuộn trơn ở Mỹ không chắc liệu có giữ được giá trong thời gian tới hay không do nhu cầu tiêu thụ vẫn còn yếu.
Một thương nhân nói rằng các nhà máy Trung Quốc đã nâng giá cuộn trơn thêm khoảng 10 USD/tấn trong hai tuần trước nhưng ông không chắc liệu mức giá mới này có được chấp nhận hay không vì thị trường Trung Quốc hiện nay rất ảm đạm và ông cho rằng giá sẽ giảm nhanh thôi.
Giá chào bán cuộn trơn với hàm lượng cacbon thấp có giá cao khoảng 615-620 USD/tấn CFR Houston, và ông không muốn mua với giá này.
Một thương nhân khác nói rằng mặc dù thị trường sẽ im ắng từ đây cho đến đầu năm sau nhưng giá cuộn trơn với hàm lượng cacbon thấp có thể vẫn duy trì 600-605 USD/tấn CFR Houston. Tuy gần đây ông không liên lạc với các nhà cung cấp của Thổ Nhĩ Kỳ nhưng cho rằng giá ở khoảng 640 USD/tấn CFR Houston.
Gần đây các nhà sản xuất thép ở Mỹ đã đưa đơn kiện trợ cấp bán phá giá đối với thép cây của Thổ Nhĩ Kỳ cũng đã gây ảnh hưởng đến thị trường cuộn trơn do ngoài thép cây ra thì các nhà sản xuất còn cung cấp cả cuộn trơn nữa. Tuy nhiên, giá cuộn trơn của Thổ Nhĩ Kỳ không thể cạnh tranh với Trung Quốc.
Giới thị trường tại khu vực Trung Tây đều đồng tình rằng giá trong nước đã không thay đổi trong tháng trước có lẽ do sức mua chậm. Mặc dù giá vẫn như cũ nhưng nhiều người vẫn đang chờ xem xu hướng giá như thế nào rồi mới quyết định đặt mua.
Giá HRC Mỹ gần chạm đáy
Tuy hầu hết các nhà sản xuất Mỹ vẫn đang giữ giá tấm mỏng vì nhiều nhà máy đang ngừng hoạt động để bảo trì nên nguồn cung khan hiếm, nhưng theo nhận xét của Platts thì giá HRC đã dần chạm đáy.
Hôm thứ Tư, giá HRC tại Platts đã giảm từ 650-660 USD/tấn ngắn xuống còn 645-660 USD/tấn ngắn theo giá thỏa thuận trên thị trường mà chủ yếu là từ những người tiêu dùng trực tiếp. Còn giá CRC thì vẫn giữ tại mức 755-760 USD/tấn ngắn, mặc dù theo một nhà phân phối thì mức giá nhà máy đưa ra là 770 USD/tấn ngắn, không thể thương lượng thêm do sự quan ngại về nguồn cung. Tất cả các giá trên đều là giá xuất xưởng từ một nhà máy ở Trung Tây (Indiana).
Theo nguồn tin thì một số nhà cung cấp có thể thỏa thuận lại mức giá giao dịch, nhưng các nhà sản xuất hàng đầu thì không muốn giảm giá do dự đoán nguồn cung sẽ khan hiếm trong thời gian tới.
Một nhà phân phối xác nhận rằng hầu hết các giao dịch HRC được chốt với giá khoảng 645- 660 USD/tấn ngắn và dự đoán mức giá này sẽ duy trì từ đây cho đến cuối năm. ông này cho rằng quý IV năm nay sẽ khác và mọi người đang mong đợi điều đó, nhưng dù sao thì đây cũng chỉ là dự đoán mang tính chủ quan.
Đồng rupee tăng giá thắp lên hy vọng khởi sắc của thị trường nhập khẩu Ấn
Theo nhận định của các thành viên thị trường Ấn Độ, dấu hiệu tăng trở lại của đồng Rupee Ấn cũng như giá cả dao động tại thị trường Châu Á có thể sẽ giúp cho thị trường nhập khẩu HRC Ấn Độ hoạt động trở lại sau 3 tháng trầm lắng. Tuy nhiên, một số nguồn tin khác bác bỏ nhận định này vì cho rằng nhu cầu tieeut hụ và sự vẫn động của đồngt iền Ấn vẫn chưa rõ ràng.
