Thị trường ống đúc miền đông Trung Quốc tăng với chi phí thép tròn đặc cao hơn
Hôm thứ Hai thị trường thép ống đúc giao ngay ở miền đông Trung Quốc tăng, cùng với chi phí nguyên liệu đầu vào, mặc dù nhu cầu vẫn chưa hồi phục sau thời gian tạm lắng mùa đông. Các nhà sản xuất thép tròn đặc lớn ở miền đông đã thông báo họ sẽ nâng giá thép tròn đặc trong thời gian từ ngày 11-20/02.
Ngày 11/02, Zenith Steel Group và Changqiang Iron & Steel – hai nhà sản xuất lớn tại tỉnh Giang Tô – đã tăng giá thép tròn đặc 20# 50-130mm thêm 100 NDT/tấn (15 USD/tấn) lên lần lượt 3.900 NDT/tấn (567 USD/tấn) và 3.850 NDT/tấn cho giữa tháng Hai, xuất xưởng bao gồm thuế VAT.
Cùng ngày, một nhà cung cấp thép tròn đặc lớn khác - Huaigang Special Steel, cũng ở Giang Tô - cho biết sẽ nâng giá xuất xưởng của thép tròn đặc lên 3.880 NDT/tấn với thuế VAT với cùng thời gian nêu trên.
Tính đến thứ Hai, chào giá phổ biến trên thị trường bán lẻ của Thượng Hải cho loại thép ống đúc 20# 219x6mm (GB/T 8163) từ các nhà máy ở miền đông Trung Quốc tăng mạnh khoảng 100NDT/tấn so với mức cuối tháng Giêng, vào khoảng 4.300-4.400 NDT/tấn xuất xưởng bao gồm thuế VAT 17%.
Feng Hsin giảm giá thép cây và giá mua phế
Nhà sản xuất thép cây hàng đầu Đài Loan, Feng Hsin Iron & Steel, đã quyết định cắt giảm giá thép cây niêm yết và giá thu mua phế nội địa xuống 200 Đài tệ/tấn (6,4 USD/tấn) cho tuần này, mặc dù giá thị trường của cả hai loại này đang phục hồi.
Với lần điều chỉnh mới nhất, trong tuần từ ngày 13-17/02 giá thép cây trong nước của Feng Hsin giảm xuống 14.600 Đài tệ/tấn xuất xưởng, trong khi giá mua phế HMS 1&2 (80:20) trong nước đã được giảm xuống 6.900 Đài tệ/tấn, một đại diện của công ty xác nhận hôm thứ hai. "Chúng tôi nhận thấy rằng quyết định của chúng tôi đi ngược lại với xu hướng thị trường hiện tại, khi mà giá nhập khẩu phôi thanh, phế và quặng sắt của Trung Quốc đều đang phục hồi," ông giải thích. "Nhưng quyết định của chúng tôi phần lớn là để cho các khách hàng trung thành bổ sung hàng tích trữ với chi phí thấp hơn trong tuần này."
Đơn cử như, tính đến 10/02, giá nhập khẩu phế container HMS 1&2 (80:20) của Đài Loan, là cao hơn 8 USD/tấn so với tuần trước đạt 245 USD/tấn CFR Đài Loan, theo như định giá của S&P Global Platts TSI. Định giá hàng tuần của Platts cho phôi thanh 120/130mm vào thứ Sáu tuần trước đã tăng trung bình 5 USD/tấn trong tuần đạt 400-420 USD/tấn CFR Đông Á.
Doanh số thép cây bán ra trong nước của Feng Hsin cũng đã hồi phục. Tính đến cuối ngày thứ Hai, nhà máy đã nhanh chóng lấp đầy chỉ tiêu doanh số hàng tuần.
Tuy nhiên, một đại diện của một nhà máy thép cây ở Đài Nam, nghi ngờ rằng việc giảm giá của Feng Hsin có thể liên quan đến phế tồn kho mà họ đã tích lũy trước đó với chi phí thấp hơn.
Ông nói, " Feng Hsin thường bám sát diễn biến thị trường và hành động theo đó, vì vậy động thái mới nhất này không giống với tính cách của họ chút nào".
