Thép cây Thổ Nhĩ Kỳ cán mốc 550 USD/tấn
Thép cây Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục tăng lên 550 USD/tấn vào hôm thứ sáu do một nhà máy lớn tiếp tục tăng giá dựa vào giá phôi thanh và phế tăng cũng như nhu cầu tiêu thụ tốt.
Nhà máy Bastug Metalurji đã mở bán lại với giá tăng mạnh sáng thứ sáu. Nhà máy này đã ngưng bán trước đó ngày.
Sau khi tăng, giá niêm yết cho thép cây 12-32mm tăng lên 2.300 TRY/tấn xuất xưởng. Loại 10mm tăng lên 2.310 TRY/tấn xuất xưởng còn loại 8mm tăng lên 2.320 TRY/tấn xuất xưởng đã tính thuế.
Izmir Demir Celik (IDC) cũng tăng giá thép cây hôm thứ sáu. Mức giá cho thép cây 12-32mm là 2.220 TRY/tấn (530 USD/tấn) xuất xưởng.
Kardemir tăng giá thép cây thêm 84 TRY/tấn (23.50 USD/tấn) hôm thứ năm, đạt mức 1.864 TRY/tấn (527 USD/tấn).
Chào giá phôi thanh cũng tăng lên 515-520 TRY/tấn xuất xưởng hôm thứ sáu và có tin đồn có vài đơn hàng xuất khẩu chốt ở mức này nhưng Platts không xác nhận. Chào giá phôi thanh CIS tới Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục tăng lên 510 USD/tấn CFR.
Chào giá từ các nhà môi giới cũng tăng do tồn kho thấp và tiêu thụ tăng. Chào giá cho thép cây 12-32mm ở Iskenderun là 2.300-2.320 TRY/tấn đã tính thuế còn giá ở Istanbul ở mức tương tự.
Giá tấm mỏng nội địa và nhập khẩu Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục tăng
Giá tấm mỏng Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục tăng cuối tuần qua với giá chào nhập khẩu tăng mạnh trong khi chi phí đầu vào gia tăng.
Các nhà máy HRC Thổ Nhĩ Kỳ bắt đầu tăng giá chào bán các lô hàng tháng 10 trong khi thép mạ cũng tăng thêm vào chiều thứ sáu theo giá HRC.
Một nhà máy thép mạ lớn đã ngưng nhận đơn hàng vào sáng thứ sáu và mở bán lại vào buổi chiều với giá tăng 20 USD/tấn. Nhà máy này bắt đầu chào bán HDG 0.5mm tại mức 780 USD/tấn xuất xưởng, tăng 20 USD/tấn so với tuần trước đó trong khi giá niêm yết các nhà máy khác là 770-780 USD/tấn xuất xưởng.
Vài nhà máy HRC bắt đầu tăng giá chào bán thép giao cuối tháng 10 vào chiều thứ tư cùng với giá nhập khẩu và nguyên liệu thô tăng.
Một nhà máy lớn đang chào bán HRC tại mức cao 570 USD/tấn xuất xưởng trong khi giá niêm yết nhà máy khác ở mức 550-560 USD/tấn xuất xưởng, tăng 10-15 USD/tấn so với tuần trước đó. Tuy nhiên, giá giao dịch vẫn thấp hơn 10-15 USD/tấn tùy vào khối lượng đơn hàng và điều kiện thanh toán. Tuy nhiên, người mua dự báo sẽ chấp nhận giá mới trong tuần tới dựa vào giá nhập khẩu và chi phí nguyên liệu thô tăng mạnh.
Chào giá HRC CIS tới Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục tăng lên mức cao 530-535 USD/tấn CFR nhưng vấp phải kháng cự từ Thổ Nhĩ Kỳ hôm thứ sáu.
Định giá HRC EU
Platts tăng giá HRC EU thêm 0.50 Euro/tấn vào hôm thứ sáu, đạt mức 516.50 Euro/tấn (609.21 USD/tấn xuất xưởng Ruhr.
Một khách hàng nhận được chào giá 535 Euro/tấn từ một nhà máy Tây Âu cấp 1. Nhà máy này chào tại mức 530 Euro/tấn xuất xưởng Ruhr. Các nhà máy khác chào tại mức 520-530 Euro/tấn với một nhà máy tăng giá chào thêm 30 Euro/tấn.
Một khách hàng cho hay sẽ chào mua ở mức 510 Euro/tấn xuất xưởng trong khi dự báo vài người sẽ mua ở mức 515 Euro/tấn xuất xưởng.
Một khách hàng ở Benelux cho biết sẽ không trả hơn 500 Euro/tấn nhưng giá này thấp hơn nhiều so với các khách hàng khác.
Các nhà máy CIS tăng giá HRC
Các nhà máy CIS tăng giá xuất khẩu HRC thêm 30 USD/tấn trong tuần qua sau khi chứng kiến giá HRC Trung Quốc tăng gần 40 USDF/tấn trong nửa tháng qua từ mức 508 USD/tấn tuần cuối tháng 7 lên 546 USD/tấn FOB Thiên Tân vào hôm thứ năm ngày 10/8.
