Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 14/6/2017

Giá HRC Trung Quốc giảm trở lại vì thiếu giao dịch

Giá giao ngay HRC Thượng Hải giảm trong ngày hôm qua do thiếu giao dịch. Sự bất ổn của giá HRC đã khiến người mua hoang mang và chọn cách chờ đợi. Platts giảm giá HRC Q235 5.5mm xuống 60 NDT/tấn, còn 3.200-3.220 NDT/tấn (471-474 USD/tấn) xuất xưởng đã tính thuế vào hôm qua.

Tại sàn giao kỳ hạn SHFE, hợp đồng giao tháng 10 chốt giảm 98 NDT/tấn, còn 3.006 NDT/tấn.

Một thương nhân cho rằng, tình hình giao dịch khá tệ, vài người bán còn không nhận được đơn hàng nào. Giá giao kỳ hạn giảm cũng đã đẩy người mua ra ngoài thị trường.

HRC Châu Á ổn định mặc dù giá trong nước giảm

Các nhà máy Trung Quốc từ chối giảm giá chào HRC xuất khẩu vào hôm qua dù giá trong nước suy yếu. Tuy nhiên, hầu hết các người mua do dự đặt hàng trong bối cảnh thị trường dao động. Platts duy trì giá HRC SS400 3mm tại mức 435-439 USD/tấn FOB Trung Quốc. Tại thị trường Thượng Hải, giá HRC Q235 5.5m ở mức 3.200-3.220 NDT/tấn (471-474 USD/tấn) xuất xưởng đã tính VAT, giảm 60 NDT/tấn so với thứ hai.

Các nhà máy Trung Quốc vẫn duy trì giá chào HRC SS400 tại mức 440-460 USD/tấn FOB mặc dù các khách hàng ngoài nước từ chối giá 435 USD/tấn FOB.

Một nhà máy cho rằng họ thậm chí không quan tâm giá dưới mức 440 USD/tấn FOB vì giá trong nước cao hơn mức này. Nguồn cung HRC tương đối chặt do các nhà máy đang bảo dưỡng máy móc trong khi số khác tập trung sản xuất nhiều thép dài hơn thay cho thép dẹt.

Nguồn cung thép cuộn SAE  đang thực sự thắt chặt, nhiều nhà máy đã ngưng chào bán thép cuộn SAE vào hôm qua, chỉ vài người chào bán tại mức cao 470-480 USD/tấn CFR Việt Nam.

Một giao dịch thép cuộn SAE 20.000 tấn từ một nhà máy Trung Quốc nghe chốt ở mức 440 USD/tấn FOB Trung Quốc tới Việt Nam trong ngày hôm qua. Giá thép cuộn SAE 3.0mm thấp hơn giá thép cuộn SAE 10 USD/tấn.

Một giao dịch khác tầm 10.000 tấn thép cuộn SAE từ một nhà máy Đài Loan chốt ở mức 465 USD/tấn CFR Việt Nam trong ngày hôm qua. Giá chào từ Ấn Độ ổn định tại mức 470-475 USD/tấn CFR Việt Nam cho cùng loại.

Thép cuộn SAE 1006 2.0mm cao hơn HRC SS400 khoảng 14 USD/tấn, theo tính toán của Platts.

 Giá thép cây Trung Quốc tăng nhưng tâm lý thị trường suy yếu

Giá thép cây Bắc Kinh tăng nhẹ vào hôm qua, nhưng tâm lý thị trường suy yếu trước sự sụt giảm mạnh của giá giao kỳ hạn vào cuối ngày. Các nguồn tin dự báo giá giao ngay cũng sẽ giảm trở lại trong ngắn hạn. Doanh số bán ra cũng chậm chạp do tâm lý chờ đợi của người mua cộng với sức mua giảm sút trước các trận mưa to ở nhiều khu vực trong nước.

Tại thị trường giao ngay Bắc Kinh, giá giao dịch thép cây HRB400 18-25mm ở mức 3.600-3.640 NDT/tấn (530-535 USD/tấn) xuất xưởng trọng lượng thực tế đã tính thuế, tăng 10 NDT/tấn so với thứ hai. Vào cuối ngày, hầu hết các thương nhân giữ giá chào tại mức tăng nhẹ lúc sáng. Tuy nhiên, hoạt động giao dịch chậm lại theo sự suy yếu của giá giao kỳ hạn.

 

Hợp đồng thép cây giao kỳ hạn tháng 10 trên sàn SHFE giảm 98 NDT/tấn, tương đương 3.2% còn 2.935 NDT/tấn, đảo ngược chiều tăng trong 5 ngày trước với mức tăng tổng cộng 98 NDT/tấn.