Tuy nhiên, ông dự báo do tầm ảnh hưởng lên thị trường của Feng Hsin nên các nhà sản xuất thép cây tại Đài Nam có thể cũng sẽ bị thúc đẩy để giảm giá niêm yết của họ để duy trì tính cạnh tranh.
Giá thép cây thực tế của Feng Hsin thường cao hơn ít nhất 200 Đài tệ/tấn so với giá bán ở Đài Nam.
Shagang giữ nguyên giá thép cây giữa tháng Hai
Jiangsu Shagang Group, nhà sản xuất thép tư nhân lớn nhất của Trung Quốc thông báo hôm thứ Bảy rằng sẽ duy trì giá thép cây trong nước từ ngày 11-20/02.
Theo đó, giá mới nhất của Shagang cho thép cây HRB400 đường kính 16-25mm vẫn ở mức 3.550 NDT/tấn (516 USD/tấn) bao gồm thuế VAT 17%. Ngoài ra, nhà máy quyết định bù cho các đại lý 120 NDT/tấn (17 USD/tấn) đối với những đợt đặt hàng thép cây vào cuối tháng Giêng và đầu tháng Hai.
Đồng thời, Shagang cũng đã giữ giá cuộn trơn HPB300 6.5mm không đổi ở mức 3.430NDT/tấn bao gồm cả thuế VAT trong cùng thời gian nêu trên.
Hôm thứ Hai thị trường thép cây giao ngay được thúc đẩy bởi thị trường phôi thanh và giá thép giao sau tăng mạnh. Tại thị trường bán lẻ Bắc Kinh vào ngày 13/02, giá giao ngay đối với thép cây HRB400 đường kính 18-25mm được định giá ở mức 3.445-3.465 NDT/tấn xuất xưởng trọng lượng thực tế bao gồm thuế VAT 17%, tăng 125 NDT/tấn so với thứ Sáu tuần trước.
Cũng trong ngày thứ Hai, hợp đồng thép cây giao sau trên sàn giao dịch Shanghai Futures Exchange – cho đợt giao hàng tháng Năm 2017 - đã tăng 109 NDT/tấn (3,3%) so với thứ Sáu chốt tại 3.437 NDT/tấn. Hợp đồng này đã tăng tổng cộng 231 NDT/tấn trong hai ngày thứ Sáu và thứ Hai, dẫn đến mức cao nhất kể từ khi đạt 3.505 NDT/tấn vào ngày 13/12 năm ngoái.
Giá thép tấm tại Nhật Bản được dự báo sẽ tăng thêm
Giá thị trường cho thép tấm dày loại thương phẩm tại Nhật Bản được dự kiến sẽ tăng hơn nữa khi các trung tâm và nhà phân phối tiếp tục vượt qua mức tăng trước đó mà đã được thúc ép thông qua bởi các nhà máy.
Giá thị trường hiện tại cho thép tấm SS400 dày 19mm (1.524 x 3,480mm) ở Tokyo ở mức 78.000-79.000 Yên/mét tấn (684-693 USD/tấn), tăng 4.000 Yên/tấn so với tháng trước.
Một nhà kinh doanh thép xây dựng tại Tokyo cho biết các nhà sản xuất đã bắt đầu tăng giá bán tới các nhà phân phối và xưởng gia công thép tấm từ khoảng tháng Mười Một, những người mà đã lần lượt thúc ép khách hàng phải trả thêm tiền. Ông nói, "Giá thị trường chắc chắn sẽ tiếp tục tăng".
Các nhà sản xuất thép tấm Nhật Bản đã tăng thêm 10.000-15.000 Yên/tấn kể từ tháng Mười Một. Một nhà phân phối tại Tokyo cho biết, "Nhiều nhà phân phối đang đặt mục tiêu đạt được mức tăng 5.000 Yên/tấn vào cuối tháng Hai và thêm 5.000 Yên/tấn nữa vào cuối tháng Ba".
Đáng ngạc nhiên là cho đến nay việc nhà máy thép tấm Nippon Steel & Sumitomo Metal Corp tại Oita ngừng hoạt động lại không có ảnh hưởng gì trên thị trường bán lẻ thép tấm thương phẩm. Ông nói, "Nhưng chúng tôi hy vọng nguồn cung sẽ thắt chặt và niềm tin này cũng sẽ làm tăng khả năng các mức giá cao hơn được chấp nhận".
