Giá HRC Mỹ tăng nhẹ sau thông báo tăng giá từ các nhà máy trong nước
Giá HRC Mỹ tăng nhẹ do các nhà máy không muốn giảm thêm giá nữa cộng với làn sóng tăng giá từ vài nhà máy lớn. Platts tăng giá HRC lên mức 390-400 USD/tấn từ mức 380-400 USD/tấn. Gía CRC vẫn ở mức 520-530 USD/tấn xuất xưởng Midwest (Indiana).
Một nhà máy chào bán trên mức 400 USD/tấn cho các đơn hàng HRC nhỏ, nhưng giá đàm phán dưới mức 400 USD/tấn với thời gian giao hàng mở rộng.
Vài nhà máy đã thông báo tăng giá thêm 20 USD/tấn cho HRC và 30 USD/tấn cho CRC. Theo nhận định thì giá thị trường có cơ hội tăng vừa phải hơn nếu các nhà máy tăng giá chào thêm 40 USD/tấn và 50 USD/tấn.
AK Steel đã thông báo tăng giá giao ngay thép cuộn cacbon thêm 30 USD/tấn có hiệu lực ngay sau các thông báo tăng trước đó từ các nhà máy khác. Gía niêm yết từ các nhà máy tích hợp cho HRC là 420 USD/tấn còn CRC là 540 USD/tấn và HDG là 550 USD/tấn.
NLMK USA cho biết đã tăng giá thép tấm thêm 30 USD/tấn. Nucor chỉ tăng giá thêm 20 USD/tấn còn CRC và HDG là 30 USD/tấn. Nhà máy California Steel Industries cũng đẩy giá HRC và tấm nhúng dầu thêm 20 USD/tấn còn CRC và thép mạ thêm 30 USD/tấn.
Thời gian HDG và CRC kéo dài hơn HRC và một trung tâm dự báo giá HRC và HDG sẽ tiếp tục chia rẽ. Triển vọng tiêu thụ thép ống vẫn yếu nên hạn chế tiềm năng tăng giá của HRC.
Một trung tâm dịch vụ cho biết các nhà máy hiện tại có thể dễ dàng thu được giá 400 USD/tấn cho HRC và đang chào bán tại mức 420-440 USD/tấn.
Giá xuất khẩu phôi thanh CIS tăng khiến thị trường trầm lắng
Giá chào phôi thanh CIS tăng trong ngày thứ 4 đã đẩy thị trường vào trầm lắng do người mua cho rằng giá khu vực này đã trở nên lạm phát sau khi giá chào từ Trung Quốc tăng kể từ đầu năm 2016.
Giá chào từ Trung Quốc tiếp tục giảm xuống còn 240 USD/tấn FOB Trung Quốc sau khi tăng lên 250 USD/tấn FOB Trung Quốc trong tuần qua, trong khi các nhà máy CIS vẫn giữ giá chào bán tại mức 255-260 USD/tấn FOB Biển Đen. Mặc dù giá chào bán tăng, một khách hàng Thổ Nhĩ Kỳ cho biết chưa có đơn hàng nào diễn ra tại mức giá này.
Một thương nhân Châu Âu cho biết thiếu đơn hàng phôi thanh do thị trường hoài nghi về giá quặng sẽ giảm nữa với giá gần đây giảm lại xuống dưới 40 USD/tấn CFR Trung Quốc. Bên cạnh đó, tâm lý thị trường cũng suy yếu do doanh số bán thép cây tại thị trường nội địa và xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ đều thấp.
Trong khi thị trường phôi thanh tiếp tục chậm chạp, một nguồn tin Bắc phi cho biết nhiều đàm phán diễn ra trong tuần này và số đơn đặt hàng sẽ tăng lên trong tuần tới một khi giá cố định.
Platts vẫn giữ giá phôi thanh CIS ở mức 250 USD/tấn FOB do giá chào từ CIS đã không thành công trong việc thu hút các khách hàng Thổ Nhĩ Kỳ, Trung Đông và Bắc Phi.
Phế EU bình ổn trong tháng 1 với dự báo giảm ngắn hạn
Giá phế EU giao dịch trong tháng 1 bình ổn so với tháng trước nhưng có xu hướng giảm thêm 5-10 Euro/tấn trong ngắn hạn.