Các thương nhân chọn cách chờ đợi cho tới khi xu hướng thị trường rõ ràng hơn, vì nhìn chung tồn kho thép cây vẫn tương đối thấp. Ngoài ra, nhà máy Hesteel Group vẫn chưa công bố giá niêm yết mới cho giai đoạn giữa tháng 6, một sự trì hoãn khiến bối cảnh thị trường thêm phần bất ổn.

Trong khi đó, hoạt động giao dịch trên thị trường thép Trung Quốc bị ảnh hưởng bởi mưa trên diện rộng, khiến nhiều thương nhân lo lắng. Mưa đã đổ vào hầu hết các khu vực miền đông, nam và trung của Trung Quốc kể từ cuối tuần  qua.

Giá xuất khẩu CRC Trung Quốc tăng nhưng sức mua suy giảm

Giá xuất khẩu CRC Trung Quốc tăng từ tuần qua dựa trên sự tăng giá của thị trường trong nước. Tuy nhiên, tình hình giao dịch suy giảm và các nhà máy không vội bán hàng.

Platts tăng giá CRC SPCC 1.0mm lên 3.5 USD/tấn so với ngày 6/6, đạt mức 470 USD/tấn FOB Trung Quốc. Chênh lệch giá CRC và HRC ở mức 33 USD/tấn trong ngày hôm qua.

 Giá CRC cùng loại tại thị trường nội địa tăng 65 NDT/tấn so với ngày 6/6, đạt mức 3.680-3.700 NDT/tấn (541-544 USD/tấn).

Trong ngày hôm qua, giá chào từ hai nhà máy lớn ở miền bắc và đông bắc là 475-480 USD/tấn FOB. Tuy nhiên, chỉ vài đơn hàng nhỏ khối lượng vài trắm tấn được chốt ở mức này. Hầu hết các thương nhân cho biết rất khó để thuyết phục các khách hàng đặt hàng tại mức này.

Sức mua đã chậm lại, nhưng các nhà máy Trung Quốc không có ý định giảm giá vì giá xuất khẩu thấp hơn giá trong nước. Các nhà máy có thể bán vào trong nước nếu như không tìm được giá hợp lý ở thị trường xuất khẩu.

Một thương nhân Thượng Hải cho biết bây giờ là thị trường của người bán. Giá trong nước tăng cộng với chênh lệch giá CRC-HRC đã thu hẹp lại bất bình thường nên các nhà máy sẽ không giảm giá.

Thép cây Châu Á ổn định, nhưng thị trường sôi nổi hơn

Thị trường thép cây Châu Á ổn định vào hôm qua dù cả người mua và bán đều tăng đưa ra giá chào. Platts duy trì giá thép cây BS500 16-20mm tại mức 430-431 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế.

Giá chào thấp nhất từ các nhà máy Trung Quốc vẫn ở mức 435 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng lý thuyết, tương đương 448 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế đã tính 3% chênh lệch khối lượng. Một nhà máy tăng giá chào thêm 10 USD/tấn, đạt mức 450 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng lý thuyết.

Tại Hồng Kông, giá chào từ Trung Quốc đạt mức 435 USD/tấn CFR trong ngày thứ hai, tương đương 425 USD/tấn FOB Trung Quốc với phí vận chuyển 10 USD/tấn nhưng không có giao dịch. Giá chào thấp nhất từ các thương nhân vẫn ở mức 440 USD/tấn CFR cho thép cây của Zenith Steel. Giá chào từ các nhà máy vẫn ở mức 460-470 USD/tấn CFR.

Một người mua dự thầu cho đơn hàng 10.000 tấn gồm thép cây 10mm và 40mm tại mức 450 USD/tấn CFR giao tháng 7, tương đương 425-435 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế. Phụ phí cho thép cây 10mm và 40mm tầm 5-15 USD/tấn tùy nhà máy và tùy giao dịch.

Hai nhà môi giới Hồng Kông cho rằng giá trên là hợp lý vì hai mặt hàng này được sử dụng rộng rãi trong các ngành xây dựng. Thông thường, với các đơn hàng như vậy thì thép cây 10mm và 40mm sẽ chiếm khoảng 35-40%. 

