Giá NPI Trung Quốc phục hồi bất chấp sự sụt giảm của giá kim loại
Giá giao ngay của NPI loại cao cấp (10-15% Ni) tại Trung Quốc đã phục hồi một cách rõ rệt trong suốt tháng qua mặc dù sự sụt giảm mạnh của giá kim loại niken. Giá NPI được chốt ở mức 1.100-1.120 NDT/nickel unit (177-181 USD/unit) –gồm phí vận chuyển và VAT 17%- chỉ giảm nhẹ so với 1.100-1.140 NDT/ unit của một tháng trước do nguồn cung NPI và quặng niken khan hiếm.
“Giá ít thay đổi trong những tuần gần đây. Nguồn cung hạn chế đang hỗ trợ cho giá”, một nhà phân tích niken ở Bắc Kinh nói. Nhiều nhà sản xuất NPI không sẵn lòng bán ra thị trường bây giờ vì họ thấy mức giá hiện nay không hấp dẫn và kỳ vọng giá sẽ tăng thêm trong thời gian tới. Giá kim loại niken trên sàn London Metal Exchange đã để mất khoảng 1.000 USD/tấn trong tháng qua.
Giá quặng niken tăng do nguồn cung hạn chế cũng đã khiến chi phí sản xuất cao. Tồn kho quặng niken tại 5 cảng lớn ở Trung Quốc gồm Thiên Tân, Nhật Chiếu, Lam Sơn, Lianyungang và Jingtang đã giảm còn 13,33 triệu tấn tính đến ngày 09/01, thấp hơn 368.000 tấn so với nửa tháng trước, theo số liệu từ công ty nghiên cứu kim loại của Trung Quốc Shanghai Metals Market.
Việc nhập khẩu quặng niken từ nhà cung cấp chính là Philippines đã bắt đầu sụt giảm kể từ cuối năm ngoái do việc vận chuyển bị hạn chế bởi mùa mưa tại một số nước ở Đông Nam Á. Nhiều nhà phân tích dự báo việc vận chuyển sẽ chỉ trở lại bình thường sau tháng 03.
Hầu hết các nhà quan sát thị trường đều dự đoán giá NPI sẽ vẫn không thay đổi trong thời gian ngắn nhờ sự hỗ trợ từ nguồn cung hạn chế cũng như nhu cầu ổn định từ các nhà sản xuất thép không gỉ. Sự biến động nhỏ là có thể nhưng trước Tết Nguyên đán giá sẽ ở quanh mức hiện nay.
Baosteel duy trì giá xuất xưởng cho thép không gỉ
Baosteel đã duy trì giá xuất xưởng cho thép cuộn không gỉ austenite do giá trên thị trường ít thay đổi trong tháng này so với tháng trước.
Chào giá xuất khẩu của Baosteel cho HRC 304 3mm và CRC 2mm duy trì lần lượt là 2.650 NDT/tấn và 2.850 NDT/tấn FOB Trung Quốc, để giao đến đầu tháng 01.
Việc đặt hàng có lẽ sẽ gia tăng nhanh hơn trước Tết Nguyên đán (19-25/2) do chào giá hiện nay là để giao hàng sau khi gián đoạn và hoạt động thị trường sẽ khôi phục khi kinh doanh bắt đầu trở lại.
Giá thép không gỉ Trung Quốc được hỗ trợ bởi giá NPI, khi nguyên liệu này vẫn còn khá cao trong tháng qua mặc dù giá kim loại niken thấp hơn.
Giá giao dịch chính thức bằng tiền mặt của niken trên sàn London Metal Exchange đã giảm khoảng 2.000 USD/tấn từ giữ tháng 12 đến đầu tháng 01, trước khi phục hồi được cỡ 1.000 USD/tấn lên 15.430-15.435 USD/tấn hôm 09/01.
Giá trên thị trường giao ngay của CRC loại 304 2mm 2B được sản xuất bởi nhiều nhà máy thép không gỉ lớn của Trung Quốc được nghe nói là 2.300-2.400 USD/tấn FOB trong tuần trước, so với 2.350-2.450 USD/tấn FOB hồi đầu tháng 12.