Hoạt động ở nhà máy thép tấm NSSMC của Oita, nhà máy có công suất 2,8 triệu tấn/năm, đã bị dừng sau một vụ cháy ngày 05/01 và công ty không hy vọng việc sản xuất sẽ khởi động lại trước tháng Chín. Tổng sản lượng thép tấm của Nhật Bản vào năm 2016 là 10,17 triệu tấn, theo Liên đoàn Sắt Thép Nhật Bản.
Thị trường HRC Châu Á im ắng vì chào giá Trung Quốc cao và sự cạnh tranh từ Ấn Độ
Hôm thứ Hai giá HRC châu Á vẫn ổn định vì thanh khoản ít, khi chào giá cao của Trung Quốc gặp trở ngại bởi báo giá cạnh tranh từ Ấn Độ. Hoạt động tại các thị trường không thể thiếu như Hàn Quốc và Việt Nam vẫn chưa trở lại mức trước Tết Nguyên đán.
Platts định giá HRC SS400 dày 3.0mm ở mức 495-500 USD/tấn FOB Trung Quốc, không thay đổi so với thứ Sáu tuần trước. Thị trường giao ngay Thượng Hải được định giá ở mức 3.830-3.850 NDT/tấn (557-560 USD/tấn) xuất xưởng với thuế VAT 17%, tăng 75 NDT/tấn so với thứ Sáu.
Hầu hết các nhà máy Trung Quốc đã tăng chào giá HRC SS400 thêm 5-10 USD/tấn lên 505-510 USD/tấn FOB Trung Quốc, mà không có giao dịch nào được nghe thực hiện. Chào giá cho cuộn SAE1006 dày 2.0mm bởi các thương nhân phía đông và đông bắc Trung Quốc cho thấy giá cao hơn 7,50 USD/tấn so với HRC SS400, giảm 2,50 USD/tấn so với thứ Sáu. Điều này một phần là vì mức tăng trong chào giá cho loại cán lại không theo kịp với tốc độ tăng cho loại thép thương phẩm.
Giá trong nước của Trung Quốc nhảy vọt vì sự lạc quan về nhu cầu từ lĩnh vực cơ sở hạ tầng và thị trường giao sau có xu hướng đi lên. Giao dịch trong nước đã sôi động hơn so với thị trường xuất khẩu.
Trong khi đó, có tin rằng chào giá Ấn Độ dưới 500 USD/tấn FOB, thấp hơn nhiều so với mức giá mà các thương nhân Trung Quốc sẵn sàng bán. "Hiện nay, cuộn SS400 từ Ấn Độ rẻ hơn nhiều so với từ Trung Quốc", một thương nhân Việt Nam cho biết. "Với mức tồn kho ở Ấn Độ tương đối cao, tôi thấy các sản phẩm của Trung Quốc không có cơ hội được xuất khẩu sang các nước khác, nếu họ không giảm giá trong vòng một đến hai tháng."
"Chúng tôi không nhận được bất kỳ chào giá mua nào ngày hôm nay," vào cuối ngày thứ Hai một thương nhân miền đông Trung Quốc cho biết. "Chào giá của chúng tôi cao hơn so với các nước khác. Chúng tôi sẽ không mua thêm nữa, và chỉ có thể thông báo cho người mua về chào giá của các nhà máy."
Thép cây châu Á tăng nhờ vào giá nội địa Trung Quốc tăng vọt
Hôm thứ Hai giá thép cây giao ngay ở châu Á tăng sau 3 ngày gián đoạn vì giá phôi thanh và giá thép giao sau tăng vọt đã thị trường Trung Quốc lên cao hơn. S&P Global Platts định giá thép cây BS500 đường kính 16-20 mm ở mức 431-433USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế, tăng 5,50 USD/tấn so với thứ Sáu.
Hôm thứ Hai một nhà máy xuất khẩu lớn ở miền đông Trung Quốc đã tăng chào giá của họ thêm 10-15 USD/tấn lên 435-440 USD/tấn FOB trọng lượng lý thuyết (tương đương với 448-454 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế với dung sai khối lượng 3%), với lý do giá trong nước tăng đáng kể. Một nhà máy khác trong khu vực cho biết hầu hết các nhà máy Trung Quốc báo giá ở mức 450-460 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế. Một nhà máy khác ở phía bắc Trung Quốc đang cân nhắc nâng chào giá của mình đến 460-470 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế.