Tâm lý thị trường nhìn chung không tích cực với vài nhà máy trả ít hơn vài Euro so với tháng trước, còn 165-175 Euro/tấn tại Đức cho phế E40. Trong khi đó, giá tại Ý tùy thuộc vào từng giao dịch với giá giảm 5 Euro/tấn. Bối cảnh thị trường nhìn chung u ám với tình hình địa chính trị không tốt. Gía phế E40 đạt mức 180-190 Euro/tấn đã tính phí giao hàng.
Tại Tây Ban Nha, giá giảm với vài nhà máy cố gắng trả ít hơn 10 Euro/tấn trong khi giá tại Pháp ổn định ở mức 165-170 Euro/tấn cho phế vụn.
Trong tháng 12, giá phế tăng với chỉ số giá phế vụn Eurofer tăng. Trong tháng trước, chỉ số này tăng cho tất cả các loại phế. Gía phế vụn chuẩn tăng 7 điểm lên 157. Gía phế phái sinh cũng tăng 2 điểm lên 157 và phế cũ tăng 6 lên 159 điểm. Các chỉ số này dựa trên 2001=100 và được tính từ giá dự thầu và giá chào bán của các thành viên thị trường phế lớn ở Đức, Pháp, Ý, Tây Ban Nha và Anh.
Các doanh nghiệp Ấn Độ rút lại việc nâng giá HRC
Các doanh nghiệp Ấn Độ đã bị buộc phải rút lại thông báo tăng giá tuần trước cho HRC lên 1.000 Rupees/tấn (15 USD/tấn) vì vấp phải sự phản đối quyết liệt từ phía người mua. Theo đó, Platts định giá HRC IS 2062 loại A/B dày 3mm trong khoảng 23.500-24.500 Rupees/tấn (352-367 USD/tấn) xuất xưởng hôm thứ Tư, giảm 1.000 Rupees/tấn.
Khi thông báo giá cuối tháng cho những hợp đồng tháng 01 vào tuần trước, các nhà máy lớn trong đó có những doanh nghiệp nhà nước đã bị tác động rõ ràng bởi truyền thông trích dẫn lời của đại diện Bộ Thương mại cho rằng quyết định về việc thực hiện giá tối thiểu đối với hầu hết các loại thép nhập khẩu là sắp xảy ra.
“Có quá nhiều sự hỗn độn về thuế tự vệ cũng như giá nhập khẩu tối thiểu. Không dễ để soạn thảo một kế hoạch kinh doanh trong một thị trường bị bóp méo”, Ankit Miglani, giám đốc công ty Uttam Galva Steels than phiền.
“Sự bất ổn về việc áp dụng hàng rào giá tối thiểu đã khiến cho khách hàng không sẵn lòng chấp nhận việc tăng giá”, một đại diện nhà máy ở Delhi thừa nhận.
Trong khi đó, thép nhập khẩu giá rẻ tiếp tục buộc các nhà máy trong nước phải kiềm giá của họ lại để có thể cạnh tranh. Đại diện các nhà máy than phiền rằng mức thuế tự vệ 20% mà Ấn Độ áp dụng cho HRC nhập khẩu, có hiệu lực từ ngày 14/9 là không hiệu quả trong việc ngăn cản hàng nhập về. Các thương nhân đơn giản đã dùng đến phương sách nhập HRC loại API vì loại thép này không bị đánh thuế.
Chào giá HRC API xuất xứ Trung Quốc vẫn không đổi từ tuần trước và giữ ở mức 290 USD/tấn CFR Mumbai. Chào giá cho HRC loại API cán lại 1.2-2mm từ Hàn Quốc được nghe nói cao hơn ở mức khoảng 310-315 USD/tấn CFR. HRC của Nhật và Hàn Quốc bị áp mức thuế hải quan dưới 1% do hiệp ước thương mại song phương, mặc dù vẫn phải bị đánh thuế tự vệ.
Việt Nam chuyển sang nhập HRC từ Nga, quay lưng với thép Trung Quốc
Các nhà nhập khẩu HRC ở Việt Nam đã chuyển sang mua thép của Nga, và từ chối nhập thép của Trung Quốc vì khoảng cách giá giữa hai loại thép này nới rộng, làm cho thép của Nga hấp dẫn hơn.
Có khoảng 30.000 tấn thép cuộn loại cán lại được sản xuất bởi MMK đã được chốt với 272 USD/tấn CFR Việt Nam cho thép cuộn nhỏ (khoảng 10 tấn mỗi hợp đồng) và 282 USD/tấn CFR cho thép cuộn loại lớn hơn (20 tấn) để giao tháng 03.