Giá xuất khẩu phế Mỹ tháng 11 bình ổn, doanh số bán vào Trung Đông tăng
Giá xuất khẩu phế Ferrite Mỹ vẫn tương đối bình ổn trong tháng 11 so với tháng trước, mặc dù doanh số bán ra Thổ Nhĩ Kỳ sụt giảm mạnh do các nhà xuất khẩu Mỹ đặt mục tiêu thâm nhập vào các nước Trung Đông.
Thổ Nhĩ Kỳ đã trở thành khách hàng lớn nhất của Mỹ trong tháng 11 lần thứ hai trong năm 2014. Đài Loan nhập khẩu 231.989 tấn so với mức 182.469 tấn của Thổ Nhĩ Kỳ. Hàn Quốc là khách hàng lớn thứ ba với 136.508 tấn.
Mỹ xuất khẩu 118.997 tấn phế tới Ai Cập, lớn nhất trong 20 tháng. Ả Rập Saudi là khách hàng lớn nhất tháng thứ 2 liên tiếp, với 77.988 tấn trong tháng 11. Qatar và Kuwait nhập lần lượt 44.000 và 42.772 tấn. Một lô hàng lớn được bán sang Qatar lần đầu tiên trong gần 1 thập kỷ trong khi Kuwait nổi lên như một khách hàng thường xuyên trong năm 2014.
Xuất khẩu phế Mỹ tổng cộng trong tháng 11/2014 là 1.35 triệu tấn, tăng từ mức 1.34 triệu tấn tháng 10 và 1.23 triệu tấn trong tháng 11/2013.
Giá ống đúc Trung Quốc bị áp lực bởi giá thép tròn đặc giảm
Thị trường giao ngay của ống đúc ở miền đông hôm thứ Hai ổn định mặc dù sức ép đang gia tăng. Sau khi có thông báo từ một số nhà sản xuất lớn về việc sẽ giảm giá thép tròn đặc loại thương phẩm từ ngày 11-20/01.
Theo đó, thép tròn đặc 20# 50-130mm được sản xuất từ Zenith Steel Group và Changqiang Iron & Steel – hai nhà sản xuất lớn ở tỉnh Giang Tô- giảm 100 NDT/tấn (16 USD/tấn) còn lần lượt 2.900 NDT/tấn (467 USD/tấn) và 2.850 NDT/tấn (459 USD/tấn) xuất xưởng gồm VAT.
Hai nhà máy này trước đó đã cắt giảm 50 NDT/tấn cho giai đoạn đầu tháng 01 do nhu cầu suy yếu từ các nhà máy ống đúc.
Cũng trong ngày chủ nhật, giá thép tròn đặc được cung cấp bởi Huaigang Special Steel ở Giang Tô và Weifang Special Steel ở Sơn Đông duy trì lần lượt ở mức 2.920 NDT/tấn và 2.700 NDT/tấn gồm VAT. Huaigang và Weifang trước đó đã giảm giá xuất xưởng cho thép tròn đặc tới 130 NDT/tấn từ ngày 01-10/01.
Cùng với sự cắt giảm trong giá thép nguyên liệu đầu vào, nhiều thương nhân ở Thượng Hải vẫn đang chờ xem. Họ đang chào giá ống đúc loại 20# 219x6mm (GB/T 8163) được sản xuất từ các nhà máy ở miền đông là 3.550 NDT/tấn (572 USD/tấn) gồm VAT 17%, bằng với định giá hôm thứ sáu tuần trước.
Nhiều người sẽ đợi xu hướng thị trường rõ ràng hơn để xuất hiện trước khi thực hiện bất kỳ sự cắt giảm nào, do các nhà máy thép ống với lợi nhuận khiêm tốn có lẽ sẽ lưỡng lự để giảm giá xuất xưởng thêm nữa bởi vì mùa đông u ám.
