Giá nhập khẩu ferrochrome Trung Quốc được hỗ trợ bởi Ấn Độ giảm xuất khẩu
Platts định giá giao ngay cho ferrochrome (58-60% Cr) 79-81 cents/lb CIF Trung Quốc, không đổi so với tuần trước nhờ được hỗ trợ bởi việc giảm tỷ lệ xuất khẩu của Ấn Độ.
Không có giao dịch nào có thể được xác nhận trong khi chào giá thưa thớt trong tuần trước do đơn hàng hạn chế từ người mua Trung Quốc. Một nhà sản xuất thép không gỉ miền đông Trung Quốc đã nhận được chào giá 79,5 cents/lb CIF. Nhưng giá mua của công ty đưa ra chỉ từ 79 cents/lb CIF hoặc thấp hơn.
Một nhà sản xuất đã bán ở mức 82 cents/lb CIF hai tuần trước, nhưng giá này cao hơn so với mức trên thị trường hiện nay do kích cỡ quặng nhỏ. Đại diện một nhà sản xuất cho biết giá sẽ tương đương 81 cents/lb CIF cho quặng có kích thước 10-150mm.
Người mua Trung Quốc dự báo 79-79.5 cents/lb CIF là có thể giao dịch cho ferrochrome Ấn Độ nhưng các nhà cung cấp Ấn Độ hầu hết đang yêu cầu mức giá trên 80 cents/lb CIF.
Chào giá được hỗ trợ bởi Ấn Độ giảm tỷ lệ trợ cấp xuất khẩu cho ferrochrome còn 2% từ 4% áp dùng từ ngày 01/4. Nhà sản xuất Ấn Độ cho biết ông đang tìm cách bán với giá 82 cents/lb CIF trong tuần trước. Ông dự báo các nhà xuất khẩu Ấn Độ sẽ cần phải bán với giá cao hơn 1.5-2 cents/lb để bù đắp sự sụt giảm này.
Giá thép cuộn không gỉ Châu Á giảm nhẹ cùng với niken và sức mua yếu
Platts định giá giao ngay cho CRC loại 304 2B dày 2mm hôm thứ Sáu tuần trước của Đài Loan và Hàn Quốc là 2.150-2.200 USD/tấn CFR tại các cảng chính ở Đông Á và Đông Nam Á, giảm từ 2.180-2.250 USD/tấn CFR của ngày 02/4 do giá niken cùng với nhu cầu suy yếu.
Một giao dịch 200-300 tấn CRC Đài Loan được nghe nói có giá 2.150 USD/tấn CFR Hong Kong, trong khi một giao dịch CRC của Hàn Quốc với khối lượng tương tự được ký kết ở mức 2.350 USD/tấn CFR Hong Kong trong tuần trước. Giao dịch sau đó tương đương 2.200 USD/tấn CFR cho CRC 2mm.
Chào giá và giá bán cho CRC Đài Loan được nghe nói là 2.200-2.250 USD/tấn CFR cảng lớn Đông Á và Đông Nam Á, còn CRC Hàn Quốc có giá 2.150-2.220 USD/tấn CFR. “Chào giá đều có thể thương lượng được. Một vài khách hàng nghĩ rằng giá hiện giờ là rẻ và sẵn sàng mua thêm”. Chào giá nhập khẩu hiện nay đã giảm tới gần bằng mức giá trong nước ở Trung Quốc.
Một vài thương nhân cũng ghi nhận hoạt động thu mua chậm chạp, một phần là do tuần làm việc ngắn hơn trong khu vực vào tuần trước do rơi vào lễ Phục Sinh và Thanh minh.
Giá giao dịch chính thức bằng tiền mặt của niken trên sàn London Metal Exchange giảm thêm 500 USD/tấn kể từ cuối tháng 03 xuống còn 12.540-12.545 USD/tấn hôm 09/4.
Gía phế Mỹ khối lượng nhỏ xuất khẩu sang Đài Loan quay đầu giảm
Gía phế khối lượng nhỏ Mỹ xuất khẩu sang Đài Loan đã giảm còn 233-235 USD/tấn CFR Đài Loan trong tuần này.
Sau khi giảm còn 220 USD/tấn cách đây 3 tuần, giá đã leo lên một cách bình ổn, chạm mốc cao 245 USD/tấn CFR trong tuần qua do các nhà máy Đài Loan bắt đầu thu mua lại. Tuy nhiên, giá lại giảm trở lại trong tuần này do tâm lý thị trường suy yếu và quặng giảm giá.
