Taigang duy trì giá mua FeCr cho tháng 04
Một trong những nhà sản xuất thép không gỉ lớn nhất Trung Quốc, Shanxi Taigang Stainless Steel, đã duy trì giá mua ferrochrome cacbon không đổi so với tháng 03 ở mức 6.250 NDT/tấn (1.005 USD/tấn). Giá này bao gồm phí vận chuyển và 17% VAT, thanh toán bằng tiền mặt.
Nhiều người dự báo Taigang sẽ không thay đổi giá mua tháng này sau khi các nhà máy lớn khác như Baosteel và Jiuquan Iron & Steel đều duy trì giá mua của họ hồi cuối tháng 03.
Đại diện Taigang không thể xác nhận ngay giá tháng 04 nhưng nhấn mạnh rằng thật khó để các nhà máy thép không gỉ trả cao hơn cho nguyên liệu vì nhu cầu và giá thép không gỉ đều đang suy yếu.
Tuy giá gang thỏi chứa niken đang giảm và ferrochrome hiện tại ở mức thấp nhưng các nhà máy thép không gỉ vẫn đang hoạt động với sức ép lớn, thậm chí còn bị lỗ do giá thép đi xuống. Đài Loan: Feng Hsin giảm giá thép cây trong nước xuống 200 Đài tệ/tấn
Feng Hsin Iron & Steel đã giảm giá trong nước cho thép thanh chịu lực xuống 200 Đài tệ/tấn (6 USD/tấn) trong tuần này do giá phế thế giới thấp hơn.
Theo đó, giá niêm yết trong nước của nhà máy này cho thép cây đường kính giảm còn 14.500 Đài tệ/tấn (464 USD/tấn) xuất xưởng Taichung áp dụng từ ngày thứ Hai. Trước đó công ty đã giữ nguyên giá niêm yết trong hai tuần liên tiếp.
Nhưng Feng Hsin không thay đổi giá mua phế so với tuần trước và vẫn giữ ở mức 7.000 Đài tệ/tấn hôm thứ Hai. Công ty không điều chỉnh giá mua phế do giá phế ở Đài Loan vẫn ổn định, ngoài ra đơn hàng thép cây vẫn bình thường.
Feng Hsin chủ yếu mua phế HMS 1&2 80:20. Giá nhập khẩu vào cảng Đài Loan hôm thứ sáu của phế 80:20 giảm 9 USD/tấn so với tuần trước đó còn 234 USD/tấn CFR, theo The Steel Index.
Giá xuất khẩu thép cuộn không gỉ Trung Quốc giảm do cầu yếu
Giá xuất khẩu của thép cuộn không gỉ Trung Quốc giảm nhẹ trong hai tuần qua do các nhà cung cấp hạ chào giá giữa bối cảnh nhu cầu chậm chạp và giá niken suy yếu hơn. Chào giá CRC loại cao cấp 304 2mm 2B được nghe nói từ 2.100-2.170 USD/tấn FOB Trung Quốc cuối tuần trước. Giá này thấp hơn một chút so với chào giá và giá bán 2.150-2.200 USD/tấn FOB của cuối tháng 03. Thật khó để đánh giá mức giá có thể giao dịch do người mua hoặc là không trả giá hoặc yêu cầu mức giá mà người bán không thể chấp nhận.
Một thương nhân ở Quảng Châu cho biết ông không thể ký kết được bất kỳ hợp đồng nào mặc dù chào giá chỉ có 2.100 USD/tấn FOB trong tuần trước. “Hiện này 2.100 USD/tấn FOB đã trở thành mức giá đáng mơ ước của người bán. Giá được giao dịch trên thị trường có lẽ còn thấp hơn mức này”. Một thương nhân ở Hong Kong nghe nói các giao dịch được thực hiện với giá 2.100 USD/tấn FOB trong tuần trước nhưng bà không thể chấp nhận mức giá này vì còn thấp hơn cả chi phí.
Chào giá HRC loại cao cấp 304 3mm của Trung Quốc tuần trước được nghe nói là 1.900-1.980 USD/tấn FOB, so với khoảng 2.000 USD/tấn FOB của cuối tháng 03. Các giao dịch không được xác nhận nhưng mức giá dao động từ 1.900-1.950 USD/tấn FOB.