Mặc dù giá chào bán tăng mạnh nhưng hiện tại giá ở mức 560-570 USD/tấn FOB cho thép sản xuất tháng 10 (một số người thậm chí tin rằng chào cho thép tháng 11). Hầu hết các nhà máy xác nhận họ không còn thép để bán.
Các nhà máy hiện không muốn bán vì giá dự báo tăng 30 USD/tấn qua mỗi tuần. Họ chờ giá cán mốc 600 USD/tấn rồi mới bán, một thương nhân cho biết. Ông nói thêm, không thể ước tính giá thực tế sẽ là bao nhiêu vì thị trường đi quá nhanh. Không chỉ các nhà máy mà người mua cũng phấn khích về thị trường. Họ thận trọng và cảnh giác về xu hướng này. Họ chọn cách chờ cho tới cuối tháng 8, ít nhất khi giá ngưng biến động mạnh. Dù không có giao dịch thì mức 510-520 USD/tấn FOB vẫn không được chấp nhận. Giá thị trường đã lên trên 520 USD/tấn.
Tại Ai Cập, giá HRC CIS gần đây được bán ở mức 550 USD/tấn CFR, tương đương 525-530 USD/tấn FOB Biển Đen.
Tại Châu Âu, giá thép tăng gần đâu đã dẫn tới các phản ứng khác nhau: vài nhà máy phải dừng nghỉ lễ sớm hơn dự định. Các đại lý tăng cường mua vào vì giá rõ ràng tăng và có thể chưa đạt đỉnh.
Platts tăng giá xuất khẩu HRC CIS lên 525-535 USD/tấn FOB Biển Đen, tăng 15 USD/tấn so với thứ năm. CRC CIS tăng 10 USD/tấn lên 560-570 USD/tấn FOB Biển Đen.
Bản tin phế tuần: Nguồn cung thắt chặt đẩy giá tăng
Thị trường phế Ferrite tăng trưởng nhờ nguồn cung thắt chặt trong tuần qua, dẫn tới giá nhập khẩu vào Thổ Nhĩ Kỳ tăng mạnh.
Platts tăng giá nhập khẩu phế HMS I/II (80:20) vào Thổ Nhĩ Kỳ thêm 13.50 USD/tấn so với thứ năm và 21 USD/tấn so với tuần trước đó, đạt mức 353.50 USD/tấn CFR hôm thứ sáu tuần qua.
Phế tăng giá nhờ tiêu thụ thép cây tăng ở Thổ Nhĩ Kỳ cũng như giá phôi thanh. Phôi thanh xuất khẩu CIS đã tăng 49 USD/tấn kể từ đầu tháng 8, đạt mức 500 USD/tấn FOB vào hôm thứ sáu.
Do nguồn cung phế thắt chặt, một nhà máy thép Thổ Nhĩ Kỳ đã đặt mua một lô phế từ Úc và New Zealand trong ngày thứ năm với thời gian giao hàng là một tháng. Lô hàng này tỷ lệ 80:20 có giá 354 USD/tấn CFR. Thổ Nhĩ Kỳ không thường xuyên mua từ hai nguồn này.
Khách hàng đặt mua phế Úc cũng đặt mua một lô phế từ Tampa, Florida với giá 353 USD/tấn CFR.
Hầu hết các lô hàng này giao vào tháng 10, cho thấy nguồn cung đang thắt chặt. Thổ Nhĩ Kỳ thường mua phế trước 2-6 tuần.
Thổ Nhĩ Kỳ cũng mua phế Bờ Tây Mỹ giao tháng 9 trong mấy tuần nay. Nguồn cung này chủ yếu bán tới thị trường Đông Nam Á nên điều này càng thắt chặt nguồn cung và đẩy giá nhập khẩu phế khối lượng lớn vào Châu Á tăng.
Tại Hàn Quốc, giá chào phế HMS I/II 80:20 khối lượng lớn Mỹ tăng từ mức 320-330 USD/tấn CFR lên 330-335 USD/tấn CFR Hàn Quốc.
Trong khi các nhà máy Hàn Quốc không đặt mua phế khối lượng lớn thì nghe có vài giao dịch tới các thị trường khác. Các giao dịch chốt ở mức 330 USD/tấn CFR tới Indonesia và Thái Lan trong tuần.
Tại Việt Nam, các nhà máy không nhận được bất cứ chào giá khối lượng lớn nào kể từ tuần qua do giá cao và thời gian giao hàng dài. Thay vào đó, các nhà máy nhận được chào bán phế giao gần hơn như phế HMS I/II 50:50 Hồng Kông ở mức 310 USD/tấn CFR Việt Nam nhưng không có đơn đặt hàng.