Platts định giá phế HMS xuất khẩu bờ Tây Mỹ tại mức 210 USD/tấn FAS cảng LA trong ngày thứ sáu, giảm 10 USD/tấn so với ngày trước đó.
Tâm lý thị trường tiếp tục trì trệ do giá quặng giảm còn 47.75 USD/tấn CFR Bắc Trung Quốc.
Trong khi đó, mức tăng 20 USD/tấn của phế H2 Nhật trong phiên đấu thầu do Kanto Tetsugen tổ chức không đủ hỗ trợ tâm lý thị trường.
Giá nhập khẩu quặng chrome Trung Quốc giảm nhẹ
Giá giao ngay của quặng chrome xuất xứ Nam Phi (48-52% Cr) được chốt với mức 78-79.5 cents/lb CIF hôm thứ Sáu, thấp hơn một chút so với 78-80 cents/lb CIF của 1 tuần trước trong bối cảnh nhu cầu trì trệ và nguồn cung dồi dào. “Thị trường giao ngay khá yếu. Sức mua chậm”.
Một chào giá được nghe nói là 79.5 cents/lb CIF trong khi nhà sản xuất Nam Phi cho biết người mua Trung Quốc đang tìm mua với giá dưới 79 cents/lb CIF mặc dù công ty ông muốn bán ở mức này.
Các khách hàng Trung Quốc đều nhìn thấy mức giá có thể giao dịch là 77-78 cents/lb CIF. Tuy nhiên, chào giá như vậy không thể được chốt với người bán, một số cũng bày tỏ sự hoài nghi người bán sẽ sẵn sàng bán ở mức giá 77 cents/lb.
Giá ống đúc vẫn bình ổn ở miền đông Trung Quốc
Giá giao ngay cho ống đúc cacbon ở tỉnh Thượng Hải vẫn ổn định trong suốt tuần trước. Nguồn cung thép tròn đặc khan hiếm đã ngăn không cho thương nhân chào giá thấp hơn nhằm đáp lại sự trì trệ của nhu cầu.
Hôm 10/4, giá ống đúc giao ngay loại 20# 219x6mm (GB/T 8163) được sản xuất từ các nhà máy ở miền đông Trung Quốc là 3.250 NDT/tấn (524 USD/tấn) gồm 17% VAT ở Thượng Hải, bằng với định giá hôm 27/3.
Các hoạt động tại hai nhà cung cấp thép tròn đặc chủ chốt là Jiangxin Iron & Steel và Hujing Special Steel ở thành phố Lâm Nghi, Sơn Đông, vẫn bị ngưng trệ do yêu cầu từ chính quyền địa phương về việc nâng cấp thiết bị bảo vệ môi trường.
Đây là nguyên nhân dẫn đến nguồn cung thép tròn đặc và cả ống đúc trở nên khan hiếm. Tuy nhiên, do giá quặng sắt tiếp tục giảm nên thật khó để giá tăng trở lại.
Lâm Nghi là khu vực cung cấp ống đúc cacbon chủ chốt ở miền đông Trung Quốc.
Thị trường thép dây Mỹ bình ổn trong tháng 4 sau khi suy yếu hồi tháng 3
Gía thép dây Mỹ suy yếu trong tháng 3 nhưng dự báo sẽ bình ổn trong hầu hết tháng này. Plats cũng giảm giá thép dây dạng lưới xuống còn 520-530 USD/tấn xuất xưởng từ mức 525-545 USD/tấn.
Thị trường vẫn chưa đồng nhất về chênh lệch giá thép dây dạng lưới và thép dây chất lượng công nghiệp giữa 20-30 USD/tấn và 40-50 USD/tấn.
Trong tháng 3, vài đơn hàng giao ngay được chốt tại mức giá giảm 10 USD/tấn so với tháng 2, tuy nhiên, người mua cố gắng kìm giá và duy trì bình ổn trong tháng 4. Gía thép dây chất lượng công nghiệp đạt mức 535 USD/tấn xuất xưởng và thép dây dạng lưới giảm 10-15 USD/tấn.
