HRC nhập khẩu vào Ai Cập bị hạn chế khiến giá trong nước tăng
Người mua HRC Ai Cập đang phải đối mặt với vấn đề nguồn cung khan hiếm do hàng nhập khẩu gặp khó khăn vì các ngân hàng từ chối cấp thư tín dụng và nhà sản xuất trong nước Ezz Steel muốn xuất khẩu để đổi lấy ngoại tệ (đôla Mỹ).
Tuy nhiên, sức mua không đủ lớn để dẫn đến sự lo ngại quá mức hay khiến giá cả lạm phát mặc dù niềm tin đối với nền kinh tế đã cải thiện hơn kể từ khi hiến pháp mới ra đời vào tháng trước.
Kinh doanh nhập khẩu đang trở thành vấn đề nhức đầu vì thiếu hụt ngoại tệ trong khi các ngân hàng lại không chịu cấp thư tín dụng. “Hiện nay, không dễ để tìm được cái mà anh đang tìm kiếm nhưng dù sao thì nhu cầu cũng không lớn. Tuy nhiên, nếu sức mua tăng thì tình trạng này sẽ khiến giá cả leo thang”, một thương nhân nói.
“Nếu chúng ta nói về hàng nhập khẩu vào Ai Cập thì chúng ta đang nói về sự lãng phí thời gian. Không có nhiều hoạt động kinh doanh nhập khẩu tại thời điểm này. Nó chỉ được thực hiện bởi các công ty lớn có đủ khả năng tài chính”, một thương nhân khác nói.
Ezz Steel đã nâng giá HRC đặt mua tháng 02 thêm 100 EGP/tấn (14 USD/tấn) lên 4.884 EGP/tấn (701 USD/tấn) xuất xưởng bao gồm thuế bán hàng 11%. Mức giá được nâng lên một phần là do đồng pound Ai Cập suy yếu so với đồng bạc xanh, mà Ezz Steel lại dùng đôla Mỹ để mua nguyên liệu nhập khẩu. Chào giá xuất khẩu của công ty này là 600 USD/tấn FOB, với sức tiêu thụ mạnh từ thị trường Saudi Arabia. Trong khi đó, chào giá HRC nhập khẩu từ Nga và Ukraina lần lượt được chốt tại 570 USD/tấn CFR và 565 USD/tấn CFR.
Thị trường Ferrochrome Trung Quốc trầm lắng sau Tết
Giá giao ngay trong nước của ferrochrome hàm lượng cacbon cao (50% Cr) hôm thứ Tư tại Trung Quốc là 6.750-6.900 NDT/tấn (84-86 cents/pound), không đổi so với ngày 29/01, do thiếu hoạt động giao dịch vì thị trường nước này chỉ mới vừa mở cửa trở lại sau Tết. Giá ngày 05/02 không được xác định do nghỉ Tết.
Nhiều người không thể đạt được mức giá hôm thứ Tư. Mặc dù kỳ nghỉ Tết chính thức kéo dài chỉ có 1 tuần (31/01-06/02) nhưng một số công ty sẽ mở cửa trở lại và nhân viên của họ chỉ quay lại làm việc sau ngày 14/02, tức rằm tháng Giêng.
“Thị trường ferrochrome vẫn còn im ắng sau Tết. Giao dịch vẫn chưa tăng trở lại”, một nhà phân tích ở Bắc Kinh nói. Bà nhấn mạnh rằng chào giá từ Nội Mông Cổ vẫn không đổi so với trước Tết tại 6.750 NDT/tấn xuất xưởng. Bà dự đoán giá có lẽ sẽ duy trì ổn định trong tuần tới khi mà có nhiều người hơn quay lại thị trường. “Chi phí sản xuất ferrochrome, giá quặng chrome và cả giá thép không gỉ hầu như đều thay đổi”, bà nói.
Một thương nhân ở miền bắc Trung Quốc cho biết công ty của bà không chốt bất kỳ hợp đồng nào nhưng đã nhận được một số yêu cầu trong tuần này. “Những mức giá đặt mua từ các khách hàng đều không cao, chỉ khoảng 6.800-6.850 NDT/tấn giao tới nhà máy”, bà nói. Mức giá thấp nhất mà công ty bà có thể chấp nhận là 6.900 NDT/tấn. “Một số nhà máy đang vội vàng thu mua sau Tết nhưng dường như giá sẽ không tăng, dựa trên mức giá mà họ đang đưa ra”, bà cho biết thêm.