Tại Đài Loan, một lô phế khối lượng nhỏ Mỹ được đặt mua tại mức 290 USD/tấn CFR Đài Loan. Chênh lệch giá phế khối lượng nhỏ và lớn tăng 30 USD/tấn hoặc hơn.
Platts tăng giá nhập khẩu phế HMS I/II khối lượng lớn vào Đông Á từ mức 311-320 USD/tấn lên 325-335 USD/tấn CFR hôm thứ ba.
Trong khi đó, Tập đoàn Kanto Tetsugen tổ chức đấu thầu cho phế H2 Nhật xuất khẩu từ Vịnh Tokyo hôm thứ tư với giá thắng thầu là 31.610 Yên/tấn cho lô hàng 15.000 tấn giao theo điều khoản FAS. Thắng thầu thứ hai là 31.600 Yên/tấn FAS cho lô 10.000 tấn. Cả hai lô đều mua từ Việt Nam.
Trong ngày thứ ba, nhà máy Hyundai Steel Hàn Quốc dự thầu tại mức 31.000 Yên/tấn (284 USD/tấn) cho phế H2 Nhật, tăng 1.500 Yên/tấn so với dự thầu ngày 04/8.
Nhà máy này cũng chào mua các phế khác như : 31.500 Yên/tấn FOB cho phế H1/2 (50:50), 32.000 Yên/tấn FOB cho phế H1, 33.500 Yên/tấn FOB cho phế vụn và HS, 34.000 Yên/tấn FOB cho phế Shindachi Bara và 35.000 Yên/tấn FOB cho phế Shindachi Press.
Hyundai đặt mua tổng cộng 20.000-30.000 tấn phế trong các chào mua mới nhất. Các thương nhân Nhật Bản đang mua phế H2 để xuất khẩu từ bờ đông Nhật Bản tại mức 28.500-29.000 Yên/tấn FAS, tăng từ mức 28.500 Yên/tấn FAS cách đây 1 tuần.
Nhà máy Tokyo Steel Manufacturing vẫn giữ giá mua phế kể từ ngày 20/7. Công ty này đang mua phế H2 giao bằng xe tải tới các xưởng ở Utsunomiya tại mức 28.000 Yên/tấn.
Platts tăng giá xuất khẩu phế Ferrite Nhật thêm 1.250 Yên/tấn so với tuần trước, đạt mức 31.000 Yên/tấn FOB vịnh Tokyo.
Giá phôi thanh CIS tăng do giá thép Thổ Nhĩ Kỳ tăng
Giá phôi thanh CIS có sẵn ở mức 500-505 USD/tấn FOB hôm thứ sáu trong khi có chào giá cao hơn. Một thương nhân Anh cho rằng sẽ mua ở mức 500 USD/tấn FOB.
Các thương nhân đang cân nhắc giá chào 540 USD/tấn CFR tới Thổ Nhĩ Kỳ sau các tin về giá phôi thanh Thổ Nhĩ Kỳ tăng. Giá thép thành phẩm Trung Quốc đã tăng 15 USD/tấn vào cuối tuần qua nên các thị trường thế giới cũng muốn tăng theo.
Giá phế Thổ Nhĩ Kỳ tăng vọt lên trên 350 USD/tấn CFR hôm thứ sáu trong khi thép cây tăng lên 550-560 USD/tấn xuất xưởng. Phôi thanh cũng tăng lên 540 USD/tấn xuất xưởng.
Các nhà máy đang khảo sát thị trường và việc thiếu nguồn cung có sẵn từ CIS sẽ giúp giá tăng nữa.
Platts tăng giá phôi thanh CIS thêm 10 USD/tấn, đạt mức 500 USD/tấn FOB hôm thứ sáu.
Thép cây Nga tăng 17 USD/tấn nhưng thấp hơn phôi thanh CIS
Các nhà máy Nga tăng giá chào thép cây tháng 8 do các đơn hàng phôi thanh tăng đã giúp thắt chặt nguồn cung thép thành phẩm trong giai đoạn đỉnh cao mùa xây dựng.
Phần lớn các nhà máy đang bận rộn bán thép cây và còn ít hàng để chào cho khách trong nước. Họ nhắm tới mục tiêu tăng giá thêm 8% vào tháng 9, theo lời một nhà phân phối ở Maxcova cho biết.
Kể từ đầu tháng 6, giá phôi thanh Biển Đen đã tăng và sau đó lại tăng, kéo dãn chênh lệch giá với thép cây Nga. Các nhà máy Nga sản xuất thép dài và phôi thanh có động lực tăng cường xuất khẩu phôi thanh. Trong tầm một tháng trở lại đây, giá phôi thanh CIS tăng 67 USD/tấn lên 490 USD/tấn FOB Biển Đen. Cùng thời điểm, giá thép cây CPT Maxcova tăng từ 409 lên 440 USD/tấn, chỉ bằng nửa mức tăng của phôi thanh.