Hiện tại, giá giao dịch HRC IS 2062 A/B >=3mm đạt mức 36.000-37.000 Rupees/tấm (568-584 USD/tấn) xuất xưởng, tương đương với giá nhập khẩu 528-543 USD/tấn CFR Mumbai đã gồm 7.5% thuế quan, tăng 28-30 USD/tấn so với tuần trước do đồng Rupee đã hồi phục lại hơn 7% giá trị.
Chạm mức kỷ lục thấp nhất vào tháng trước, đòng nội tệ Ấn đang trên đà hồi phục, đạt mức 63-64 Rupees/USD so với mức 68 Rupees/USD vào tuần trước.
Theo dự báo, đồng Rupees Ấn sẽ bình ổn ở mức 65 Rupees/USD trong những tuần tới, trong khi trước đó được dự báo rớt thảm hại xuống 70-75 Rupees/USD trong cuối tháng 8. Như vậy , dự báo tích cực này có thể khơi mào cho hoạt động hập khẩu trở lại.
Một khách hàng
Trong khi đó, một nhà cán lại Mumbai tỏ ra bi quan về tình hình thị trường. Ông nói” nhìn chung, đồng nội tệ vẫn chưa ổn định và xu hướng thị trường cũng chưa rõ ràng”.
Giá phôi thanh xuất khẩu có xuất xứ từ Biển Đen đã giảm nhẹ trong tuần này nên những người tiêu dùng trực tiếp đang tranh thủ thu mua, bên cạnh đó lượng hàng dự trữ của các nhà cán lại ở khu vực Trung Đông, Bắc Phi cũng đã vơi dần khiến thị trường giao dịch ấm hơn, thêm vào đó những căng thẳng chiến sự tại Syria đã dịu bớt, tâm lý thị trường trở nên lạc quan hơn.
Một nhà máy lớn ở Ukraina hiện đang đưa ra mức giá 495 USD/tấn FOB Mariupol cho phôi thanh sản xuất tháng 09. Trong khi giá chào bán từ cảng Biển Đen tới Thổ Nhĩ Kỳ, Italy và Ai Cập lại có giá như trên thì các nhà máy ở Novorossiysk, Rostov và Mariupol hiện đang chào bán với giá thấp hơn.
Giá phôi thanh Biển Đen được giao dịch tại 507-508 USD/tấn FOB Bartin (miền Bắc Thổ Nhĩ Kỳ). Đã có một lô hàng 5.000 tấn xuất khẩu từ Rostov với giá 500 USD/tấn CFR tới miền Bắc Thổ Nhĩ Kỳ, sẽ giao vào nửa đầu tháng 10.
Tuy nhiên, hiện nay, có rất ít thương nhân thực hiện giao dịch với mức giá này, và giá của các giao dịch khác từ Biển Đen cũng thấp hơn đáng kể sau khi trừ chi phí vận chuyển.
Hôm thứ Tư, giá phôi thanh hàng ngày tại Platts đã giảm 1 USD/tấn xuống còn 495 USD/tấn FOB Biển Đen.
Vào khoảng giữa tuần trước, đã có một vài lô hàng được vận chuyển tới Italy với giá cao 528-525 USD/tấn CFR, do tỷ giá giữa euro và đôla Mỹ và phế tăng giá ở các quốc gia Nam Âu.
Trong khi đó, các lô hàng mới đây cập cảng tới Ai Cập được ký kết với giá 520 USD/tấn CIF Alexandria cho hàng giao cuối tháng 09 và đầu tháng 10. Nghe nói một thương nhân đã mua một lô lớn với giá trên, trong đó phí vận chuyển từ Ukraina dưới 20 USD/tấn, còn lô nhỏ thì có phí cao hơn khoảng 5 USD/tấn.
Các nhà sản xuất bằng lò hồ quang điện tại Thổ Nhĩ Kỳ mà Platts đã liên lạc đều thừa nhận mức giá trên là có thật, chênh lệch giữa giá phế HMS 1&2 (80/20) và phôi thanh nhập từ CIS hiện nay chỉ còn 127,75 USD/tấn; thế nhưng các nhà máy này vẫn đang chào bán phôi thanh với giá gần 490 USD/tấn FOB Biển Đen.