Các nhà máy thép cuộn Mỹ có thể phải cắt giảm sản lượng
Các nhà máy thép cuộn Mỹ hiện chỉ còn 2 lựa chọn trước bối cảnh giá giảm: một là chờ cho tới khi thị trường rõ ràng hơn, còn hai là cắt giảm sản lượng.
Một nhà máy hàng đầy phàn nàn rằng giá giảm trong khi hàng nhập khẩu leo thang và nhu cầu tiêu thụ suy yếu từ các lĩnh vực năng lượng và nông nghiệp đã gây áp lực nặng nề lên giá HRC. Gía HRC hiện dao động trong khoảng 560-580 USD/tấn và CRC trong khoảng 700-720 USD/tấn.
Trong khi vài nhà máy EAF đã bắt đầu giảm sản lượng thì quá trình này còn chậm và thậm chí khó khăn hơn cho các nhà máy tích hợp dựa vào bản chất được ăn cả ngã về không của một lò cao.
Một tủng tâm dịch vụ cho biết các nhà máy sẽ chọn cách rút khỏi thị trường trước khi có quyết định nghiêm túc nào trong việc cắt giảm sản lượng dựa vào giá nguyên liệu thô giảm.
Trong khi đó, các người mua nhỏ tiếp tục trả giá 580-600 USD/tấn đối với HRC.
Platts vẫn duy trì giá HRC tại mức 580-590 USD/tấn và CRC tại mức 720-730 USD/tấn xuất xưởng Midwest.
Feng Hsin giữ giá thép cây trong nước ổn định
Feng Hsin Iron & Steel đã giữ giá niêm yết cho thép thanh chịu lực không đổi từ hai tuần trước do giá thị trường ít thay đổi và trong khi nhận được sự hỗ trợ từ sức mua cải thiện.
Theo đó, giá thép cây đường kính chuẩn 13mm của Feng Hsin vẫn duy trì ở mức 15.900 Đài tệ/tấn (499 USD/tấn) xuất xưởng Đài Trung, áp dụng từ ngày 12/01.
Đơn hàng tại công ty khá tốt trong tuần trước do người mua sợ giá thép cây sẽ tăng sau khi Trung Quốc bỏ mức thuế 13% cho thép cây chứa bo xuất khẩu kể từ ngày 01/01.
Feng Hsin cũng đã bỏ qua thông báo giá trong tuần trước do rơi vào ngày nghỉ ở Đài Loan.
Công ty cũng không thay đổi giá mua phế và giữ ở mức 7.800 Đài tệ/tấn hôm thứ Hai. Nhà máy này chủ yếu mua phế HMS 1&2 80:20. Giá nhập khẩu của phế 80:20 vào cảng Đài Loan giảm 10 USD/tấn còn 265 USD/tấn CFR, theo The Steel Index.
Giá thép dầm hình H ở Nhật Bản suy yếu
Thị trường thép dầm hình H ở Nhật Bản đã bắt đầu suy yếu khi đối mặt với sức ép từ yêu cầu hạ giá của khách hàng. Giá thị trường hiện nay cho thép dầm hình H SS400 cỡ lớn ở Tokyo khoảng 79.000-80.000 Yên/tấn (669 USD/tấn), giảm 1.000 Yên/tấn so với một tháng trước.
Vấn đề của những nhà phân phối là các nhà sản xuất thép dầm H đã giữ giá niêm yết cho giá giao ngay, các đại lý đã và đang cố gắng làm giống như vậy. “Nhưng các nhà máy có vẻ như đang chào giá thấp hơn nhiều cho thép dầm được dùng trong dự án thay vì để bán giao ngay, và nhiều khách hàng đang yêu cầu chúng tôi có sự nhượng bộ giống vậy”, một nhà phân phối ở Tokyo nói. Ông nhấn mạnh rằng mức giảm giá cho các khách hàng trong lĩnh vực xây dựng khác nhau nhưng nhiều người đang yêu cầu giảm 2.000-3.000 Yên/tấn.