Một nhà tích trữ Hong Kong cho biết các thương nhân Trung Quốc báo giá khoảng 460 USD/tấn CFR trọng lượng thực tế cho đợt giao hàng tháng Tư, tương đương với 451 USD/tấn FOB giả định phí vận chuyển 9 USD/tấn. Giá này là quá cao để người mua trong khu vực chấp nhận khi mà giá lý tưởng của họ vẫn ở mức 430 USD/tấn CFR (421 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế).
Một nhà tích trữ Hong Kong khác nói rằng thật vô nghĩa khi các nhà máy Trung Quốc chào giá cao như vậy trong khi phải đối mặt với chào giá thấp hơn từ Thổ Nhĩ Kỳ và Nga: nghe nói thép Thổ Nhĩ Kỳ đã được bán tới Hong Kong hồi tuần trước ở mức 428-430 USD/tấn CFR trọng lượng thực tế cho đợt giao hàng tháng Tư.
Tại Singapore, chào giá cho thép cây có nguồn gốc Trung Quốc trên 450 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết, tương đương với 448 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế với phí vận chuyển 15 USD/tấn và dung sai khối lượng 3%. Một thương nhân nói bây giờ không có ai muốn mua ở mức giá này vì thép Thổ Nhĩ Kỳ được báo giá thấp hơn ở mức 430-435 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết.
Mỹ: Các giao dịch HRC của nhà máy tạo ra sự bất ổn trên thị trường
Giá tấm mỏng Mỹ được xem là ổn định trong ngày thứ Hai, mặc dù nhiều nguồn tin cho biết họ đã bắt đầu nhìn thấy một số giao dịch có triển vọng cho các đơn hàng quy mô trung bình từ một vài nhà máy.
Một trung tâm dịch vụ đã nhận được báo giá cho HRC tại Midwest là 620 USD/tấn xuất xưởng, nhưng ông đã chấm dứt việc đặt đơn hàng dưới 500 tấn ngắn với giá 600 USD/tấn ngắn với một nhà máy khác. Ông hoài nghi nhà máy này đã nhìn thấy thời gian giao HRC của họ chậm và có thể chốt một số đơn hàng với giá 600 USD/tấn ngắn để bổ sung vào đơn đặt hàng.
Mặc dù giá của các nhà máy khác là 620-630 USD/tấn ngắn.
Nguồn tin từ một nhà máy chỉ ra vẫn có những đơn hàng HRC đang diễn ra với giá cao hơn. “Chúng tôi có nhiều khách hàng sẵn sàng đặt mua HRC với đơn hàng vài trăm tấn ở mức giá 650 USD/tấn ngắn. Chúng tôi cũng có khách hàng đặt mua với giá 640 USD/tấn ngắn”. Không có gì lạ về những đơn hàng này, và đã tăng lên tới hàng ngàn tấn đơn hàng cho nhiều khách hàng chứ không chỉ 50 tấn ở đây hay ở đó”.
Các nhà máy liên hợp đã hạ giá xuống để có thể cạnh tranh với các nhà máy mini. Giá giao dịch nằm trong phạm vi 610-620 USD/tấn ngắn, nhưng giá ở những mức thấp hơn này được gắn với các nhà máy cụ thể chứ không nhất thiết dựa theo khối lượng. Nhà máy này cho biết ông đã không nghe nói đến bất kỳ giao dịch HRC nào có giá dưới 600 USD/tấn ngắn, xuất xưởng.
Một thương nhân người Mỹ cho biết ông có thể mua HRC giao ngay trong nước với giá 620 USD/tấn ngắn, nhưng ông đã ngừng mua vì ông vẫn chưa nhìn thấy giá ở mức này cho các giao dịch có khối lượng nhỏ. “Các nhà máy này không bao giờ biết rằng khi họ giảm giá cho khối lượng lớn thì giá cho lô hàng nhỏ cũng giảm theo”, ông suy đoán một độ trễ ngắn trước khi giá đơn hàng giao ngay nhỏ hơn bắt đầu đi xuống và phá vỡ sự phản kháng của người mua khối lượng nhỏ.