Giá thép cây Nga tăng vào tháng này chủ yếu dựa vào sự thâm hụt nhẹ của nguồn cung ở vài nơi do các nhà máy tăng xuất khẩu phôi thanh. giá bán cho thép cây ổn định ở mức 31.000-32.000 Rubs/tấn (515-532 USD/tấn) cho thép cây 12mm và 30.700-31.500 Rubs/tấn (510-524 USD/tấn) cho loại 14mm giao tới Maxcova đã tính thuế.
Platts tăng giá thép cây Nga hàng tuần lên 26.200-26.500 Rubs/tấn (435-440 USD/tấn), tăng 1.000 Rubs (17 USD/tấn) so với tuần tước. Do đó, chênh lệch giá thép cây CPT Maxcova vẫn là 50 USD/tấn, thấp hơn 55 USD/tấn giữa thép cây và phôi thanh FOB Biển Đen khiến việc bán hàng trong nước không thu hút bằng xuất khẩu.
Giá gang thỏi CIS duy trì ở mức mới
Giá phế tháng 8 tăng đã thúc đẩy nhu cầu tiêu thụ gang thỏi CIS và giúp các nhà máy duy trì giá chào bán mới.
Trong tuần đầu tháng 8, các nhà máy CIS chào bán gang thỏi ở mức 360 USD/tấn FOB Biển Đen nhưng bị từ chối, chủ yếu do các nhà máy Mỹ đã ngưng đặt hàng (khách hàng chính của CIS) để chờ xu hướng giá phế rõ ràng hơn trong tuần thu mua tháng 8.
Tuy nhiên, đến tuần thứ hai, thị trường đã rõ ràng rằng giá giao dịch phế chốt tăng 20 USD/tấn nên thúc đẩy nhu cầu tiêu thụ gang thỏi CIS. Các nhà máy Mỹ không chọn cách mua ngay có thể chờ tới 2 tháng (nghĩa là có đủ hàng dự trữ cho tiêu thụ 2 tháng). Tuy nhiên, có thể thấy mức 360 USD/tấn FOB cho gang thỏi hiện tại là hợp lý.
Mức 360 USD/tấn FOB Biển Đen vẫn chưa được các nhà máy Ý và Thổ Nhĩ Kỳ chấp nhận nhưng họ tin rằng giá gang thỏi CIS sẽ không suy yếu và giá mới sẽ được chấp nhnhaanowr tất cả các thị trường. Ở Ý, mức giá 350 USD/tấn sẽ được chấp nhận. Tuy nhiên, các nhà máy Ý và Thổ Nhĩ Kỳ không có lựa chọn nào khác và sẽ sớm chấp nhận do không có giá rẻ hơn. Mức giá 360 USD/tấn FOB cũng phù hợp cho Tây Ban Nha và Trung Âu.
Trong ngày thứ sáu, Platts tăng giá gang thỏi CIS xuất khẩu hàng tuần lên 8 USD/tấn so với tuần trước đó, đạt mức 348-356 USD/tấn FOB Biển Đen.
Dù có vài sự suy yếu hồi đầu tuần nhưng giá tấm mỏng Mỹ vẫn ổn định hôm thứ sáu. Kết quả điều tra 232 bị trì hoãn vẫn là yếu tố chính kéo giá sụt giảm xuống 610 USD/tấn hồi đầu tuần.
Tuy nhiên, chi phí nguyên liệu thô tăng giúp ngăn giá giảm sâu trong ngắn hạn. Phế Mỹ tăng 20 USD/tấn trong tháng 8 và triển vọng tháng 9 vẫn lạc quan.
Platts vẫn duy trì giá HRC và CRC lần lượt tại mức 610-630 USD/tấn và 790-810 USD/tấn xuất xưởng Midwest (Indiana).
Thứ sáu tuần qua, Platts tăng giá than đá chất lượng cao xuất khẩu Úc thêm 4 USD/tấn so với tuần trước đó, đạt mức 194.50 USD/tấn.
Thị trường cho thấy nhu cầu tiêu thụ than tinh bột cao hơn than cấp cao sau khi nguồn cung ở Nga gián đoạn (đây là nguồn cung chính than PCI cho thị trường Châu Á).
Mưa lớn ở Ussurisk Nga khiến cho hệ thống đường ray dẫn tới các cảng xuất khẩu thanh chính ở phía đông bị thiệt hại, dẫn tới nhiều mỏ khoáng sản tuyên bố trường hợp bất khả kháng. Điều này cũng dẫn tới lượng hỏi mua than PCI tăng ở Châu Á trong tuần, nhất là Đông Bắc Á cũng như Trung Quốc với nhiều giao dịch diễn ra.
Trong khi đó, tiêu thụ than đá cao cấp ở các thị trường Trung Quốc cũng tăng nhưng chưa có giao dịch do người mua chưa chấp nhận được giá cao như vậy mặc dù nguồn cung thắt chặt dựa vào sự gián đoạn nguồn cung ở Queensland Úc.