Các thương nhân cho biết người mua ở Đông Nam Á đã nhận được chào giá 1.910-1.920 USD/tấn CFR (tương đương cỡ 1.860-1.870 USD/tấn FOB), nhưng mức giá như vậy không được người bán xác nhận. Mức giá này không phổ biến và có lẽ chỉ được chào bán bởi những người quá tuyệt vọng.
Các khách hàng hiện chỉ sẵn lòng mua HRC với giá cao hơn 1.900 USD/tấn FOB một chút mà thôi.
Thị trường ống đúc miền đông Trung Quốc vẫn không đổi sau khi thép tròn đặc giảm
Thị trường ống đúc giao ngay ở miền đông Trung Quốc vẫn ổn định hôm thứ Hai mặc dù giá thép tròn đặc giảm. Các nhà sản xuất thép tròn đặc hàng đầu ở tỉnh Giang Tô hôm cho biết hôm 11/4 rằng họ sẽ giảm giá xuất xưởng xuống 50-70 NDT/tấn (8-11 USD/tấn) cho 10 ngày giữa tháng 04.
Động thái giảm giá này này phần lớn là để phản ứng lại thị trường ống đúc suy yếu và đà lao dốc của thị trường thép giao ngay nói chung ở Trung Quốc từ đầu tháng 04.
Nguồn cung thép tròn đặc hạn chế ở tỉnh Sơn Đông tiếp tục ngăn các thương nhân ở Thượng Hải tăng cường bán ra với chào giá thấp hơn bất chấp nhu cầu trì trệ. Hôm 13/4, hầu hết các thương nhân ở thị trường bán lẻ của Thượng Hải đang chào bán ống đúc loại 20# 219x6mm (GB/T 8163) được sản xuất từ các nhà máy ở miền đông với giá 3.250 NDT/tấn (523 USD/tấn) gồm 17% VAT, bằng với giá của ngày thứ sáu.
Các nhà máy thép ống ở thành phố Lâm Nghi, khu vực sản xuất ống đúc cacbon chủ chốt ở miền đông, tiếp tục trải qua một đợt hạn chế nguồn cung thép tròn đặc do các nhà máy ngưng hoạt động vì phải nâng cấp thiết bị bảo vệ môi trường.
Hôm 11/4, thép tròn đặc 20# 50-130mm được sản xuất từ Zenith Steel Group và Changqiang Iron & Steel –hai nhà sản xuất lớn ở tỉnh Giang Tô- giảm 50 NDT/tấn còn lần lượt 2.630 NDT/tấn và 2.580 NDT/tấn cho giữa tháng 04, xuất xưởng gồm VAT. Huaigang Special Steel ở Giang Tô cũng giảm 70 NDT/tấn còn 2.650 NDT/tấn hôm thứ Bảy.
Mặc dù thép tròn đặc giảm ở Giang Tô nhưng thép ống được cung cấp từ Sơn Đông vẫn rẻ hơn so với thép ở Giang Tô do có sự khác nhau về chi phí sản xuất trong đó có nhân công.
Thị trường thép cuộn Mỹ bình ổn
Thị trường thép cuộn Mỹ vẫn trầm lắng trong ngày thứ hai do người mua vẫn thận trọng trước triển vọng thị trường sắp tới.
Một trung tâm dịch vụ tin rằng giá hiện tại từ các nhà máy lớn đã là giá đáy nhưng các nhà máy nhỏ có thể còn giảm nữa để thu hút người mua.
Gía thép dường như sẽ bình ổn trong 2 tuần nữa hoặc hơn trước khi người mua đặt hàng và thời gian giao hàng mở rộng. Các nhà máy vẫn đang trông chờ vào quyết định chống bán phá giá thép nhập khẩu của Chính Phủ.
Platts vẫn duy trì giá HRC tại mức 445-460 USD/tấn và CRC tại mức 570-590 USD/tấn xuất xưởng Midwest (Indiana).
Định giá phôi thanh CIS
Platts định giá phôi thanh CIS tại mức 362.5 USD/tấn FOB Biển Đen, tăng 2.5 USĐ/tấn so với ngày trước.
Gía phôi thanh tăng do giá chào bán tăng và người mua có phần chấp nhận giá tăng. Các đơn hàng được chốt tại mức giá 375-380 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ tùy thuộc vào cảng nhập khẩu. Với phí vận chuyển 10-16 USD/tấn, Platts định giá phôi thanh FOB Biển Đen tại mức 362.50 USD/tấn.