Thị trường HRC nội địa Ấn Độ bắt đầu chấp nhận mức giá cao
Trong tuần qua, giá HRC nội địa Ấn Độ vẫn duy trì ổn định, và người mua đã bắt đầu chấp nhận mức giá cao hơn 2.000-3.000 Rupees/tấn (32-47 USD/tấn) sua thoogn báo tăng giá của các nhà máy thép vào đầu tháng 9 này.
Hiện tại, giá giao dịch HRC A/B IS 2062 >=3mm đạt mức 36.000-37.000 Rupees/tấn (568-584 USD/tấn) xuất xưởng, cao hơn so với mức giá xuất xưởng 34.000-34.500 Rupees/tấn trong tháng 8.
Giá tăng lần này có ý nghĩa rất lớn đến thị trường thép Ấn, do đây là lần đầu tiên trong năm các nhà máy thép Ấn Độ đã có thể gia nhập trở lại vào thị trường thép thế giới . Có thể thấy, động lực thúc đẩy lần này chính là nhờ vào đồng Rupee suy yếu, và điều này có thể hỗ trợ phần nào giá xuất khẩu.
Tuy nhiên, vẫn tồn tại những quan ngại rằng đà tăng này kiệu có thể duy trì được trong suốt tháng hay không. Một thương nhân Mumbai cho hay, sự tiếp tục suy yếu của đồng nội tệ Ấn đã phản ánh một sự tăng giá lần nữa vào đầu tháng 10. Nhưng họ cũng nghi ngờ về khả năng xảy ra trừ phi sức mua được cải thiện.
Trong khi đó, theo nguồn tin cho hay, các nhà máy thép Ấn Độ sẽ tiếp tục cung ứng mưc chiết khấu 800-1.400 Rupees/tấn cho lô hàng giao cuối tháng 9 đầu tháng 10 đối với các khách hàng đã đáp ứng đủ chỉ tiêu doanh số từ tháng 4-9. Và điều này đã góp phần giúp người mua chấp nhận mức giá mới trong tháng 9.
Nhà máy NSSMC Nhật Bản thông báo tăng giá thép dầm hình H giao ngay
Theo các nguồn tin cho biết, nhà máy Nippon Steel & Sumitomo Metal Corp (NSSMC) Nhật Bản sẽ tiến hàng nâng giá thép dầm hình H giao ngay tháng 9 thêm 3.000 Yên/tấn (30 USD/tấn) do nhận thấy nhu cầu tiêu thụ cải thiện và nguồn cung thắt chặt.
Được biết, hiện tại, mức giá thép dầm hình H SS400 cỡ lớn tại
“ Thị trường nên chấp nhận mức giá cao hơn do nhu cầu tiêu thụ mặt hàng này đã được củng cố và hàng tồn kho cũng đã giảm, đó là lý do chúng tôi quyết định tăng giá”, nhà máy NSSMC cho hay. Nhà máy này cũng cho hay sẽ bảo dưỡng máy móc tại các nhà máy ở Kashima và Kimitsu cạnh Tokyo vào cuối tháng 9 đầu tháng 10, giúp cắt giảm sản lượng.
Được biết, hàng tồn kho thép dầm hình H tại các kho hàng của NSSMC trong cuối tháng 8 đã giảm 3.400 tấn so với cuối tháng 7, đạt mức 186.100 tấn. Lượng hàng vận chuyển ra thị trường hàng ngày trong tháng 8 đạt mức 4.800 tấn, tăng thêm 300 tấn (6.7%) sop với cuối tháng 7.
“ Chúng tôi sẽ nhanh chóng tăng giá để vượt qua mức giá chào cao từ các nhà sản xuất. Đơn hàng đã tăng lên, và đây chính là thời cơ tăng giá”, một nhà phân phối tại
Trước đó, vào đầu năm nay, nhà máy NSSCM đã tuyên bố sẽ cố gắng tăng giá thép dầm hình H thêm 10.000 Yên/tấn. Nó đã từng nâng giá mặt hàng này thêm 5.000 Yên/tấn đối với lô hàng tháng 3, sua đó thêm 3.000 Yên/tấn trong tháng 7. Tổng cộng, cho đến bây giờ, nhà máy này đã tăng giá thê, 11.000 Yên/tấn.