Còn một thương nhân ở Thượng Hải đã nhận được rất ít yêu cầu trong tuần này. “Các khách hàng dường như không vội mua, nhu cầu không nhiều nên giá có lẽ sẽ chịu sức ép lớn trong tuần tới”.
Thép cây miền bắc Trung Quốc ổn định, đang đợi xu hướng thị trường rõ ràng hơn
Giá thép cây tại miền bắc Trung Quốc vẫn duy trì ổn định hôm thứ Tư do hầu hết các đại lý dường như không vội cắt giảm giá bán mà muốn chờ xem toàn cảnh thị trường rõ ràng hơn khi họ chỉ mới quay lại thị trường vào đầu tuần này.
Hôm thứ Ba, nhà sản xuất thép hàng đầu trong khu vực Hebei Iron & Steel (Hegang) lại yêu cầu các đại lý lớn ở Bắc Kinh giữ giá bán của họ đối với thép cây HRB400 đường kính 18-25mm tại mức thấp nhất là 3.200 NDT/tấn (528 USD/tấn) tính theo trọng lượng lý thuyết, đã giúp hỗ trợ phần nào cho thị trường giao ngay.
Do giá trên thị trường giao ngay ở Bắc Kinh thay đổi từ trọng lượng thực tế sang trọng lượng lý thuyết bắt đầu áp dụng từ tuần này nên các thương nhân đã hạ giá chào bán của họ dưới mức giá trước Tết, kết quả của các khoản chiết khấu cho dung sai khối lượng. Nhưng sau khi Hegang đưa ra mức giá sàn cho hàng bán giao ngay và việc tăng giá xuất xưởng tham khảo của nhà máy này vào giữa tháng 02, giá trên thị trường đã được đẩy lên lại vào chiều thứ Ba.
Đa số các thương gia đều giữ giá bán thép cây HRB400 đường kính 18-25mm được sản xuất từ nhà máy Hegang khoảng 3.200 NDT/tấn tính theo trọng lượng lý thuyết, có tính đến dung sai khối lượng 3% được thị trường chấp nhận, nghĩa là sẽ tăng khoảng 100 NDT/tấn so với giá tính theo trọng lượng thực tế trước Tết.
Platts định giá giao ngay Bắc Kinh cho thép cây HRB400 đường kính 18-25mm không đổi so với thứ Ba và chốt tại 3.280-3.300 NDT/tấn gồm VAT 17%, trọng lượng thực tế.
Việc chuyển đổi cách tính giá đã khiến một số thương nhân đứng ngoài thị trường để chờ xu hướng rõ ràng hơn, trong khi sức mua phục hồi chậm chạp cũng có nghĩa là các thương nhân thu được rất ít từ việc hạ giá chào bán của họ.
Hợp đồng thép cây giao kỳ hạn tháng 05 trên sàn tăng 0,21% và chốt tại 3.393 NDT/tấn sau khi giảm 1,02% trong ngày thứ Ba.
Giá cuộn trơn tại thị trường miền đông Trung Quốc giảm nhẹ do các thương nhân đã quay lại thị trường trong tuần này sau kỳ nghỉ Tết. Nhiều thương nhân trước đây giữ chào giá xuất khẩu cao nhưng nay cũng đã hạ bớt xuống. Tuy nhiên, cũng có một số thương nhân và nhà máy đang chờ xem cho đến khi toàn cảnh thị trường trở nên rõ ràng hơn.
Tại thị trường giao ngay ở Thượng Hải hôm thứ Tư, cuộn trơn Q195 đường kính 6.5mm giảm còn 3.280-3.300 NDT/tấn (541-544 USD/tấn) gồm VAT 17%, giảm so với mức 3.310-3.320 NDT/tấn hồi trước Tết.
Do sức mua phục hồi chậm chạp sau kỳ nghỉ Tết và thời tiết lạnh đã tạo sức ép khiến giá đi xuống. Một thương nhân nghĩ rằng niềm tin thị trường tiếp tục suy yếu cũng đã gây thêm áp lực lên giá thị trường giao ngay.
Một nhà xuất khẩu cũng tỏ ra bi quan về triển vọng thị trường xuất khẩu, với giá nguyên liệu và nhu cầu tiêu thụ hạ nguồn đều giảm, ông dự đoán giá xuất khẩu có khả năng sẽ hạ thêm nữa.