Nippon Steel & Sumitomo Metal Corp (NSSMC) quyết định sẽ duy trì giá thép dầm hình H cho những hợp đồng tháng 12, giống như Tokyo Steel Manufacturing đã thực hiện cho hợp đồng tháng 01. NSSMC không tiết lộ giá niêm yết nhưng giá thép dầm hình H cỡ lớn của Tokyo Steel cho những hợp đồng tháng 01 vẫn ở mức 77.000 Yên/tấn.
Một nhà phân phối khác ở Tokyo cho biết giá phế suy yếu hơn cũng đang khuyến khích các nhà thầu lớn muốn hạ giá. Người mua chỉ đang mua khối lượng nhỏ vì họ kỳ vọng giá sẽ còn rớt sâu hơn.
Ngoài ra, nhu cầu thép xây dựng trong 3 tháng đầu năm thường thấp hơn so với quý trước đó do các yếu tố mùa vụ, vì vậy chúng tôi dự báo sẽ không có bất cứ điều gì khiến chúng tôi nghĩ là khách hàng sẽ chấp nhận mức giá cao hơn. Nhu cầu thép thông dụng dùng cho xây dựng từ tháng 01 đến tháng 03 được dự báo sẽ giảm 3,1% so với quý trước đó còn 5,6 triệu tấn.
Thời tiết mùa đông ảnh hưởng xấu tới giá thép cây Thổ Nhĩ Kỳ
Do thời tiết mùa đông khắc nghiệt tiếp tục kìm hãm nhu cầu tiêu thụ thép, giá thép cây 12-32mm của các nhà môi giới tiếp tục suy yếu thêm 15 TRY/tấn (7 USD/tấn) tuần này, xuống mức thấp 1.395 TRY/tấn (610 USD/tấn) đã tính 18% VAT tại khu vực Marmara. Gía giảm sau sự suy yếu nhẹ của đồng Lira so với đồng dolla trong những tuần đần đây.
Tuy nhiên, giá thép xuất xưởng vẫn bình ổn kể từ giữa tháng 12 trong khi dự báo nhu cầu tiêu thụ ở cả thị trường trong và ngoài nước hồi phục sau Năm mới vẫn chưa rõ ràng.
Công ty Kardemir vẫn duy trì giá thép cây tại mức 1.204 TRY/tấn xuất xưởng (526 USD/tấn) kể từ ngày 19/12, trong khi công ty Icdas chào bán thép cây 12-32mm tại mức 1.425 TRY/tấn xuất xưởng (623 USD/tấn), tương đương mức 511 USD/tấn chưa tính VAT 18%, không đổi so với giữa tháng 12.
Giá cuộn trơn 7-8.5mm của công ty cũng bình ổn ở mức 1.450-1.480 TRY/tấn (634-647 USD/tấn) xuất xưởng, đã tính VAT 18%.
Shagang giảm giá thép cây giữa tháng 01 xuống 5 USD/tấn
Shagang đã cắt giảm giá xuất xưởng thép cây từ ngày 11-20/01 xuống 30 NDT/tấn (5 USD/tấn) hôm 11/01, đây là lần giảm thứ ba liên tiếp của nhà máy này kể từ cuối tháng 12. Do đó giá của Shagang cho thép cây HRB400 đường kính 16-25mm còn 2.790 NDT/tấn (450 USD/tấn) gồm VAT 17%. Kể từ đầu tháng 12, nhà máy này đã giảm giá thép cây xuống tổng cộng 230 NDT/tấn.
Đồng thời hôm chủ nhật, “gã khổng lồ” này cũng hạ giá xuất xưởng cho cuộn trơn HPB300 xuống mức tương tự 30 NDT/tấn còn 2.830 NDT/tấn gồm VAT.
Chiến lược giá đi xuống của Shagang cho thấy nhu cầu tiêu thụ suy yếu đối với thép xây dựng. Tại thị trường quan trọng Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang hôm thứ Hai, giá giao ngay của thép cây HRB400 đường kính 16-25mm được sản xuất bởi Shagang giảm còn 2.720-2.730 NDT/tấn, thấp hơn 10 NDT/tấn so với thứ Sáu tuần trước và đánh dấu mức giảm tổng cộng khoảng 70-80 NDT/tấn kể từ đầu năm.