Theo dự báo của Bộ xây dựng Cơ sở hạ tầng và Giao thông Vận Tải Nhật cho hay, nhu cầu tiêu thụ thép hình cho hoạt động xây dựng sẽ đạt khoảng 440.000 tấn trong tháng 10, tăng 20.5% so với cùng kỳ năm ngoái.
Thổ Nhĩ Kỳ: Các nhà máy nâng giá mua phế trong nước
Trong tuần này, đa số các nhà sản xuất Thổ Nhĩ Kỳ đều đã tăng giá thu mua phế trong nước do sự suy yếu của đồng nội tệ so với đôla Mỹ. Cụ thể, từ ngày 11/9 Kardemir đã nâng giá mua phế từ ô tô cũ (DKP) thêm 60 TRY/tấn lên 795 TRY/tấn (394 USD).
Colakoglu hiện đang mua phế với giá 710 TRY/tấn (352 USD) kể từ ngày 10/9, tăng 70 TRY/tấn so với giá mua trước đây. Asil Celik cũng đã tăng giá thu mua phế DKP thêm 20 TRY/tấn lên 720 TRY/tấn (357 USD).
Còn Erdemir thì vẫn giữ giá 730 TRY/tấn (362 USD) từ đầu tháng 08 đến nay. Dự đoán giá phế có xu hướng sẽ tiếp tục tăng trong những ngày tới nếu tình hình thị trường vẫn duy trì như hiện nay.
Tại thị trường nội địa, phế DKP hiện được bán với giá 710-795 TRY/tấn (317-394 USD) gồm phí vận chuyển tới nhà máy.
Tuy nhiên, giá phế từ tàu cũ trong tuần này lại tiếp tục giảm 5-10 USD/tấn. Ege Celik hiện đang mua loại phế này với giá thấp hơn 10 USD/tấn so với tuần trước chỉ còn 355 USD/tấn. Phế nấu chảy từ tàu cũ hiện đang được chào bán tới các nhà máy khác ở miền Nam nước này (Habas, IDC, Ozkan) với giá 365 USD/tấn đã có phí vận chuyển.
Kardemir, nhà sản xuất thép hợp nhất của Thổ Nhĩ Kỳ, hôm 11/9 đã nâng giá thép thanh ở thị trường trong nước (tính bằng đồng lira), nhưng giá phôi thanh và phôi bloom (tính bằng đôla Mỹ) thì lại giảm.
Theo đó, giá bán mới của thép thanh tròn là 1.221 TRY/tấn (606 USD/tấn) xuất xưởng, tăng 23 TRY/tấn so với trước đây. Thép cây cũng tăng lên 1.204 TRY/tấn (598 USD/tấn) xuất xưởng.
Tuy nhiên, giá niêm yết của phôi thanh và phôi bloom đều đã giảm 13 USD/tấn xuống mức lần lượt là 527 USD/tấn và 630 USD/tấn xuất xưởng, không gồm VAT 18%.
Kardemir đã không đưa ra lý do về việc điều chỉnh giá bán, nhưng theo suy đoán của giới thị trường thì nguyên nhân là do đồng lira tiếp tục suy yếu so với đồng bạc xanh.
Đồng thời, Icdas cũng đã nâng giá thép thanh nội địa kể từ ngày 28/8. Cụ thể, thép cây đường kính 12-32mm có giá 1,450 TRY/tấn xuất xưởng (721 USD); loại đường kính 10mm chốt tại 1.460 TRY/tấn xuất xưởng (726 USD); còn giá của loại 8mm là 1.470 TRY/tấn xuất xưởng (731 USD). Tất cả các giá trên đều đã có VAT 18%.
Gía xuất khẩu cuộn trơn Trung Quốc ổn định mặc dù giá nội địa suy yếu.
Trong tuần này, giá cuộn trơn nội địa Trung Quốc tiếp tục suy yếu, do người mua vẫn đang tong tâm lý chờ diễn biến tình hình thị trường được rõ ràng hơn. Các nguồn tin cũng cho hay, hầu như các khách hàng ngoài nước đều không mấy lcaj quan về thị trường mà nguyên nhân chính vẫn là do nhu cầu tiêu thụ chạm chạp.
Hiện tại, giá chào bán cuộn trơn SAE 1008B 6.5mm xuất khẩu tháng 9 đạt mức 530-535 USD/tấn FOB, không đổi so với tháng trước.