Tại Singapore, giá chào từ các nhà máy Trung Quốc ổn định trên mức 460 USD/tấn CFR Singapore trọng lượng lý thuyết giao tháng 7, tương đương 458 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế đã tính 16 USD/tấn phí vận chuyển và 3% chênh lệch khối lượng. Thép cây Thổ Nhĩ Kỳ được chào ở mức 450 USD/tấn CFR.

Giá HDG Thổ Nhĩ Kỳ ổn định tại Thổ Nhĩ Kỳ sau 5 tuần duy trì đà tăng

Giá nội địa và xuất khẩu HDG Thổ Nhĩ Kỳ vẫn ổn định trong tuần này sau đà tăng tuần trước, do nhu cầu tiêu thụ chậm chạp trong lễ ăn chay Ramadan và tiêu thụ thấp tại Châu Âu trước hè.

Chuyên viên bán hàng một nhà máy cho hay, công ty đã tăng giá cho thép tháng 7 hồi đầu tuần trước nhưng giá niêm yết vẫn ổn định kể từ đó. Tiêu thụ trong nước chậm chạp nhưng dự báo sẽ phục hồi sau lễ. Tiêu thụ từ Châu Âu tiếp tục chạm trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt. Tiêu thụ từ Nga cũng thấp hơn so với mức dự báo.

Một trung tâm dịch vụ cho biết, giá chào từ các nhà máy trong nước vẫn ổn định kể từ đầu tuần trước. Các nhà máy tăng giá niêm yết trong tuần qua nhưng do vấn đề tiền mặt, lễ Ramadan và hè đã kìm hãm giao dịch. Giá HRC vẫn ổn định nên việc tăng giá bị người mua từ chối. Giá chào tuần trước cho HDG 0.5mm là 745 USD/tấn xuất xưởng.

Giá chào HDG 0.5mm trong nước vẫn bình ổn trong tuần này sau khi chạm mốc 730-750 USD/tấn tuần trước, trong khi giá chào HDG 1mm ở mức 670-690 USD/tấn xuất xưởng. Trong khi đó, giá xuất khẩu thấp hơn giá niêm yết trong nước 15-20 USD/tấn trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt.

Giá chào thép mạ PPGI 9002 0.5mm trong nước cũng ổn định tại mức 820-840 USD/tấn xuất xưởng.

Giá xuất khẩu phôi thanh Thổ Nhĩ Kỳ suy yếu theo các đơn hàng tới Ai Cập

Giá xuất khẩu phôi thanh Thổ Nhĩ Kỳ giảm trong tuần này, do một nhà máy đã chốt đơn hàng lớn 40.000 tấn tới Ai Cập tại mức giá trung bình 405-406 USD/tấn FOB.

Giá chào xuất khẩu thép cây hiện ở mức 430 USD/tấn FOB. Miễn là giá nhập khẩu phế không giảm dưới 270 USD/tấn thì giá thép cây sẽ không xuống dưới mức này. Giá 425 USD/tấn FOB có thể cho các đơn hàng lớn.

Khủng hoảng Qatar vẫn chưa tác động tới thị trường xuất khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ. Nếu cuộc khủng hoảng này không nghiêm trọng thêm thì không có tác động mạnh tới thị trường trong thời gian tới.

Giá thép cây và phôi thanh Thổ Nhĩ Kỳ đã suy yếu mạnh trong mấy ngày gần đây cùng với sự cắt giảm của các nhà máy trong bối cảnh tiêu thụ suy yếu. Nhà máy Kardemir đã giảm giá niêm yết thép cây xuống 24 USD/tấn trong ngày hôm qua trong khi phôi thanh giảm 16 USD/tấn.

Giá niêm yết mới nhất của các nhà máy cho thép cây giảm còn 455-465 USD/tấn xuất xưởng sau khi cắt giảm, nhưng giá này vẫn cao hơn nhiều giá xuất khẩu chỉ tầm 430 USD/tấn FOB. Giá chào phôi thanh trong nước ở mức 410-420 USD/tấn xuất xưởng tỏng ngày hôm qua, còn giá xuất khẩu thấp hơn 5-10 USD/tấn.

Kardemir giảm giá thép cây xuống 24 USD/tấn, phôi thanh xuống 16 USD/tấn

Nhà máy Kardemir đã mở cửa nhận lại đơn hàng thép cây và phôi thanh với giá giảm mạnh trong ngày hôm qua, sau khi các nhà máy khác điều chỉnh giá vào ngày đầu tuần. Mức cắt giảm này phản ánh sức mua suy yếu dần trong nước trong khi nguồn cung tăng và các nhà máy tăng vận chuyển thép ra thị trường, cũng như sự tăng giá nhẹ của đồng Lira so với dolla trong mấy ngày gần đây.