Gía phế Thổ Nhĩ Kỳ tăng nhẹ
Gía thu mua phế tàu tính theo đồng dolla của các nhà máy thép Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng 5 USD/tấn theo giá phế nhập khẩu trong mấy tuần gần đây.
Gía phế HMS nhập khẩu đạt mức 263-265 USD/tấn CFR trong tuần qua trong khi phế HMS từ xác thuyền bỏ đi được chào bán tới các nhà máy phía Tây (Ege Celik, Ozkanlar, IDC and Habas) tại mức 265 USD/tấn, tăng 5 USD/tấn so với tuần trước.
Vài nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ cũng tăng giá chào bán phế DKP tính theo đồng Lira hồi cuối tuần qua cùng với giá phế nhập khẩu.
PNhà máy Colakoglu và Asil Celik cũng tăng giá thu mua phế DKP cuối tuần qua thêm 15-20 TRY/tấn, đạt mức 660 TRY/tấn (250 USD/tấn) và 690 TRY/tấn(260 USD/tấn). Nhà máy Kroman cũng tăng giá thu mua phế DKP với lượng tương tự, đạt mức 660 TRY/tấn (250 USD/tấn).
Nhà máy Iskenderun thuộc tập đoàn Erdemir cũng tăng giá mua phế thêm 30 TRY/tấn (11.5 USD), đạt mức 730 TRY/tấn (275 USD/tấn). Tương tự, nhà máy tại Eregli của Erdemir cũng tăng giá mua phế lên mức 725 TRY/tấn (273 USD/tấn) vào ngày 31/3.
Shagang giảm giá thép cây cho giữa tháng 04 xuống 13 USD/tấn
Jiangsu Shagang Group, đã giảm giá xuất xưởng thép cây từ ngày 11-20/4 xuống 80 NDT/tấn (13 USD/tấn) hôm thứ Bảy, sau khi tăng 50 NDT/tấn hồi đầu tháng 04.
Động thái này nhằm phản ánh xu hướng giá trung bình giao ngay giảm trong 10 ngày qua. Tuy nhiên, nhà máy sẽ bù cho các đại lý của mình 50 NDT/tấn đối với những lô hàng đặt mua đầu tháng 04. Theo đó, giá xuất xưởng của nhà máy cho thép cây HRB400 đường kính 16-25mm giảm còn 2.470 NDT/tấn gồm 17% VAT. Tương tự, nhà máy cũng giảm giá cuộn trơn xuống 50 NDT/tấn còn 2.440 NDT/tấn gồm VAT.
Một thương nhân ở Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang nhắc lại rằng Shagang đã tăng giá thép cây trong 10 ngày đầu tháng 04- một động thái đã thuyết phục ông rằng giá thị trường có lẽ sẽ bình ổn thêm một thời gian. Nhưng thật không may, động thái tăng giá của Shagang đã khuyến khích ông tích trữ thêm hàng ở mức cao trước đây.
Tại Hàng Châu hôm thứ Hai, thép cây HRB400 đường kính 16-25mm được sản xuất từ Shagang giảm xấp xỉ 130 NDT/tấn so với đầu tháng này còn 2.350-2.360 NDT/tấn. Giá quặng sắt đi xuống trong 10 ngày qua, cùng với tâm lý bi quan và sức mua không đủ mạnh, là nguyên nhân khiến giá thép cây giao ngay lao dốc. Nhu cầu hôm thứ Hai vẫn còn trì trệ, và giá rất có thể giảm thêm nữa.
Tuy nhiên, giá thép cây giao sau trên sàn Thượng Hải tăng vào chiều thứ Hai, khiến một số đại lý thắc mắc liệu thị trường giao ngay có theo xu hướng này và tăng lên hay không. Trên sàn Shanghai Futures Exchange, hợp đồng thép cây giao kỳ hạn tháng 10 tăng đáng kể 2,78% lên 2.329 NDT/tấn.
Thị trường thép cây Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục chịu sức ép
Các nhà máy thép cây Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục chịu nhiều sức ép từ nhu cầu tiêu thụ suy yếu và giá phế nhập khẩu tăng mạnh trong khi đồng dolla tăng chạm ngưỡng mới trong ngày thứ hai.
Tuy nhiên, các nhà máy trong nước vẫn duy trì giá bình ổn với các dự báo sức mua phục hồi trong vài tuần tới từ ngành xây dựng. Dù vậy, các khách hàng nội địa cũng cho thấy họ chỉ quan tâm các lô hàng nhỏ và cố gắng kéo giá giảm hơn nữa.