Gía thép dây nội địa giảm phản ánh áp lực hàng nhập khẩu hiện tại. Tuy nhiên, nhờ giá thép trong nước giảm nên hàng nhập khẩu cũng ít thu hút hơn. Một nhà máy chào bán thép dây chất lượng công nghiệp tại mức giá 520-530 USD/tấn xuất xưởng. Trong khi đó, một thương nhân cho rằng mức 530 USD/tấn xuất xưởng là hợp lý cho thép dây dạng lưới tại Midwest.
Gía thép cây hầu như bình ổn trên khắp nước Mỹ ngoại trừ Florida
Gía thép cây tại Đông Nam Mỹ vẫn bình ổn nhờ nhu cầu tiêu thụ tăng nhưng giá thép tại Florida vẫn tiếp tục chịu áp lực từ hàng nhập khẩu.
Platts giảm giá thép cây hàng ngày xuống còn 550-590 USD/tấn xuất xưởng từ mức 570-590 USD/tấn do giá giao dịch thấp hơn tại Florida. Trong khi đó, Platts vẫn duy trì giá thép cây nhập khẩu tại mức 457-468 USD/tấn CIF Houston. Gía CIF Houston tương đương với giá mua tại các cảng Bờ Vịnh khác.
Do hàng nhập khẩu ồ ạt tràn vào Florida nên các nhà phân phối có thể mua với giá 550 USD/tấn. Một nhà phân phối cho biết đã giảm giá bán thép cây trong nước xuống do người tiêu thụ cuối có thể mua thép nhập khẩu với giá dưới mức 500 USD/tấn giao bằng xe tải.
Trong khi đó, giá ngoài khu vực Florida vẫn ở mức 590 USD/tấn xuất xưởng. Tại Đông Nam Mỹ, nơi mà hoạt động xây dựng gắn liền với nền công nghiệp hơn là phát triển tư nhân, giá thép vẫn ổn định.
Giá ống đúc vẫn bình ổn ở miền đông Trung Quốc
Giá giao ngay cho ống đúc cacbon ở tỉnh Thượng Hải vẫn ổn định trong suốt tuần trước. Nguồn cung thép tròn đặc khan hiếm đã ngăn không cho thương nhân chào giá thấp hơn nhằm đáp lại sự trì trệ của nhu cầu.
Hôm 10/4, giá ống đúc giao ngay loại 20# 219x6mm (GB/T 8163) được sản xuất từ các nhà máy ở miền đông Trung Quốc là 3.250 NDT/tấn (524 USD/tấn) gồm 17% VAT ở Thượng Hải, bằng với định giá hôm 27/3.
Các hoạt động tại hai nhà cung cấp thép tròn đặc chủ chốt là Jiangxin Iron & Steel và Hujing Special Steel ở thành phố Lâm Nghi, Sơn Đông, vẫn bị ngưng trệ do yêu cầu từ chính quyền địa phương về việc nâng cấp thiết bị bảo vệ môi trường.
Đây là nguyên nhân dẫn đến nguồn cung thép tròn đặc và cả ống đúc trở nên khan hiếm. Tuy nhiên, do giá quặng sắt tiếp tục giảm nên thật khó để giá tăng trở lại.
Lâm Nghi là khu vực cung cấp ống đúc cacbon chủ chốt ở miền đông Trung Quốc.
Gía thép cây Nga giảm, lợi nhuận bốc hơi
Trong tuần qua, các nhà máy thép cây Nga dự báo giá tháng 4 sẽ giảm ít nhất 1.000 Rub/tấn do hàng tồn kho cao và tâm lý thị trường đang suy yếu sau lễ.
Ivko cho biết nguồn cung quá mức là một trong những nguyên nhân điều chỉnh giá thép tháng này. Để ứng phó với trường hợp này, NLMK đã chuẩn bị giảm nguồn cung thép cây tháng 4-5 xuống 20% so với tháng 3, còn 115.000 tấn/tháng.
Các nhà máy đang điều chỉnh mức giảm giá để tăng doanh số. Gía bán chạy vẫn đang trên đà giảm và với mức lời thấp không cho phép họ mua nguyên liệu giá cao hơn mức bán ra.
Trong tháng 11-12, các nhà môi giới đã lời được kha khá nhờ nhu cầu tiêu thụ tăng nhưng kể từ tháng 3 sau đó, lợi nhuận của họ giảm xuống đáng kể. Gía bán chạy tại thị trường Maxcova đã giảm xuống còn 26.200 Rub/tấn.