Tại Trung Quốc, quan điểm thị trường xáo trộn và bất ổn trước nhiều tin tức ảnh hưởng tới cả sản lượng và than đá. Ngoài ra, có tin tức mới về khả năng cấm vận chuyển than đá ở các cảng Bắc Trung Quốc mà có thể ảnh hưởng tới tiêu thụ than nhập khẩu của nước này.
Nguồn cung than đá Trung Quốc không ít và không cần phải nhập khẩu tại mức giá cao như vậy, theo người mua cho hay.
Giá than cốc luyện kim Trung Quốc tiếp tục tăng thêm 80 NDT/tấn. giá thép giao kỳ hạn và giao ngay cùng tăng đã hỗ trợ thị trường than đá và than cốc luyện kim.
Bản tin quặng tuần: CISA cảnh báo về thị trường
Giá giao ngay quặng sắt tăng trong tuần qua do thép tăng giá, với giá xuất khẩu thép cây và HRC Trung Quốc chạm mốc cao 4 năm.
Các đồn đoán về vài lò cao ở Đường Sơn sẽ ngưng sản xuất vào mùa đông đã thúc đẩy giá thép Trung Quốc tăng trong khi giá các mặt hàng thép cây và HRC toàn cầu cũng tăng.
Tuy nhiên, Hiệp hội CISA cảnh báo rằng giá tăng nhanh không do cung hay cầu. Gía giao kỳ hạn đã tăng phí để kìm hãm thị trường thép cây đang quá nóng.
Trong ngày thứ sáu, Platts giảm giá quặng IODEX 62% sắt nhập khẩu vào Trung Quốc xuống 1.45 USD/tấn so với thứ năm nhưng tăng 45 cents so với thứ sáu tuần trước đó, đạt mức 75.05 USD/tấn CFR Bắc Trung Quốc.
CISA cảnh báo xu hướng thị trường bất ổn và sẽ chấm dứt đà tăng giá thép, nên thận trọng mua nguyên liệu thô. Giá giao ngay phôi thanh Đường Sơn tăng 170 NDT/tấn so với tuần trước nhưng giảm 80 NDT/tấn so với thứ năm, còn 3.770 NDT/tấn (565.71 USD/tấn) xuất xưởng Đường Sơn hôm thứ sáu.
Quặng chứa 65% sắt tiếp tục tăng trong tuần này và nhu cầu tiêu thụ cũng tăng. Chênh lệch giá quặng cám ÚC cỡ trung với quặng Carajas mở rộng ra 18.85 USD/tấn,tăng 2.30 USD/tấn so với tuần trước.
Mặc khác, tâm lý tích cực tiếp tục hỗ trợ phân khúc thị trường quặng cục do người mua nghe nói chuộng loại quặng chất lượng cao và quặng viên. Chi phí nhiên liệu tăng khi sử dụng quặng cục trong lò cao khiến nó ít cạnh tranh hơn.
Platts giảm chênh lệch giá quặng cục với cám xuống 0.012 USD/tấn so với tuần trước, còn 0.183 USDTấm.
Thép ống đúc miền đông Trung Quốc tăng giá
Giá giao ngay thép ống đúc miền đông Trung Quốc tăng mạnh vào cuối tuần qua, đuổi theo chi phí sản xuất tăng cao do đà tăng giá thép trong nước. Các nhà máy lớn ở miền đông đã tăng giá niêm yết thêm 300 NDT/tấn (45 USD/tấn) cho các đơn hàng trong giai đoạn 11-20/8.
Đây là lần tăng thứ sáu liên tiếp của nhà máy kể từ cuối tháng 6 với tổng mức tăng là 700-750 NDT/tấn.
Giá thép tròn đặc 20# 50-130mm sản xuất bởi Zenith Steel Group và Changqiang Iron & Steel tăng vọt 300 NDT/tấn lên 4.400 NDT/tấn và 4.350 NDT/tấn cho các đơn hàng giữa tháng 8 đã tính thuế.
Các nhà máy khác là Huaigang Special Steel cũng ở Giang Tô thông báo tăng giá thêm 300 NDT/tấn trong cùng ngày cho cùng loại thép, đẩy giá chào lên 4.450 NDT/tấn đã tính thuế.
Do chi phí sản xuất tăng, giá chào cho ống đúc loại 20# 219x6mm (GB/T 8163) tại Thượng Hải tăng lên 4.900-5.050 NDT/tấn tùy vào từng nhà máy, giá xuất xưởng đã tính thuế.
Giá tnawg 300-400 NDT/tấn so với 10 ngày trước dù tiêu thụ trong mùa thấp điểm, theo một thương nhân Thượng Hải cho biết.
Phôi thanh Đông Nam Á tăng vượt mốc 500 USD/tấn CFR
Thị trường phôi thanh Đông Nam Á tiếp tục đà tăng trong tuần qua với giá cả tăng vượt mốc 500 USD/tấn CFR. Người bán vẫn tăng chào giá nhờ nguồn cung thắt chặt.