Gía niêm yết thép cây 12-32mm nhìn chung đạt mức 1.350-1.370 TRY/tấn xuất xưởng trong ngày thứ hai, tương đương mức 434-440 USD/tấn chưa tính VAT 18% trong khi giá từ các nhà môi giới là 1.380-1.410 TRY/tấn.
Trong khi đó, Kardemir đã ngưng bán thép cây từ ngày 13. Công ty này niêm yết giá tại mức 1.148 TRY/tấn (434 USD/tấn) xuất xưởng chưa tính VAT 18% trong ngày 24/3, thấp hơn giá niêm yết trước 22 TRY/tấn (8.3 USD/tấn).
Trong khi đó, nhu cầu tiêu thụ từ các thị trường xuất khẩu chính của Thổ Nhĩ Ky vẫn tương đối thấp trong mấy tuần qua do các khủng hoảng kinh tế và chính trị trong khu vực. Dù vậy, Thổ Nhĩ Kỳ vẫn cố gắng giữ giá xuất khẩu ở mức 435-440 USD/tấn FOB nhưng người mua tiếp tục yêu cầu giảm giá xuống 10-15 USD/tấn.
Giá xuất khẩu thép tấm của Trung Quốc giảm thêm do lực cầu yếu
Giá xuất khẩu thép tấm Trung Quốc tiếp tục giảm trong hai tuần đầu tháng 04 do nhu cầu ở nước ngoài suy yếu. Một số nhà xuất khẩu được Platts liên hệ cho rằng giá trong nước giảm là nguyên nhân khiến giá xuất khẩu lao dốc theo. Platts định giá xuất khẩu cho thép tấm SS400 12-30mm từ 368-372 USD/tấn FOB hôm 13/4, giảm 2,5 USD/tấn so với cuối tháng 03. Các nhà xuất khẩu cho biết khối lượng giao dịch không cải thiện mặc dù giá rớt xuống thấp hơn.
Hai nhà xuất khẩu cho biết họ đã chốt các hợp đồng quanh mức giá 370 USD/tấn FOB, nhưng khối lượng giao dịch nhỏ. “Vẫn không dễ gì để ký được hợp đồng ở mức giá này trong bối cảnh sức mua nhỏ giọt nhưng các nhà máy không muốn giảm giá thêm nữa”, một thương nhân cho biết.
Nguồn tin từ một nhà máy ở miền đông cho biết ông phải đối mặt với nhiều khó khăn để có được đơn đặt hàng trong tháng này chủ yếu là do lực cầu quá yếu. “Hơn thế nữa, giá thép tấm trong nước giảm nhanh đã gây sức ép lên giá xuất khẩu, và cũng gây tâm lý chán nản cho người mua”.
Một nhà xuất khẩu khác cho biết nhiều nhà máy vẫn không chịu bán ở mức giá hiện nay. Nhưng thật khó để giá không giảm sâu thêm nếu như giá trong nước tiếp tục đi xuống.
Tại thị trường Trung Quốc, thép tấm Q235 14-20mm được giao dịch chủ yếu ở mức giá 2.420-2.460 NDT/tấn (389-396 USD/tấn) gồm 17% VAT tại Thượng Hải, giảm 85 NDT/tấn so với cuối tháng 03. Một thương nhân cho biết thị trường thép tấm khá ảm đạm trong tháng 04, không có sự cải thiện nào về sức mua từ những ngành công nghiệp. Ông tin rằng thật khó để dự đoán khi nào giá thép tấm sẽ chạm đáy vì giá HRC vẫn chưa ổn định.
Định giá HRC EU
Platts vẫn duy trì giá HRC Tây Bắc Âu bình ổn tại mức 407.5 Euro/tấn xuất xưởng Ruhr trong ngày thứ hai.
Các nguồn tin dự báo giá sẽ bình ổn mặc dù có thể chiết khấu nhỏ nhưng giá sẽ không ra khỏi mức 405-415 Euro/tấn.
Gía chào HRC từ Trung Quốc đạt mức 380-385 Euro/tấn CIF Antwerp nhưng không thu hút do thời gian giao hàng kéo dài.