Tuy nhiên, mức giá cao này khó mà được người mua chấp nhận. Một thương nhân tại miền Đông Trung Quốc cho biết đã chốt được các đơn hàng khối lượng nhỏ ở mức 555 USD/tấn CFR Singapore, tương đương 535 USD/tấn FOB Trung Quốc. Tuy nhiên, theo các thành viên thị trường nhận định, mức giá này hiện tại sẽ không được chấp nhận do người mua chỉ tả khoảng 530 USD/tấn hoặc thậm chí thấp hơn thế.
Trong bối cảnh giá nội địa suy yếu, người mua ngoài nước cũng do dự mua hàng, do đó, thật khó để bảo toàn được đơn hàng xuất khẩu hiện tại. Một số thương nhân cũng đã có động thái hạ giá để tăng doanh số bán trong bối cảnh sức mau yếu và tâm lý thị trường suy sụp.
Một thương nhân khác tại miền Đông Trung Quốc cho biết đang chào bá Ở MỨC 550 usd/tấn CFR Philippines, nhưng vấp phải kháng cự từ người mua. Có thông tin cho hay còn một số đơn chào thấp hơn chỉ ở mức 545 USD/tấn CFR đã gồm 18 USD/tấn phí vận chuyển.
Do vậy, Platts cũng đã giữ nguyên mức giá nhận định đối với thép cuộn trơn SAE 1008 6.5mm nguồn gốc Trung Quốc ở mức 525-530 USD/tấn FOB.
Tại thị trường nội địa, giá cuộn trơn Q195 6.5mm tại thị trường giao ngay Thượng Hải đạt mức 3.510-3.530 NDT/tấn (570-573 USD/tấn), thấp hơn so với giá 3.570-3.580 NDT/tấn tuần trước do nhu cầu tiêu thụ chậm chạp và lượng hàng trên thị trường tăng.
Các nhà sản xuất Italia giữ giá chào bán thép cuộn
Các nhà sản xuất Italia đang giữ giá chào bán thép cuộn cán nóng ở thị trường trong nước, trong khi nhu cầu tiêu thụ lại giảm bớt do các thương nhân đã mua đủ lượng hàng dự trữ trong tháng 07.
Theo nguồn tin thị trường cho biết hai nhà máy Ilva và Arvedi vẫn đang chào bán thép cuộn nội địa với giá 450-460 EUR/tấn xuất xưởng cơ bản, không đổi so với tuần trước.
Ilva vẫn còn thiếu một ít đơn hàng sản xuất tháng 10 và hiện nay chủ yếu là đang chào bán hàng sản xuất trong tháng 11. Nhà máy này có kế hoạch sẽ tăng sản lượng thép thô khi khởi động lại hai lò nung ở Taranto.
“Ilva hiện đang chào bán với giá 450-460 EUR/tấn xuất xưởng cơ bản, và còn phải cộng thêm khoảng 3 EUR/tấn đối với loại chất lượng cao, 13 EUR/tấn cho loại trung bình 4mm và thêm 12 EUR/tấn cho phí vận chuyển”, một thương nhân nói.
Các quốc gia khác ở khu vực EU cũng đều tăng giá cao như vậy nên nếu muốn mua thì phải chấp nhận mức giá này. Tuy nhiên, một thương nhân cho biết ông sẽ không mua vào thời điểm này, hiện nay chỉ những người có nhu cầu tái bổ sung hàng tồn hay cần nguyên vật liệu cho một số dự án thì mới mua thôi.
Hiện nay hàng nhập khẩu có giá không cạnh tranh lắm đã giúp các nhà sản xuất trong nước vẫn đang duy trì giá theo đà tăng. Một thương nhân cho biết thép cuộn 4mm nhập khẩu từ Trung Quốc giao tháng 01/2014 có giá 625 USD/tấn (470 EUR/tấn) CIF Ravenna. Còn theo một vài nguồn tin khác, HRC nhập từ Trung Quốc và Đài Loan có giá chào bán 450-460 EUR/tấn CIF Ravenna, cũng giao trong tháng 01/2014.