Gía từ các nhà máy đã giảm xuống còn 26.000 Rub/tấn (501USD/tấn) đối với thép cây 12mm và 25.600 Rub/tấn (493 USD/tấn) đối với loại 14mm giao tới Maxcova đã tính thuế VAT. Các mức giá mới này vẫn còn đang đàm phán cho tới cuối tháng.
Trong ngày 10/4, Platts giảm giá thép cây Nga xuống 850 Rub/tấn từ mức 22.550-22.850 Rub/tấn (397-402 USD/tấn) xuống còn 21.700-22.000 Rub/tấn (418-424 USD/tấn). Tuy nhiên, giá tính theo đồng dolla đã tăng 21 USD/tấn nhờ đồng Rub tăng từ mức 57 Rub/USD vào ngày 2/4 lên mức 51.8 Rub/USD ngày 10/4.
Tokyo Steel ngưng lò hồ quang điện Utsunomiya để bảo trì khẩn cấp
Tokyo Steel Manufacturing, nhà máy mini độc lập hàng đầu của Nhật, xác nhận hôm thứ Sáu rằng công ty đã ngưng sản xuất tại nhà xưởng Utsunomiya ở phía bắc Kanto từ ngày 09/4 để có thể thực hiện bảo trì khẩn cấp lò hồ quang điện.
Lò EAF này đã có một vài sự bất ổn trong quá trình hoạt động từ đầu tháng trước. Lò này đã được sửa chữa và đang hoạt động bình thường nhưng nhà máy mini này không chắc liệu trục trặc có xảy ra nữa hay không. Do đó, ban quản lý đã quyết định ngưng hoạt động trong 4 ngày để bảo dưỡng và sửa chữa chuyên sâu. “Chúng tôi dự định sẽ khởi động lại lò vào thứ Hai và hoạt động bình thường từ tuần tới”, giám đốc cho biết hôm thứ Sáu.
Xưởng Utsunomiya sở hữu một lò nung DC 140 tấn và sản xuất chủ yếu thép dầm hình H, với sản lượng gần đây trung bình từ 35.000-40.000 tấn/tháng.
Công ty sản xuất thép dầm hình H ở Utsunomiya, Okayama và Kyushu. Tổng sản lượng theo kế hoạch cho tháng 03 là 50.000 tấn, giảm đến 30.000 tấn so với tháng 02. “Chúng tôi hy vọng nhu cầu thép dầm hình H sẽ phục hồi sau mùa hè này, vì vậy sản lượng hiện tại là để đáp ứng nhu cầu thực tế, và chúng tôi đang ưu tiên cho giá chứ không phải khối lượng”.
Công ty đã duy trì giá thép dầm hình H kể từ tháng 11, thép dầm hình H SS400 cỡ lớn vẫn được yết giá 77.000 Yên/tấn (639 USD/tấn).
“Thép dầm hinh H tồn kho ở Nhật còn nhiều, vì vậy bây giờ có lẽ là thời điểm tốt để Tokyo Steel thực hiện bảo trì và giảm bớt sản lượng”, một nhà phân phối ở Tokyo quan sát. Xưởng ở Utsunomiya vẫn tiếp tục nhập phế như bình thường.
Định giá phôi thanh CIS
Platts định giá phôi thanh CIS tại mức 360 USD/tấn FOB Biển Đen trong ngày thứ sáu, bình ổn so với ngày trước đó.
Gía chào bán đạt mức 375-380 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ, và 390 USD/tấn CFR Ai Cập. Thị trường vẫn trong xu hướng chờ đợi và dự báo có thể giảm trong thời gian tới.
Các nhà xuất khẩu Ấn Độ HDG vỡ mộng do giá HDG giảm
Các nhà xuất khẩu HDG Ấn Độ đang chật vật để bán ra khi khách hàng đợi giá chạm đáy trước khi mua. Nguyên nhân là do nhu cầu HDG nhìn chung vẫn còn suy yếu trên toàn cầu.
Người mua ở Mỹ muốn mua ở trong nước do giá trong nước thấp hơn một chút. Giá HRC thấp hơn ở thị trường Mỹ buộc các nhà sản xuất thép mạ phải giảm bớt chi phí nên giá HDG cũng xuống theo.
Chào giá Ấn Độ cho thép cuộn dày 0.3mm loại thường, phủ 90 gram kẽm trên một mét vuông, được nghe nói ở quanh mức 700-725 USD/tấn CFR Mỹ tuần trước. Mức giá này thấp hơn 20-25 USD/tấn so với tuần trước đó. Tuy nhiên, không có giao dịch nào được báo cáo.