Một giao dịch phôi thanh lò cảm ứng từ Việt Nam tới Manila hồi đầu tuần qua chốt ở mức 505 USD/tấn CFR. Một thương nhân nghe giá chào từ Mexico cho đơn hàng giao cuối tháng 9 trong ngày thứ năm. Một đơn hàng nhỏ được đặt mua tại mức 510-515 USD/tấn CFR Manila.
Phôi thanh Việt Nam được chào bán tại mức 500 USD/tấn FOB trong tuần. Một thương nhân Việt nam cho biết nguồn cung phôi thanh của ông đã cạn kiệt. Vào hôm thứ hai, ông chào bán phôi thanh Việt Nam ở mức 500 USD/tấn FOB nhưng phải thu lại giá chào hôm thứ ba: phí vận chuyển từ Việt Nam sang Manila là 18-19 USD/tấn.
Những người thực sự muốn mua phôi thanh Trung Quốc phải trả 525 USD/tấn CFR Manila. Tuy nhiên, giá chào mua ở Manila là 510 USD/tấn CFR. Phôi thanh Đài Loan được chào bán tại mức 520 USD/tấn CFR hôm thứ sáu.
Các nhà nhập khẩu lớn ở Manila sẽ chấp nhận giá 510 USD/tấn CFR, theo một thương nhân Manila cho biết. Giá thép cây nội địa vẫn chưa tăng để hỗ trợ đà tăng nhanh của phôi thanh.
Giá phôi thanh Ấn Độ đã tnawg vọt trong tuần qua. Một nhà máy chào bán ở mức 510 USD/tấn FOB. Hồi đầu tuần này, một thương nhân đã mua phôi thanh Ấn Độ ở mức 485 USD/tấn FOB Ấn Độ. Phí vận chuyển từ Ấn Độ tới Manila là 27-30 USD/tấn.
Trong ngày thứ sáu, Platts tăng giá phôi thanh 120/130mm CFR Đông Á lên 510-515 USD/tấn CFR, nhích 25 USD/tấn so với tuần trước.
Shagang tăng giá thép cây thêm 38 USD/tấn cho các đơn hàng giữa tháng 8
Tập đoàn Shagang Group dự định tăng giá thép cây giai đoạn 11-20/8 thêm 250 NDT/tấn (38 USD/tấn) theo thông báo hôm thứ sáu. Đây là lần tăng thứ ba liên tiếp của nhà máy này với mức tăng tổng cộng 520 NDT/tấn.
Giá cho thép cây HRB400 16-25mm tăng lên 4.250 NDT/tấn (637 USD/tấn) đã tính thuế. Shagang cũng tăng giá thép dây HPB300 6/5mm thêm 250 NDT/tấn lên 4/140 NDT/tấn đã tính thuế.
Giá niêm yết thép cây của Shagang tăng lên mức cao nhất kể từ tháng 5/2012. Quyết định tăng giá của nhà máy chủ yếu đuổi theo giá giao ngay đang tăng cao và phản ánh triển vọng lạc quan của giá trong những ngày tới.
Điều này cho thấy các thương nhân có thể tiếp tục tăng giá chào để bù đắp lại chi phí mua thép cây tăng.
Trong ngày thứ sáu, hợp đồng thép cây kỳ hạn tháng 1 trên sàn SHFE chốt giảm 102 NDT/tấn, tương đương 2.6% còn 3.862 NDT/tấn.
Hesteel tăng giá thép cây
Hesteel Group sẽ tăng giá niêm yết thép cây thêm 260 NDT/tấn (39 USD/tấn) lên mức 4.100 NDT/tấn (615 USD/tấn) cho các hợp đồng ngày 11-20/8, theo thông báo của công ty trong ngày thứ sáu.
Giá áp dụng cho các sản phẩm do Tangshan Iron & Steel, Xuanhua Iron & Steel và Chengde Iron & Steel thuộc Hesteel Group sản xuất bán ở Bắc Kinh và Thiên Tân theo giá xuất xưởng trọng lượng lý thuyết đã tính VAT.
Giá của Hesteel tương đương mức 4.227 NDT/tấn trọng lượng thực tế.
Thép cây Châu Á ổn định, thép cây CIS tăng lại
Thị trường thép cây Châu Á ổn định vào cuối tuần qua do giá chào bán ổn định trong khi Trung Đông và CIS thử nghiệm thị trường với giá chào thấp hơn các nhà máy Châu Á và cũng không chốt được đơn hàng. Platts duy trì giá chào bán thép cây BS500 16-20mm xuất khẩu Trung Quốc tại mức 534-536 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế.