Theo các nguồn tin thị trường, chào giá Trung Quốc cuộn trơn SAE1008 đường kính 6.5mm đã giảm nhẹ còn khoảng 500-515 USD/tấn FOB, sau khi các nhà cung cấp lớn hạ giá từ 520 USD/tấn FOB của tháng trước xuống còn 515 USD/tấn FOB.
Nghe nói lượng thu mua rất thưa thớt trong tuần này, do các khách hàng cũng đang chờ cho thị trường rõ ràng hơn. Platts định giá cuộn trơn SAE1008 đường kính 6.5mm xuất xứ Trung Quốc không đổi so với trước Tết vẫn duy trì tại 500-510 USD/tấn FOB.
Giá HRC Ấn Độ vẫn không được điều chỉnh mặc cho thị trường phản kháng
Giá HRC tại thị trường Ấn Độ vẫn giữ nguyên giá bất chấp sự kháng cự lại việc tăng giá. Những nhà quan sát thị trường nói rằng các nhà máy Ấn Độ không sẵn lòng giảm bớt giá thép, vì vậy những người tiêu dùng HRC trong nước đã rời khỏi thị trường giao ngay trong một cuộc đấu giá nhằm gây sức ép cho các nhà sản xuất để điều chỉnh giá đi xuống.
Giá giao dịch trong nước của HRC loại IS 2062 A/B, dày từ 3mm trở lên, kể từ hôm thứ Tư là 38.000-39.000 Rupees/tấn (611-627 USD/tấn) xuất xưởng, tăng 1,3% so với tháng trước. Mức giá này tương đương với giá nhập khẩu khoảng 568-581 USD/tấn CFR Mumbai bao gồm thuế nhập khẩu 7,5%.
Một quan chức nhà máy Mahindra Intertrade- nhà sản xuất ô tô hàng đầu của Ấn Độ- không muốn cam kết bất kỳ đơn đặt hàng nào ở mức giá cao như vậy, ông nói rằng giá HRC phải theo xu hướng thị trường chứ không phải ăn theo nguyên liệu.
“Các nhà máy ở Ấn Độ một lần nữa nói rằng chính nguyên liệu đầu vào đang khiến chi phí sản xuất của họ gia tăng nhưng điều này không thể biện minh cho những lần tăng giá trong hai tháng liên tiếp”, ông nói với Platts. Giá HRC nội địa trong tháng 01 đã được nâng lên cao hơn 2,8% so với tháng 12 tương đương 1.000 Rupees/tấn tới 37.000-38.000 Rupees/tấn.
Một thương nhân ở Mumbai nói rằng với việc quay trở lại thị trường của các nhà xuất khẩu Trung Quốc trong tuần này sau kỳ nghỉ Tết, có một số tín hiệu cho thấy sự suy yếu trong giá nhập khẩu HRC Trung Quốc- do giá HRC nội địa tại Trung Quốc đang đi xuống- khiến thép cuộn loại này là mặt hàng thay thế có tính cạnh tranh với HRC Ấn Độ.
Theo các nguồn tin trong ngành chốt giá HRC loại tiêu chuẩn hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc khoảng 565-575 USD/tấn CFR Mumbai.
“Tôi thấy không có lý do gì để phản ứng lại việc tăng giá. Chúng tôi đang điều chỉnh lại giá bán để phản ánh đúng tâm lý thị trường do nguồn cung bị hạn chế. Tuy hàng nhập khẩu từ Trung Quốc bắt đầu có vẻ hấp dẫn nhưng thời gian giao hàng sẽ kéo dài đáng kể nếu người tiêu dùng chọn mua. Vì vậy, rốt cuộc thì các khách hàng trong nước sẽ vẫn phải mua từ nhà máy chúng tôi”, một nhà sản xuất thép ở Mumbai nói.
Hiện nay Bhushan Steel, Essar Steel, JSW Steel và Steel Authority của Ấn Độ đang gấp rút giảm công suất hoạt động.
Tín dụng hạn chế và hàng tồn kho nhiều đang gây sức ép lên giá HDG Trung Quốc
Giá HDG tại thị trường Trung Quốc vẫn duy trì ổn định trong tuần này. Các đại lý cho biết giao dịch từ thứ Hai đến thứ Tư vẫn còn chậm, mặc dù có cải thiện được đôi chút và đa số các thương nhân hiện nay cũng đã quay lại thị trường. Một số đại lý ở Thượng Hải lo ngại rằng hàng tồn kho đang dần gia tăng sẽ gây ảnh hưởng xấu đến giá trong ngắn hạn.