Chào giá xuất khẩu HDG của Ấn Độ tới Mỹ đã giảm dần trong vài tháng qua, từ mức khoảng 800-850 USD/tấn CFR trong tuần cuối cùng của tháng 01. Người mua từ chối giao dịch do họ không đảm bảo khi nào giá sẽ chạm đáy, một thương nhân ở Mumbai giải thích. Ở những thị trường xuất khẩu khác, nhu cầu cũng rất yếu ớt.
Giá ở Trung Đông cho HDG dày 0.18 mm vào khoảng 820-830 USD/tấn CFR Dubai tuần trước, giảm từ 900-950 USD/tấn CFR Dubai trong tuần cuối cùng của tháng 01.
Nhu cầu cũng đã giảm ở Đông Phi- mặc dù thị trường này thường ưa chuộng thép của Ấn Độ- do thép giá rẻ hơn từ Trung Quốc. Một thương nhân ở Mumbai đã bán 200-300 tấn HDG dày HDG 0.19 mm dài 762m phủ 100 gram kẽm trên một mét vuông, với giá khoảng 750 USD/tấn FOB Mumbai trong tuần trước. Loại thép này của Trung Quốc có giá thấp hơn tầm 90 USD/tấn so với giá của Ấn Độ.
Giá thép cây Trung Quốc tiếp tục đi xuống
Giá thép cây Trung Quốc tiếp tục xu hướng lao dốc trong tuần trước do nhu cầu trì trệ, mặc dù nước này đang bước vào mùa tiêu thụ cao điểm nhờ hoạt động xây dựng.
Tại thị trường bán lẻ Bắc Kinh hôm thứ Sáu, Platts định giá thép cây HRB400 đường kính 18-25mm ở mức 2.310-2.320 NDT/tấn (372-274 USD/tấn) xuất xưởng trọng lượng thực tế và gồm 17% VAT. Mức giá này thấp hơn 10 NDT/tấn so với thứ Năm, tính từ cuối tháng 03 tới nay giá đã giảm tổng cộng 250 NDT/tấn.
Tại Thượng Hải hôm thứ Sáu, thép cây HRB400 đường kính 18-25mm được chốt ở mức 2.250-2.290 NDT/tấn trọng lượng lý thuyết và gồm VAT- đánh dấu mức giảm mạnh 165 NDT/tấn so với giá ngày 27/3.
Nhu cầu nhỏ giọt, cùng với giá quặng sắt và giá thép giao sau suy yếu hơn là những nguyên nhân chính khiến giá thép giao ngay bắt đầu sụt giảm từ cuối tháng 03.
Một vài nguồn tin cho biết nền kinh tế đang thụt lùi đồng nghĩa với việc khởi công xây dựng vào mùa xuân này ít hơn so với cùng kỳ năm ngoái. Do đó làm dấy lên mối quan ngại về nhu cầu suy yếu có lẽ sẽ còn tiếp tục gây sức ép lên giá trong thời gian ngắn.
Tuy nhiên, một số nhà quan sát thị trường cho biết đà tăng thêm của giá có lẽ sẽ bị hạn chế. Các đại lý tỏ ra do dự để giảm giá tới mức thấp như trước Tết, do tồn kho kể từ đó tiếp tục sụt giảm.
Thép cây tồn kho ở Bắc Kinh sụt giảm tuần thứ tư liên tiếp trong tuần trước, giảm 11.300 tấn (tương đương 2% so với tuần trước đó) còn 562.500 tấn, theo nhà cung cấp thông tin ở Thượng Hải, Mysteel. Con số này cũng giảm 12% so với mức cao đỉnh điểm sau Tết (637.000 tấn) trong tuần kết thúc ngày 13/3.
Gía phế EU tăng 15 Euro/tấn, thép cây vẫn không đổi
Thị trường thép cây Bắc Âu vẫn trì trệ trong tuần qua do cả người mua và người bán đều đang chờ đợi giá chốt cho phế tháng 4. Trong tuần qua, giá giao dịch phế tại Đức tăng 15 Euro/tấn so với tháng trước đó, đẩy giá phế vụn E40 lên mức 245-250 Euro/tấn đã tính phí giao hàng.