Hai nhà máy Trung Quốc duy trì giá chào bán tại mức 567-570 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế giao vào tháng 9 và 10. Hầu hết các thương nhân và nhà máy từ chối chào giá sau khi nhà máy tư nhân lớn nhất là Shagang tăng giá niêm yết trong 10 ngày tới thêm 38 USD/tấn. Một thương nhân không chào giá vì thiếu nguyên liệu có sẵn.
Tại Singapore, giá chào thấp hơn từ các thị trường khác nổi lên, chẳng hạn như một chào giá ở mức 550 USD/tấn CFR giao tháng 9 từ Ả Rập Saudi khối lượng 10.000 tấn là mức mua tối thiểu. Một chào giá khác ở mức 535 USD/tấn CFR từ Ukraina.
Các chào giá trên tương đương trên mức 536 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế đã tính phí vận chuyển 15 USD/tấn và chênh lệch khối lượng 3%. Một nhà môi giới cho biết các nhà máy thép cây Ukraina cần khoảng 50.000 tấn để giao hàng.
Tại Hồng Kông, giá chào ít ỏi trong ngày thứ sáu. Giá bán từ các nhà máy trong nước tới các nhà thầu tăng lên 550 USD/tấn cho các đơn hàng nhỏ nhưng một nhà môi giới cho biết không ai dám mua ở mức 570 USD/tấn.
Trong khi đó, sàn kỳ hạn SHFE tăng tỷ lệ hoa hồng cho hợp đồng thép cây gồm RB1710 và RB 1801 từ 0.01% lên 0.05% và cũng đặt ra những hạn chế về việc mở ra hợp đồng mở mới từ ngày 15/8.
Mục đich của SHFE là cắt giảm hoạt động giao dịch quá nóng trên sàn và nhắc nhở các nhà đầu tư thận trọng về thông tin thị trường. Một thương nhân nghĩ rằng điều này có tác động hạn chế tới các nhà đầu tư trong ngắn hạn.
Baosteel tăng giá thép dẹt tháng 9
Tập đoàn Baosteel Group tăng giá thép dẹt giao tháng 9 với HRC tăng 350 NDT/tấn (52.5 USD/tấn) theo báo cáo của công ty hôm thứ năm.
Một thương nhân Thượng Hải không ngạc nhiên về việc Baosteel tăng giá niêm yết thép giao tháng 9 vì giá giao ngay tăng mạnh trong tháng qua.
Các nguồn tin đang chú ý hơn về liệu cân bằng cung-cầu có thể hỗ trợ giá hay không. Nếu tâm lý thị trường yếu, giá giao ngay HRC sẽ giảm mạnh.
Cùng với đó, Baosteel tăng giá CRC thêm 200 NDT/tấn ngoại trừ loại CQ và loại không dành cho sản xuất ô tô tăng tới 300 NDT/tấn. HDG cũng tăng 200 NDT/tấn còn CQ và series S và Series BJD tăng 300 NDT/tấn.
Giá cho thép mạ điện của Baosteel cũng tăng 300 NDT/tấn.
Nhà máy này không tiết lộ giá niêm yết thực sự trong thông báo hàng tháng mà chỉ công bố mức tăng giảm.
Baosteel Group tiếp tục thông báo giá chào độc lập với Wuhan Iron & Steel Group dù đã sáp nhập để thành lập China Baowu Steel Group hồi tháng 12/2016.
Angang tăng giá thép tháng 9
Nhà máy Angang (Anshan Iron & Steel) ở đông bắc Trung Quốc tăng giá chào bán thép dẹt tháng 9, theo nhà máy xác nhận hôm thứ sáu.
Giá xuất xưởng cho HRC Q235 5.5mm tháng 9 của Angang tăng lên 4.190 NDT/tấn (628.3 USD/tấn) chưa tính thuế, tăng khoảng 400 NDT/tấn.
Giá cho CRC tăng 400 NDT/tấn, ngoại trừ CRC dung cho sản xuất xe hơi chỉ tăng 350 NDT/tấn.
Trong khi đó, giá tấm dày tăng 350 NDT/tấn còn HDG tăng 300 NDT/tấn. Tuy nhiên, giá cho thép mạ điện vẫn ổn định.
Angang hiếm khi công bố giá niêm yết hàng tháng mà chỉ công bố biên độ thay đổi.
Một thương nhân Thượng Hải cho biết ảnh hưởng của Angang với thị trường không nhiều trong ngày thứ sáu, với giá giao dịch thấp hơn nhiều so với giá niêm yết nhà máy vì nhà máy có thể cung cấp chiết khấu cho người bán.
Wisco tăng giá thép dẹt tháng 9
Nhà máy Wuhan Iron & Steel Trung Quốc tăng giá xuất xưởng các mặt hàng thép dẹt tháng 9 vào cuối tuần qua, theo quan chức nhà máy xác nhận. Mức tăng cho HRC là 350 NDT/tấn (52.50 USD/tấn).
Trong các mặt hàng chính, Wisco tăng thêm 500 NDT/tấn cho HRC thương phẩm nhưng CRC dung sản xuất ô tô thì chỉ tăng 400 NDT/tấn.