Nhà máy đầu tiên cho biết các giao dịch CRC đã đạt được mức 850 USD/tấn ngắn và 860 USD/tấn ngắn cho đơn hàng nhỏ hơn.
Căn cứ theo phản hồi thị trường, S&P Global Platts duy trì định giá HRC và CRC hàng ngày đi ngang trong ngày thứ Hai ở mức lần lượt là 620-630 USD/tấn ngắn và 820-840 USD/tấn ngắn. CẢ hai đều là giá xuất xưởng Midwest (Indiana).
Định giá phôi thanh CIS
S&P Global Platts định giá phôi thanh xuất khẩu CIS hàng ngày ở mức 372 USD/tấn FOB Biển Đen hôm thứ Hai, không đổi so với thứ Sáu tuần trước.
Một nhà sản xuất Nga được đưa tin bởi một thương nhân là đang chào giá 400-405 USD/tấn FOB Biển Đen, tăng 20-25 USD/tấn so với thứ Sáu tuần trước, và các nhà sản xuất khác cũng vẫn có xu hướng tăng giá. Một thương nhân khác cho biết chào giá được yết ở mức 400-405 USD/tấn FOB có thể được nhắm tới bởi các nhà sản xuất CIS mà đang đi theo mức của các nhà sản xuất Trung Quốc. Các thương nhân phần lớn đều hoài nghi về việc liệu thị trường có thể chấp nhận một mức tăng nhanh như vậy trong một lần tăng hay không.
Không có chào giá mua nào được nói tới trong ngày đầu tuần khi người mua chờ để xem liệu đà được thúc đẩy bởi chào giá tăng, phần lớn là từ Trung Quốc, có tiếp tục kéo dài hay không. Không có số liệu nào được loại trừ khỏi định giá này.
Các nhà sản xuất ống hàn EU sẽ đánh giá xu hướng thị trường thép cuộn
Các nhà sản xuất ống hàn Châu Âu đã xoay sở để tiếp tục giá cao hơn trong tháng 1 và hiện đang đánh giá thị trường để biết xu hướng giá thép cuộn sắp tới.
Giá đã tăng 30-40 EUR/tấn từ tháng 1 đến đầu tháng 2, và một số nhà sản xuất vẫn chưa quay lại với giá cao hơn sau khi ngừng chào giá vào tháng trước. Giá trung bình hiện nay giảm 22-24 điểm cơ bản, dựa trên giá niêm yết mới của Marcegaglia.
Một nhà tích trữ lớn trao đổi với Platts rằng giá có thể tăng- sau một thời gian ổn định- bởi vì thông báo gần đây của ArcelorMittal về chào giá HRC cao hơn cho quý 2. Một công ty khác đồng ý rằng thị trường đã trì trệ do giá nguyên liệu suy yếu hơn và nhu cầu ống thép im lìm.
Từ 15/2, Marcegaglia sẽ thông báo giá niêm yết mới cho ống hàn CRC. Như đã đưa tin trước đây, vào cuối tháng 9/2015 Marcegaglia đã công bố giá niêm yết mới cho ống hàn HRC, đánh dấu một sự thay đổi lớn trong ngành thép vì giá mới này được dựa trên giá xuất xưởng, mà không còn dựa theo nơi giao hàng chỉ định. “Bây giờ cũng cho CRC chúng tôi sẽ căn cứ theo giá niêm yết dựa theo xuất xưởng và không còn bao gồm phí giao hàng”, đại diện công ty trao đổi với Platts.
Định giá thép cây Thổ Nhĩ Kỳ
S&P Global Platts định giá thép cây xuất khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 407,5 USD/tấn FOB hôm thứ Hai, tăng 2,5 USD/tấn so với thứ Sáu tuần trước.
Mặc dù các nhà máy trong nước đặt mục tiêu giá cao hơn nhiều so với tuần trước, tăng lên 430-440 USD/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng không có chào giá mua nào được nghe nói tới và không có đơn hàng mới nào đáng kể.
Các nguồn tin thị trường cho biết nhiều nhà máy trong nước có cơ hội để đạt được mức tăng tại Viễn Đông nhờ chào giá Trung Quốc đạt 450 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế. Trong khi đó, lô hàng của Thổ Nhĩ Kỳ mới đây bán tới khu vực đã được chốt hồi tuần trước với giá thấp hơn, là 428-430 USD/tấn CFR Hong Kong và 430-435 USD/tấn CFR Singapore, tương đương 405-410 USD/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ trọng lượng thực tế.