Giá bán mới của Kardemir cho thép thanh tròn giảm còn 1.644 TRY/tấn (467 USD/tấn) xuất xưởng trong ngày hôm qua, trong khi giá mới cho thép cây 12-32mm giảm còn 1.627 TRY/tấn (462 USD/tấn) xuất xưởng, cùng giảm 85 TRY/tấn (24 USD/tấn) so với giá niêm yết trước. Giá niêm yết của Kardemir chưa tính thuế.

Vài nhà máy cũng mở cửa nhận lại đơn hàng với giá giảm mạnh trong ngày thứ hai trong bối cảnh tiêu thụ suy yếu dần trong lễ ăn chay và tiêu thụ suy yếu tại thị trường xuất khẩu.

Kardemir cũng bán lại phôi thanh với giá giảm trong ngày hôm qua. Giá niêm yết mới cho phôi thanh chuẩn là 1.445-1.462 TRY/tấn (411-416 USD/tấn) xuất xưởng, giảm mạnh 16 USD/tấn so với giá niêm yết cũ.

Tuy nhiên, giá chịu áp lực từ hàng nhập khẩu do các chào giá phôi thanh nhập khẩu tới Thổ Nhĩ Kỳ trong mấy ngày gần đây tính theo CFR ngang bằng với mức này.

Định giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ

Platts vẫn duy trì giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ tại mức 422.50 USD/tấn trong ngày hôm qua.

Giá chào từ các nhà máy ở mức 430 USD/tấn FOB trong ngày hôm qua, dù một nhà máy xác nhận đang chào bán tại mức 425 USD/tấn FOB tới các thương nhân.

Giá tại thị trường Ai Cập khiến cho thép cây Thổ Nhĩ Kỳ không thể chen vào dựa vào các thuế chống bán phá giá.

Giá chào tới UAE hiện ở mức 440 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết, tương đương 435 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế.

Giá chào từ Mỹ không thu hút vì các điều tra mục 232. Giá được nghe ở mức 500-505 USD/tấn trọng lượng lý thuyết và CFR, tương đương 430-440 USD/tấn FOB, không gồm thuế chống bán phá và đối kháng.

Thép cây có sẵn ở mức 418-420 USD/tấn FOB, theo một thương nhân Thổ Nhĩ Kỳ cho biết.

Giá tấm mỏng Mỹ bình ổn dù sức mua im ắng

Các nhà máy tấm mỏng Mỹ giữ chắc giá chào HRC ở mức 600 USD/tấn, dù không có nhiều chào mua khối lượng lớn tuần qua. Tuy nhiên, theo dự báo sẽ có nhiều đơn hàng cho tháng 7 hơn trong tuần tới.

Có nhiều đồn đoán rằng sắp có thêm đợt tăng giá mới nhưng chưa được xác nhận. Vẫn có nhiều lo lắng về giá do tiêu thụ từ ngành sản xuất xe hơi suy yếu, và vài nhà máy bị thiếu đơn hàng

Một thương nhân đồng tình rằng các nhà máy đang giữ chắc giá HRC tại mức 600 USD/tấn, mặc dù ông vẫn chưa mua tại giá này.

Giá tối thiểu các nhà máy tìm kiếm cho HRC là 600 USD/tấn còn CRC là 800 USD/tấn.

Platts vẫn duy trì giá HRC và CRC tại mức 590-600 USD/tấn và 790-800 USD/tấn xuất xưởng Midwest (Indiana).

Định giá HRC EU

Platts duy trì giá HRC Tây Bắc Âu tại mức 495-500 Euro/tấn (554.90-560.50 USD/tấn) xuất xưởng Ruhr trong ngày thứ ba.

Giá thị trường ở mức 500-510 Euro/tấn với giá các nhà máy cấp 1 ở mức cao nhất 510 Euro/tấn. Giá giao dịch ở Benelux chốt dưới mức 500 Euro/tấn.

Một trong các nhà máy nhỏ ở Tây Âu đang bán tại mức 490 Euro/tấn, nhưng giá này không diễn ra ở các khu vực khác.

Các nhà máy Ấn Độ hoạt động mạnh nhất trên thị trường xuất khẩu với giá giao dịch là 480-485 Euro/tấn CIF Antwerp.

Tại Nam Âu, một nhà máy Ý chào bán tại mức 470 Euro/tấn xuất xưởng trong khi một nhà máy Ấn Độ giảm giá chào xuống còn 430 Euro/tấn CIF Ý.