Các nhà sản xuất trong nước hiện đang chào bán HDG với giá 500-510 EUR/tấn xuất xưởng cơ bản, Ilva chủ yếu đang chào hàng sản xuất tháng 11 còn Marcegaglia và Arvedi chào cho hàng sản xuất tháng 10. Họ muốn giữ mức giá đã tăng, cụ thể, Marcegaglia gần đây đã thông báo giá chào bán chính thức là 520-530 EUR/tấn xuất xưởng cơ bản, giá giao thực tế còn phải cộng thêm một số khoản khác và giá xuất khẩu 540-550 EUR/tấn. Còn chào giá của CRC là 530 EUR/tấn xuất xưởng cơ bản và giá giao dịch nghe nói cũng gần với mức này.
Nhà máy Shagang thông báo cắt giảm 30 NDT/tấn đối với giá thép cây xuất xưởng
Theo các nguồn tin cho biết, nhà máy Shagang sẽ tiến hành cắt giảm giá thép cây xuất xưởng giao ngày 11-20/9 khoảng 30 NDT/tấn (5 USD/tấn). Như vậy, đây là lần đầu tiên nhà máy này tiến hành cắt giảm giá kể từ đầu tháng 8, do nhu cầu tiêu thụ suy yếu đã gây sức ép giảm giá lên thị trường giao ngay.
Sau khi điều chỉnh, giá thép cây HRB400 16-25mm do nhà máy Shagang sản xuất đạt mức 3.660 NDT/tấn đã gồm 17% VAT.
Tương tự, nhà máy này cũng hạ giá cuộn trơn HPB 300 xuống còn 3.690 NDT/tấn, tức cắt giảm 30 NDT/tấn so với mức giá trước.
Một thương nhân tại thanh phố Hàng Châu, tỉnh Triết Giang cho hay, quyết định hạ giá của nhà máy Shagang sẽ thu hẹp khoảng cách với giá nội địa nhưng làm tăng tổn thất của các thương nhân do nhu cầu tiêu thụ và giá cả không cải thiện. Nhà máy này cũng cho biết sẽ bù lại thêm cho các đại lý đã đặt mua hàng giao đầu tháng 9 thêm 30 NDT/tấn, tuy nhiên, các đại lý vẫn than phiền rằng mức bồi thường này không bù đắp lại được tổn thất của họ.
Trong khi đó, hiện tại, gía thép cây HRB 400 16-25mm do nhà máy Shagang sản xuất tại thị trường giao ngay Hàng Châu đạt mức 3.560-3.580 NDT/tấn đã gồm 17% VAT, không đổi so với đầu tháng 9.
Nhu cầu tiêu thụ hiện tại vẫn chưa đủ lực để nâng đỡ giá thị trường, một thương nhân Hàng Châu nhận định. Được biết, giá thép cây HRB400 18-25mm giao ngay tại thị trường Bắc Kinh đạt mức 3.500-3.520 NDT/tấn đã gồm VAT, giảm 10 NDT/tấn so với ngày 10/9.
Thị trường HDG Thượng Hải suy yếu
Sự rớt giá liên tục của mặt hàng HRC nội địa đã gây sức ép lên tâm lý thị trường HGD trong nước Trung Quốc, buộc các nhà sản xuất HDG tại Thượng Hải phải giảm giá chào bán. Các nhà máy này cho biết giá xuất xưởng cao đã hỗ trợ cho thị trường giao ngay HDG trong tháng 7 và tháng 8, tuy nhiên, cho đến nay, giá mặt hàng này không thể nhích thêm nữa.
Trong ngày hôm qua, giá HDG DX51D phủ 80g kẽm/m2 tại thị trường Thượng Hải được giao dịch ở mức 4.530-4.590 NDT/tấn xuất xưởng đã gồm 17% VAT, giảm 10 NDT//tân so với cuối tháng 8.
Do ảnh hưởng của mùa thấp điểm đã kìm giá thép ở mức thấp, nên sang đến tháng 9 này, giá vẫn chưa thể phục hồi được. “Không có gì ngạc nhiên khi thấy giá thép vẫn đang giảm”, một thương nhân Thượng Hải nhận định.
Theo báo cáo hàng tồn kho ngày 6/9, lượng HDG tồn hko tại các kho hàng Thượng Hải đạt tổn cộng 14.100 tấn, giảm 600 tấn so với tuần 26/8.