“Bởi vì chênh lệch lớn giữa thép cuộn của Nga và Trung Quốc nên người mua ở Việt Nam sẽ mua thép của Nga với giá rẻ hơn”. Các nhà máy Trung Quốc sẵn sàng bán với giá chỉ trên 290 USD/tấn CFR Việt Nam cho HRC SAE1006 2.0mm.
Thép cuộn được sản xuất từ nhà máy Xinyu Iron & Steel và Guofeng Iron & Steel đang được chào giá 290-292 USD/tấn CFR Việt Nam. Trong suốt vài tháng qua, người mua ở đây hiếm khi chọn mua thép của Nga do giá Trung Quốc rẻ hơn. Những quan ngại trước đây của người mua Việt Nam về thép cuộn của Nga gồm có thời gian giao hàng lâu hơn, khoảng cách địa lý xa hơn và chất lượng không nhất quán giữa một vài nhà sản xuất.
Giá giao ngay của HRC ở châu Á ổn định trong ngày làm việc thứ ba liên tiếp trong bối cảnh sức mua hạn chế. Hôm thứ Tư, Platts định giá HRC SS400 3.0mm trong khoảng 270-275 USD/tấn FOB.
Anshan Iron & Steel giữ chào giá 285 USD/tấn FOB Trung Quốc cho cả hai loại thép SS400 và SAE1006 2.0mm. Benxi Iron & Steel cũng chào giá giống vậy cho HRC SS400. Một số nhà máy nhỏ hơn khác sẵn sàng bán với giá 270 USD/tấn FOB.
Tuy nhiên, giá chào mua từ các nhà nhập khẩu lại dưới 270 USD/tấn FOB, mức giá này không được người bán chấp nhận, một thương nhân ở Hong Kong cho biết. Ông nói rằng công ty mình sẽ thận trọng cho đến hết Tết.
Thị trường HRC Trung Quốc vẫn suy yếu, một số nhà máy vẫn có thể kiếm lời
Hôm thứ Tư, giá HRC giao ngay ở Thượng Hải giảm trong ngày thứ 5 liên tiếp mặc dù với tốc độ chậm hơn do sức mua trì trệ. Hầu hết các thương nhân đều nản lòng bởi sự giảm mạnh của hoạt động thị trường giao ngay gần đây và dự báo giá HRC sẽ giảm sâu hơn trong hai tuần tới.
Platts định giá HRC Q235 5.5mm ở Thượng Hải trong khoảng 1.920-1.950 NDT/tấn (292-297 USD/tấn) xuất xưởng gồm 17% VAT, mức giá trung bình 1.935 NDT/tấn, giảm 10 NDT/tấn so với ngày trước đó.
Các đại lý cho biết HRC từ các nhà máy như Yanshan Iron & Steel và Cangzhou Zhongtie Equipment Material, đều nằm ở tỉnh Hà Bắc, được bán quanh mức thấp hơn, trong khi thép cuộn từ các nhà máy hàng đầu vẫn còn khoảng 1.950 NDT/tấn.
“Nguồn cung quá dư vẫn còn là yếu tố chính gây kiềm hãm giá HRC”, một đại lý ở Thượng Hải nói, thêm vào đó một số nhà máy đã tăng cường giao hàng tới thị trường giao ngay sau khi giá phục hồi trước đó. Nhiều doanh nghiệp đã giữ thép cuộn trong khi giá trong nước giảm xoắn ốc trước đó đã làm tăng việc giao dịch tới thị trường giao ngay khi giá HRC phục hồi trên 2.000 NDT/tấn vào cuối tháng 12, đầu tháng 01. Mức giá này đã dẫn đến dư cung.
Một nhà phân tích ở Thượng Hải đã nhấn mạnh rằng chỉ các nhà sản xuất ở miền đông có thể kiếm lời, nhờ chi phí sản xuất và vận tải thấp. Các doanh nghiệp ở trong nước là một tình huống kinh khủng và một số có lẽ thậm chí sẽ đối mặt với việc đóng cửa năm nay hay năm tới.