Chỉ có vài đơn hàng thép cây được chốt trong tuần qua do Lễ Phục Sinh và bối cảnh giá phế thiếu chắc chắn. Dù vậy, các nhà máy đã nhận đủ đơn hàng cho tới giữa tháng 5 với vài giao dịch đạt mức 440-450 Euro/tấn đã tính phí giao hàng.
Theo đó, Platts cũng giữ giá thép cây bình ổn tại mức 412.50 Euro/tấn xuất xưởng Tây Bắc Âu.
Baosteel giảm giá hầu hết các loại thép dẹt tháng 05
Baoshan Iron & Steel hạ giá tháng 05 cho hầu hết các sản phẩm thép dẹt trong nước xuống 50-100 NDT/tấn (8-16 USD/tấn).
Nhà máy ở miền đông Trung Quốc đã giảm giá HRC xuống 50 NDT/tấn, và 80 NDT/tấn cho CRC và HDG. Tuy nhiên, công ty vẫn giữ giá thép tấm không đổi.
Theo đó, HRC Q235 5.5mm còn 3.522 NDT/tấn (567 USD/tấn), và rằng CRC SPCC 1.0mm còn 4.046 NDT/tấn. HDG DX51D+Z 1.0mm sẽ giảm còn 4.707 NDT/tấn, trong khi giá thép tấm Q235 14-20mm vẫn duy trì ở mức 3.050 NDT/tấn. Tất cả các giá trên đều không có 17% VAT.
“Thật dễ hiểu để Baosteel quyết định giảm giá tháng 05 do nhu cầu suy yếu”, nhà máy giải thích trước khi ra thông báo. “Giá gần đây cũng lao dốc ở thị trường thép trong nước”.
Một vài nhà quan sát thị trường được Platts khảo sát đều cho rằng mức giảm của Baosteel nhỏ. Điều này cho thấy công ty không bi quan như các thương nhân, nhất là khi giá thị trường trong nước của hầu hết các sản phẩm đều sụt giảm xuống mốc thấp kỷ lục.
Vào thứ năm, Platts định giá cho HRC Q235 5.5mm giảm 165 NDT/tấn kể từ ngày 26/3 còn 2.340-2.380 NDT/tấn, đây là mức thấp nhất kể từ tháng 03/2002.
“Baosteel đã bị sức ép về đơn hàng năm nay do nhu cầu suy yếu từ người mua trực tiếp”, một nhà phân tích ở Thượng Hải. “Nhưng giá chỉ giảm với biên độ nhỏ khó mà kích thích sức mua bởi vì nhu cầu trực tiếp cũng vẫn còn yếu”.
Định giá HRC EU
Platts giảm giá HRC Tây Bắc Âu xuống còn 407.50 Euro/tấn xuất xưởng Ruhr.
Platts giảm giá HRC Tây Bắc Âu xuống còn 407.50 Euro/tấn xuất xưởng Ruhr.
Các nhà máy đang bán HRC dưới mức 410 Euro/tấn mặc dù có cố gắng đàm phán với giá cao hơn. Gía nhập khẩu từ Trung Quốc và Nga đạt mức thấp 375-380 Euro/tấn CFR.
Các nhà máy HRC chiết khấu để kích cầu
Các nhà máy HRC Thổ Nhĩ Kỳ đã dùng chiết khấu để kích cầu trong nước, và nhu cầu tiêu thụ cũng tăng lên với vài người mua bắt đầu đặt mua lại các đơn hàng bị hoãn trước đó.
Gía chào bán HRC từ CIS cũng giảm trong mấy tuần gần đây nhờ giá quặng suy yếu đã tăng sức ép cho các nhà máy HRC Thổ Nhĩ Kỳ. Cuối cùng, các nhà máy này phải giảm giá chào xuống mức thấp 420 USD/tấn trong tuần qua.
Mặc dù chiết khấu đã giúp thúc đẩy nhu cầu tiêu thụ nhưng tỷ giá hối đoái dao động đã làm cho tiền mặt bị thiếu hụt tiếp tục kìm hãm giao dịch trên thị trường.
Gía chào bán HRC Thổ Nhĩ Kỳ đạt mức 420-440 USD/tấn giao giữa tháng 5 và tháng 6 trong khi vài nhà máy giảm giá chào xuất khẩu HRC xuống còn 400-410 USD/tấn FOB kèm chiết khấu do cạnh tranh gay gắt và đồng Lira tiếp tục suy yếu.