Thị trường xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ có dấu hiệu khởi sắc
Các nhà xuất khẩu thép cây của Thổ Nhĩ Kỳ trong tuần này tỏ ra lạc quan hơn khi các thương nhân ở khu vực Trung Đông có thể đặt mua lô lớn trong vài ngày tới, sau khi tình hình bất ổn chính trị ở Syria tạm lắng xuống.
Các nhà sản xuất bằng lò hồ quang điện lớn nhất ở Thổ Nhĩ Kỳ đang xuất khẩu thép cây giao tháng 10 với giá 575-580 USD/tấn FOB Marmara/Aliaga, trong đó có một số thương nhân ở Istanbul đã bán được 1.000-2.000 tấn với mức giá này.
Còn các nhà máy có quy mô vừa cũng đang cố nâng giá cao hơn do giá phế HMS I/II (80/20) gần đây đã tăng lên 380 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ, hiện giá chào bán được giữ ở mức 590 USD/tấn FOB Marmara/Aliaga, nhưng cũng thừa nhận rằng mức giá dao động từ 580 đến 590 USD/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ đang được thương lượng.
Platts đã nâng giá hàng ngày của thép cây lên 577,5 USD/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ, tăng 0,5 USD/tấn đã phản ánh tình hình giao dịch trên thị trường hiện nay cũng như niềm tin phần nào đã được cải thiện ở thị trường xuất khẩu sau nguy cơ chiến tranh giữa Mỹ và Syria đã dịu bớt.
Các nhà sản xuất ở miền Nam Thổ Nhĩ Kỳ hiện đang nỗ lực để bán một số lô hàng sang các nước láng giềng với giá 595 USD/tấn xuất xưởng từ Iskenderun tới Iraq. Trong tuần trước, một số cán lại đã bán lô hàng với khối lượng khoảng 5.000 tấn với mức giá trên. Còn chào giá phôi thanh tại miền Nam nước này đã giảm xuống còn 530 USD/tấn xuất xưởng.
Baosteel nâng giá thép tháng 10 bất chấp thị trường suy yếu
Theo các nguồn tin cho biết, nhà máy Baosteel đã thông báo nâng giá niêm yết thép tháng 10 dù tình hình tieeut hụ hiện tại vẫn đang trì trệ.
Được biết, đối với mặt hàng HRC, nhà máy này vẫn giữ nguyên giá chào bán nhưng sẽ bỏ đi mức chiết khấu 100 NDT/tấn (16 USD/tấn) được áp dựng trong tháng 9. Đây có thể xem là bước chuẩn bị cho hành động tăng giá sắp tới.
Cùng thời điểm, một nhà máy tại miền Đông Trung Quốc cũng đã tăng giá chào bán CRC CQ và HDG thêm 100 NDT/tấn.
Nhà máy Baosteel dự báo sẽ nhận đủ đơn hàng CRC và HDG trong tháng này nên quyết định tăng giá thép tháng 10, một thành viên thị trường cho biết. Tuy nhiên, các nhà amys lớn khác trong nước, chẳng hạn như Anshan Iron and Steel và Wuhan Iron and Steel có thể sẽ không hưởng ứng theo quyết định của nhà máy trên và duy trì giá tháng 10 không đổi.
Trong khi đó, vẫn có ý kiến cho rằng nhà máy này sẽ phải giữ nguyên giá tháng 10 do tình hình thị trường suy yếu. Tuy nhiên, Ông cũng nhấn mạnh thêm rằng hiện tại tín dụng đang bị giới hạn trong khi doanh số bán ra chậm và chi phí sản xuất tăng cao sẽ càng tăng thêm tổn thất lợi nhuận cho các doanh nghiệp.
Một thương nhân Thượng Hải nhận định, chích sách tăng giá thép tháng 10 của Baosteel có thể giúp ngăn đà giảm của giá thép nội địa. Trong ngày hôm qua (11/9), giá HRC Q235 5.5mm tại thị trường Thượng Hải đạt mức 3.570-3.600 NDT/tấn (583-588 USD/tấn) đã gồm 17%n VAT, giảm 10 NDT/tấn so với ngày đâu tuần (9/9).
Tương tự, tại Le Cong (Quảng Đông), giá mặt hàng này cũng giảm 10 NDT/tấn so với ngày thứ hai, đạt mức 3.640-3.660 NDT/tấn.