Gía phôi thanh Biển Đen tăng theo giá phế
Gía phôi thanh Biển Đen có xu hướng tăng lên trong mấy ngày qua nhờ giá phế tăng và hoạt động thu mua rầm rộ hơn từ Thổ Nhĩ Kỳ. Platts định giá phôi thanh tại mức 362.5 USD/tấn FOB Biển Đen trong ngày thứ hai, tăng 2.5 USD/tấn.
Vài nhà cán lại Thổ Nhĩ Kỳ hiện tại đang tìm mua nhiều phôi thanh hơn sau vài tuần đứng bên lề thị trường. Người mua đã hoãn lại các đơn hàng được 1 tháng và cuối cùng nguyên liệu tồn kho giảm khiến họ quay trở lại thị trường để bổ sung hàng dự trữ. Người mua đang tìm kiếm các lô hàng giao nhanh tại mức giá tối thiểu 380 USD/tấn CFR Aliaga.
Gía giao dịch thực tế còn tùy vào thời gian giao hàng nhưng lô hàng tháng 5 có giá là 378-383 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ, tùy thuộc vào cảng nhập. Có vài đơn hàng đã được chốt tại mức giá này trong 2 ngày qua.
Một nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ cho rằng có thể nhập phôi thanh CIS tại mức giá này 372-373 USD/tấn CFR Aliaga, tuy nhiên, ông không muốn mua phôi thanh giao tháng 6 tại mức giá này. Mặc dù một nhà máy dự báo giá phôi thanh sẽ rẻ hơn mức 373 USD/tấn CFR trong vài ngày tới nhưng các nguồn tin khác không cho như vậy.
Gía phế tăng đã hỗ trợ giá phôi thanh nhưng triển vọng tăng chưa chắc chắn do có ít nhất một nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ vẫn tỏ ra thận trọng do thị trường thép thành phẩm yếu ớt và đồng Lira suy yếu.
Tại Ai Cập, các khách hàng lớn dự thầu tại mức giá 385 USD/tấn CFR đối với phôi thanh CIS nhưng giá chốt cao hơn. Có vài đơn hàng được bán với giá 392 USD/tấn CFR trong khi có đơn hàng khác đạt mức 400 USD/tấn CFR.
Trung Quốc: HRC tăng lần đầu tiên trong 3 tuần nhờ xu hướng giá giao kỳ hạn đi lên
Giá giao ngay của HRC ở Thượng Hải và Lecong bật tăng lần đầu tiên trong gần ba tuần qua, được hỗ trợ chủ yếu bởi thị trường kỳ hạn. Các thương nhân đã nâng chào giá lên 10-20 NDT/tấn (2-3 USD/tấn), nhưng lại dè dặt về xu hướng giá trong những ngày còn lại của tháng 04. Hôm thứ Hai, Platts định giá HRC Q235 5.5mm ở Thượng Hải là 2.330-2.360 NDT/tấn (375-380 USD/tấn) xuất xưởng gồm 17% VAT, tăng 5 NDT/tấn so với thứ sáu tuần trước. Các giao dịch tuần trước có giá 2.320 NDT/tấn không còn được lặp lại nữa.
Hợp đồng HRC tháng 10 trên sàn Shanghai Futures Exchange chốt với giá tăng 2,8% đạt 2.412 NDT/tấn. Giá thép cây, quặng sắt và than cốc trên sàn Dalian Commodity Exchange cũng đi lên.
Nhu cầu trong nước hiện không nhiều có thể làm hạn chế đà tăng của giá HRC giao ngay. Nhưng với mức thấp trong 13 năm gần đây, một số người cho biết giá không thể lao dốc quá sâu được. “Bất kỳ sự phục hồi đáng kể nào của giá cũng sẽ kích thích nhu cầu cải thiện theo, nhưng điều này vẫn chưa xảy ra. Nhiều người bi quan về thị trường nên đã giảm bớt việc đặt hàng với nhà máy nhằm duy trì lượng tồn kho thấp”, một thương nhân ở Thượng Hải nói.
Tính đến ngày 10/4, HRC tồn kho tại 33 thành phố lớn còn tổng cộng 3,07 triệu tấn, giảm 42.900 tấn so với tuần trước đó, theo nhà cung cấp thông tin ở Thượng Hải, Mysteel.
Tại Lecong, giá giao ngay cũng tăng cùng với giá giao sau, nhưng không đủ để bù đắp khoản lỗ trước đó. Platts định giá HRC Q235 5.5mm trong khoảng 2.520-2.560 NDT/tấn xuất xưởng, giảm 185 NDT/tấn so với ngày 30/3.