Giá cuộn trơn Châu Á tăng do giá Trung Quốc cao
Giá cuộn trơn ở Châu Á tăng trong tuần trước, vì giá mua của khách hàng đang có xu hướng đi lên cùng với thị trường Trung Quốc. Đây là lần tăng giá thứ ba liên tiếp kể từ ngày 04/11 năm ngoái. Hôm thứ Tư, Platts định giá thép dây dạng lưới 6.5mm tăng 1 USD/tấn so với tuần trước đó lên 260-264 USD/tấn FOB.
Một nhà máy xuất khẩu lớn ở miền bắc Trung Quốc đã giảm chào giá xuống một chút trong tuần này còn 265 USD/tấn FOB từ 268 USD/tấn của tuần trước. Trong khi một nhà máy khác đang chào giá 270 USD/tấn FOB trong tuần này, nhưng ông khuyến cáo mức giá này quá cao để người mua ở Hàn Quốc chấp nhận.
Jiujiang Iron & Steel, một nhà xuất khẩu khác ở tỉnh Hà Bắc, hôm thứ Tư lại nâng giá thép dây thêm 99 NDT/tấn (15 USD/tấn) lên 1.769 NDT/tấn (267 USD/tấn).
Các thương nhân Trung Quốc đang chốt hợp đồng với giá 268 USD/tấn CFR TP.HCM (tương đương 260 USD/tấn FOB gồm phí vận chuyển 8 USD/tấn). Một số giao dịch có thể được thực hiện với giá 265 USD/tấn CFR, nhưng mức giá này không phải là giá phổ biến.
Một thương nhân ở miền đông cho biết một số chào giá tới Philippines khoảng 280-285 USD/tấn CFR trong tuần này. Mức giá này tương đương 263-268 USD/tấn FOB, phí vận chuyển 17 USD/tấn. Giá mua của khách hàng sẽ thấp hơn một chút mặc dù không có giao dịch nào được nhắc đến.
Tại thị trường giao ngay Thượng Hải, thép dây Q195 6.5mm được chốt tại 1.820 NDT/tấn (277 USD/tấn) gồm 17% VAT, tăng 35 NDT/tấn (5 USD/tấn) so với tuần trước.
Thép cây Châu Á ổn định khi chào giá Trung Quốc duy trì
Giá thép cây Châu Á không đổi trong ngày thứ Tư, khi nhà cung cấp Trung Quốc do dự nới lỏng giá chào bán của họ thêm nhiều. Giá thép cây giao ngay tại một số nơi ở Trung Quốc đã tăng trở lại trong tuần này khi tồn kho thấp, đã khiến các nhà cung cấp không muốn xuất khẩu với giá thấp.
Platts định giá thép cây BS500 đường kính 16-20mm trong khoảng 245-248 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế, không đổi kể từ ngày 05/01. Trong khi đó, tại Bắc Kinh, thép cây HRB400 đường kính 18-25mm tăng 10 NDT/tấn (2 USD/tấn) so với ngày trước đó lên 1.815-1.835 NDT/tấn xuất xưởng, trọng lượng thực tế gồm 17% VAT. Nhiều nhà quan sát cho rằng nguyên nhân khiến giá trong nước tăng chủ yếu là do tồn kho thị trường thấp và là hệ quả từ nguồn cung của một vài loại thép bị hạn chế.
Chào giá phổ biến từ các nhà máy là 260 USD/tấn CFR Singapore trọng lượng lý thuyết, tương đương 256 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế, phí vận chuyển 12 USD/tấn và dung sai khối lượng 3%. Các thương nhân đang chào giá thấp nhất là 250 USD/tấn CFR Singapore.
Một vài nhà máy Trung Quốc hồi đầu tuần này cho biết có thể chào giá 255 USD/tấn CFR, nhưng sau đó đã thay đổi và hiện đang chào giá 260 USD/tấn CFR vì phôi thanh tăng giá ở miền bắc. Tuy nhiên, người mua vẫn đang phản đối việc chi trả hơn 250 USD/tấn CFR Singapore, và muốn đợi giá thấp hơn để quay lại.
Tương tự tại Hong Kong, không có người mua nào đặt mua thép thanh từ Trung Quốc với giá 260 USD/tấn CFR (tương đương 250 USD/tấn FOB với phí vận chuyển 10 USD/tấn). Một khách hàng giải thích rằng việc mua trên mức giá này đồng nghĩa với các nhà tích trữ bị lỗ nặng, vì hiện nay họ chỉ chào giá khoảng 240 USD/tấn tới người mua cuối cùng.