Các thị trường khác được cung cấp bởi Thổ Nhĩ Kỳ, trong đó có Ai Cập, Lebanon và Hội đồng Hợp tác các nước Ả Rập Vùng Vịnh (GCC), đã phản đối chào giá mới của Thổ Nhĩ Kỳ. Theo một thương nhân ở Lebanon, những đơn hàng trước được chốt với giá dưới 400 USD/tấn CIF Beirut và người mua không quay lại thị trường. Giá tại khu vực Ả Rập Vùng Vịnh cho tới nay vẫn không đổi sau những đợt giảm trước đó, điều này làm cho thép nhập khẩu giá cao của Thổ Nhĩ Kỳ càng khó khăn hơn để vào được.
Platts nâng định giá lên 407,5 USD/tấn với sự ghi nhận chào giá tăng từ các nhà cung cấp Thổ Nhĩ Kỳ và đà tăng trên thị trường Châu Á. Không có số liệu nào được loại trừ khỏi định giá này.
Mức tăng của giá thép dài Thổ Nhĩ Kỳ vượt 50 USD/tấn
Các nhà sản xuất thép dài của Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục nâng giá niêm yết trong nước hôm thứ Hai do giá phế và phôi thép nhập khẩu cao hơn cùng với nhu cầu mạnh hơn.
Icdas đã nhận đơn hàng trở lại hôm thứ Hai với giá cao hơn cho lần thứ 5 kể từ đầu tuần trước. Giá niêm yết cho thép cây đường kính 12-32mm của công ty đã tăng thêm 40 TRY/tấn (11 USD/tấn) lên 1.870 TRY/tấn xuất xưởng Istanbul và 1.850 TRY/tấn xuất xưởng Biga, Canakkale. Giá ngày bao gồm 18% VAT và tương đương lần lượt 429 USD/tấn và 424 USD/tấn, chưa có VAT.
Icdas đã nâng giá thép cây đường kính 10mm với mức tương tự lên 1.880 TRY/tấn xuất xưởng hôm thứ Hai, trong khi loại 8mm tăng lên 1.890 TRY/tấn xuất xưởng Istanbul. Do đó, tổng mức tăng của giá thép cây kể từ đầu tuần trước là 190 TRY/tấn (51,5 USD/tấn).
Giá niêm yết cho cuộn trơn đường kính 7-8.5 mm của công ty này cũng đã tăng ở mức tương tự lên 2.030-2.060 TRY/tấn xuất xưởng, gồm VAT, tính tới ngày 13/2.
Một doanh nghiệp lớn khác, Bastug Metalurji, nằm ở Osmaniye, miền nam nước này cũng đã nâng giá thép cây thêm 40 TRY/tấn (11 USD/tấn), đánh dấu ngày tăng thứ 6 liên tiếp. Với lần tăng giá mới nhất, giá niêm yết cho thép cây đường kính 12-32mm đã lên 1.850 TRY/tấn xuất xưởng. Giá cho thép cây loại 10mm đã tăng mức tương tự lên 1.860 TRY/tấn xuất xưởng, trong khi loại 8mm chạm mốc 1.870 TRY/tấn xuất xưởng, gồm VAT.
Định giá HRC EU
S&P Global Platts duy trì định giá HRC Bắc Âu ở mức 570-575 EUR/tấn (604.21-609.51 USD/tấn) xuất xưởng Ruhr hôm thứ Hai.
Hoạt động thị trường bị hạn chế với người mua đang đợi nhiều thông báo giá quý 2 từ các nhà máy Châu Âu sau thông báo 600 EUR/tấn xuất xưởng của ArcelorMittal vào đầu tháng này.
Nghe nói nhập khẩu tới Antwerp đã thu hút ít sự quan tâm, mặc dù chào giá khoảng 510 EUR/tấn CIF từ Thổ Nhĩ Kỳ, Ai Cập và Ấn Độ.
Các nguồn tin về phía bên mua tiếp tục đưa ra triển vọng trái chiều về nhu cầu, hầu hết đều dự báo giá đi ngang với giá thị trường hiện nay khoảng 570-575 EUR/tấn.