Tương tự, thị trường thép cây ở miền bắc cũng đã và đang trải qua sự lao dốc kể từ khi cả nước trở lại sau Tết dương lịch. Về phía thị trường bán lẻ ở Bắc Kinh hôm thứ Hai, giá giao ngay cho thép cây HRB400 đường kính 18-25mm giảm 35 NDT/tấn so với thứ sáu tuần trước chạm 2.250-2.260 NDT/tấn trọng lượng lý thuyết và gồm VAT.
Một đại lý Bắc Kinh cho biết người bán hiện đang sẵn sàng cung cấp chiết khấu trên giá mua cố định, do không ai muốn giữ hàng dự trữ vì triển vọng thị trường nói chung rất bi quan. Sự mất niềm tin của thị trường thể hiện rõ qua sự sụt giảm của giá kỳ hạn. Hôm thứ Hai, hợp đồng thép cây giao kỳ hạn trên sàn Shanghai Futures Exchange giao tháng 05 cũng đánh dấu sự sụt giảm mạnh 2,15% chốt ở mức 2.502 NDT/tấn.
Tuy nhiên, một số dự án cơ sở hạ tầng sẽ được đưa ra ở Bắc Kinh vào nửa cuối năm 2014, nên những dự án như vậy sẽ giúp cải thiện thị trường lúc đó.
Giá HRC ở Trung Quốc giảm sâu, niềm tin vẫn còn suy yếu
Giá giao ngay của HRC giảm trên cả thị trường Thượng Hải và Lecong ngày đầu tuần do sức mua suy yếu và đủ nguồn cung. Nhiều thương nhân ở hai thị trường này trao đổi với Platts rằng họ dự báo giá sẽ giảm sâu hơn trong thời gian tới. Platts định giá HRC Q235 5.5mm ở Thượng Hải là 2.940-2.970 NDT/tấn (474-479 USD/tấn), giảm 35 NDT/tấn so với thứ sáu trước. Thép cuộn chất lượng tương tự ở Lecong được định giá ở mức 3.020-3.150 NDT/tấn gồm VAT, thấp hơn 105 NDT/tấn so với tuần trước.
“Sức mua suy yếu và nguồn cung HRC tăng ở Thượng Hải có thể sụt giảm thêm nữa”. Giá HRC không thể tránh khỏi sự lao dốc khi các sản phẩm khác bị ảnh hưởng bởi động thái tăng thuế của Bắc Kinh cho thép chứa bo từ ngày 01/01. Nhưng sự phản đối từ phía người mua đang khiến việc xuất khẩu suy yếu hơn, từ đó gia tăng thêm sức ép trở lại thị trường trong nước do nguồn cung lớn.
So với tuần trước, giá HRC ở Lecong đã giảm 50 NDT/tấn so với giá tại Thượng Hải bởi vì miền nam đang phải gánh chịu tình trạng nguồn cung dư thừa nghiêm trọng. Một người cho biết điều này là do nguồn hàng gia tăng từ Liuzhou Iron & Steel, dẫn đến tồn kho cao hơn ở thị trường Lecong và tạo thêm áp lực lên giá.
Nhiều đại lý ở Lecong trao đổi với Platts rằng giá HRC đã thay đổi nhiều trên thị trường. Nghe nói HRCQ235 5.5mm đang được chào giá thấp chỉ có 3.000 NDT/tấn ở Lecong nhưng các đại lý này đã bán tháo HRC, do suy đoán giá sẽ giảm sâu hơn. Nhưng do Platts không thể xác nhận liệu họ có thể giao hàng trong vòng một tuần hay không nên mức giá này không được đưa vào định giá của Platts. Một vài nhà máy lớn chẳng hạn như Anshan Iron & Steel đã giữ chào giá ở mức cao hơn nhiều là 3.200 NDT/tấn do họ tin chất lượng thép của mình có thể dẫn đầu trên thị trường. Tuy nhiên, Platts không thể xác nhận giao dịch được ký kết ở mức giá cao như vậy. Tất cả các giá trên đều đã bao gồm VAT 17%.