Gía chào nhập khẩu thấp từ CIS cũng tiếp tục gây áp lực cho các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ. Gía chào HRC từ Ukraina đạt mức 370-380 USD/tấn FOB trong khi giá chào mới nhất từ Nga là 385-400 USD/tấn FOB.
Người mua phôi thanh Đông Nam Á trên đà giảm do quặng sắt suy yếu
Thị trường phôi thanh nhập khẩu ở Đông Nam Á tuần trước trì trệ, người mua không sẵn sàng cam kết mua mặc dù chào giá thấp hơn từ Trung Quốc trong bối cảnh giá quặng sắt đang giảm. Các nhà cán lại vẫn tỏ ra bi quan bởi vì nhu cầu thép thành phẩm không tăng.
Một số nguồn tin giao dịch ở Thái Lan cho biết một lô 20.000 tấn thép của Nga được bán một tuần trước với giá 380-385 USD/tấn CFR. Chào giá phôi thanh Đài Loan đang phổ biến ở mức 390-395 USD/tấn CFR Thái Lan nhưng không có người mua. Các giao dịch trước đó của phôi thanh không phải từ Trung Quốc được thực hiện hồi tuần cuối cùng của tháng 03 là 380 USD/tấn CFR cho phôi Nhật và Nga.
Hiện nay người mua do dự đặt mua, giá quặng sắt và phôi thanh suy yếu. Phôi thanh không phải của Trung Quốc có thể có giá 375-380 USD/tấn CFR. Chào giá phôi thanh Trung Quốc tới khu vực này đã giảm 5-10 USD/tấn kể từ cuối tháng 03.
Một nhà tích trữ Thái Lan được nghe nói đã đảm bảo 20.000 tấn phôi thanh Q275 150mm ở mức 365 USD/tấn CFR trong suốt tuần kết thúc ngày 03/4. Chào giá phôi thanh Q235 120mm đang phổ biến cũng ở mức này.
Ở Việt Nam, 10.000 tấn Q295 120mm gần đây được đặt mua với giá 368 USD/tấn CFR. Một thương nhân Việt Nam cho biết hôm thứ Sáu rằng phôi thanh Q275 150mm được chào giá 350 USD/tấn CFR so với 353 USD/tấn CFR của một tuần trước.
Chào giá phôi vuông Q275 120mm được nghe nói ở mức 380 USD/tấn CFR ở Philippines, mặc dù một người tin rằng các giao dịch có thể giao dịch thấp hơn 5 USD/tấn còn 375 USD/tấn CFR. Tuy ông nghe nói một nhà máy gần đây đã đặt mua phôi thanh Trung Quốc có giá 379 USD/tấn CFR, ông cho biết giá cao hơn là dành để giao ngay. Tin đồn trên thị trường tháng trước rằng một vài nhà cung cấp Trung Quốc đã hủy một số lô thép khi giá tăng.
Hôm 10/4, Platts vẫn định giá hàng tuần cho phôi thanh Đông Á nhập khẩu ở mức 370-380 USD/tấn CFR.
Gía HRC và CRC Mỹ giảm
Gía HRC và CRC giao ngay tại thị trường Mỹ đã suy yếu trong ngày thứ sáu do giá chào bán giảm và xu hướng thị trường không rõ ràng.
Platts hạ giá chào bán HRC xuống còn 445-460 USD/tấn từ mức 450-460 USD/tấn và giảm CRC xuống còn 570-590 USD/tấn từ mức 590-600 USD/tấn xuất xưởng Midwest (Indiana).
Gía CRC từ một nhà máy mini đạt mức 560-600 USD/tấn tùy thuộc vào kích cỡ đơn hàng. Gía giao dịch phổ biến ở mức 580 USD/tấn.
Một nhà máy CRC Midwest chào bán tại mức 560 USD/tấn tuần này cho đơn hàng 40-100 tấn trong khi cũng có nhà máy chào bán tại mức 580 USD/tấn. Gía chào từ các nhà máy tích hợp dao động trong khoảng 585-600 USD/tấn tùy thuộc vào kích cỡ đơn hàng.
Gía sàn HRC giảm còn 445 USD/tấn, và giá giao dịch cao nhất là 460 USD/tấn.
Một thương nhân cho biết giá đã gần chạm đáy. Tuy nhiên, nhờ các nhà máy cắt giảm sản lượng nên giá thép có thể tăng nhưng bị giới hạn.