Hôm thứ Tư, HDG DX51D dày 1.0mm phủ 80 gram kẽm trên một mét vuông được giao dịch phổ biến quanh mức 4.460-4.530 NDT/tấn (730-742 USD/tấn) xuất xưởng gồm VAT 17% tại Thượng Hải, bằng với mức giá niêm yết của Platts hôm 07/02.
Giá HDG không dát kẽm vẫn tương đối cao so với loại có phủ kẽm. Một số thương gia ở Thượng Hải cho biết họ đã ngừng mua HDG không dát kẽm từ một số nhà máy bởi vì giá cao và điều này đã khiến nguồn cung của một số loại thép có các thông số kỹ thuật nhất định bị thiếu hụt nên có thể hậu thuẫn cho giá HDG trong nước ở một chừng mực nào đó.
Một đại lý ở Thượng Hải cho hay hàng tồn kho của công ty đã tăng nhanh trong vài ngày qua do hàng giao từ các nhà máy trong suốt những ngày nghỉ Tết hiện đang được nhập kho. Sau Tết ông này đã giảm giá niêm yết xuống một chút nhưng cũng hạn chế tối đa việc đưa ra các khoản chiết khấu để giữ giá giao dịch không đổi.
Một thương gia Thượng Hải khác nói rằng ông chỉ có được một vài hợp đồng hôm thứ Tư và tỏ ra bi quan về thị trường trong năm 2014. Tình hình kinh doanh thậm chí có thể trở nên khó khăn hơn do thuế chống bán phá giá và chống trợ cấp nên cơ hội xuất khẩu bị hạn chế và tín dụng thắt chặt tiếp tục gây ảnh hưởng đến các thương nhân.
“Lượng thép tồn kho có xu hướng tiếp tục gia tăng trong 2-3 tuần tới do công suất vận tải hàng hóa bằng đường sắt sẽ tăng trở lại sau khi quá tải vào dịp Tết; ngoài ra sản lượng thép có lẽ sẽ vẫn ở mức cao và cả hai yếu tố này sẽ gây sức ép lên giá thép trong tháng 02”, một nhà phân tích ở Thượng Hải nói với Platts.
Baosteel đưa ra các khoản chiết khấu cho HRC
Baosteel đã thông báo hôm 12/02 rằng sẽ giữ giá xuất xưởng HRC không đổi trong tháng 03. Tuy nhiên, nhà máy cho biết sẽ thêm khoản chiết khấu 100 NDT/tấn (16 USD/tấn) cho các khách hàng đặt mua trước ngày 18/02 và giảm 50 NDT/tấn đối với các đơn hàng đặt trước ngày 24/02.
Theo đó, HRC Q235 5.5mm có giá niêm yết xuất xưởng vẫn không đổi so với tháng 02 tại 4.352 NDT/tấn chưa có VAT 17%, còn CRC SPCC 1.0mm được nâng lên 4.976 NDT/tấn chưa có VAT. Giá niêm yết HRC tháng 02 của Baosteel được điều chỉnh lại để bao gồm các khoản chiết khấu trước đó của công ty.
Một số thương nhân nói rằng ngành công nghiệp ô tô gần như là lĩnh vực duy nhất gần đây có nhu cầu tiêu thụ nhiều sản phẩm thép dẹt, chủ yếu là CRC và HDG, đó là lý do tại sao Baosteel lại có thể nâng giá xuất xưởng các sản phẩm của họ lên. Nhưng thị trường HRC nhất là HRC tiêu chuẩn hàng hóa vẫn còn rất ảm đạm, các thương nhân thấy khó để nâng giá giao ngay lên cao hơn.
Hôm thứ Tư, HRC Q235 5.5mm có giá 3.420-3.440 NDT/tấn gồm VAT 17% tại Thượng Hải và 3.540-3.570 NDT/tấn đã có VAT tại thị trường Lecong (Quảng Đông), giảm lần lượt 5 NDT/tấn và 20 NDT/tấn so với ngày trước đó.
Các thương nhân cho biết do hàng tồn kho trên thị trường tăng trong những ngày nghỉ Tết nên các nhà tích trữ dự định giảm bớt hàng trong kho vì họ dự đoán giá sẽ không thể tăng đáng kể trong tháng 02 do sức mua trì trệ và tín dụng hạn chế.
Theo các nguồn tin thị trường, HRC tồn kho tại 33 thành phố lớn Trung Quốc tăng 250.000 tấn tương đương 6,5% từ 3,88 triệu tấn (24/01) lên 4,14 triệu tấn (07/02).