Wisco cũng tăng HDG thêm 400 NDT/tấn còn thép mạ điện tăng 300 NDT/tấn.
Nhà máy này hiếm khi tiết lộ giá niêm yết trong các thông báo hàng tháng mà chỉ thông báo mức tăng hoặc giảm.
Wisco cho biết, trong tháng qua, đơn hàng mà nhà máy nhận được đã đủ thỏa mãn. Ngoài ra, giá thép dẹt giao ngay ở thị trường Trung Quốc tiếp tục tăng và khuyến khích các nhà máy tăng giá niêm yết.
Quan trọng hơn, nhu cầu tiêu thụ thép kỹ thuật và máy móc vẫn tốt, nên công ty nghĩ rằng giá tăng sẽ được người mua chấp nhận.
Mặc dù Wiso đã sáp nhập với Baoshan Iron & Steel hồi tháng 12 năm ngoái để thành lập Baowu Steel Group nhưng công ty này vẫn tiếp tục thông báo giá độc lập.
HRC Châu Á chững lại do giá thép nội địa Trung Quốc sụt giảm
Giá giao ngay HRC Châu Á chững lại vào cuối tuần qua sau khi tăng 2 ngày liên tiếp. Platts giữ nguyên định giá HRC SS400 3mm xuất khẩu Trung Quốc ở mức 546 USD/tấn FOB Trung Quốc vào hôm thứ năm. Giá cùng loại ở mức 556 USD/tấn CFR Đông Á, tăng 16 USD/tấn so với tuần trước.
Tại thị trường Thượng Hải, giá HRC Q235 5.5mm giảm 65 NDT/tấn so với thứ năm, còn 4.060-4.070 NDT/tấn (609-611 USD/tấn) xuất xưởng đã tính thuế.
Tuy nhiên, các nguồn tin nghĩ rằng giá giảm lại do phản ứng tạm thời trước việc giá giao kỳ hạn suy yếu hôm thứ sáu, và tồn kho thấp sẽ hậu thuẫn giá giao ngay tăng trở lại.
Xu hướng tăng gần đây trên thị trường giao kỳ hạn SHFE theo CISA do yếu tố đầu cơ về việc cắt giảm công suất, đóng cửa lò cảm ứng và kiểm soát ô nhiễm không khí.
Trong ngày thứ sáu, chào giá HRC Đ400 xuất khẩu từ các nhà máy Trung Quốc ổn định ở mức 560 USD/tấn FOB. Các giá chào này không thu hút người mua nhưng họ sẽ đặt hàng khi giá trong nước tăng lại. Một nhà máy lớn được cho là đang lên kế hoạch tăng giá chào HRC thêm nữa trong tuần tới.
Trong khi giá chào các nhà máy không thu hút được đơn hàng ngoài nước thì các thương nhân vẫn có thể bán được với giá tương đối rẻ hơn. Các khách hàng Pakistan chấp nhận mua với giá 545-550 USD/tấn FOB nhưng đơn hàng nhìn chung nhỏ. Trong khi đó, các đơn hàng HRC SAE chốt ở mức 563-565 USD/tấn CFR Việt Nam từ các thương nhân Trung Quốc.
Theo các nguồn tin tại Việt Nam, chào giá HRC SAE Trung Quốc ở mức 575-580 USD/tấn CFR. Một thương nhân Hồng Kông tin rằng các chào giá từ Trung Quốc sẽ không thu hút người mua trong nước do chào giá từ Nhật ở mức tương tự.
Giá thép nội địa Thổ Nhĩ Kỳ tăng nhưng xuất khẩu vẫn giậm chân tại chỗ
Giá xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ kỳ vẫn giậm chân tại chỗ vào cuối tuần qua do ít nhu cầu đặt hàng mặc dù giá trong nước tăng mạnh.
Các thị trường xuất khẩu chính vẫn tránh thu mua trong tuần qua. Chào giá vào Mỹ ở mức 560 USD/tấn CFR Vịnh Gulf nhưng không thu hút trong khi một khách hàng Ai Cập cho rằng mức giá 520 USD/tấn không được người mua chấp nhận hồi đầu tuần.
Giá phế nhập khẩu tăng trên 350 USD/tấn CFR đã thúc đẩy giá thép cây và phôi thanh. Giá xuất xưởng thép cây ở mức 550 USD/tấn trở lên trong khi phôi thanh tăng lên tới 540 USD/tấn.
Tuy nhiên, các mức giá này được cho là giá chào mới chưa có trên thị trường để hậu thuẫn giá xuất khẩu. Các đơn hàng gần nhất trên thị trường xuất khẩu được nghe cách đây 1 tuần ở mức 500-505 USD/tấn FOB cho các khách hàng Châu Âu và Bắc Phi.
Giá phế tăng cho thấy khả năng giá thép tăng vọt là điều tất yếu nhưng chậm chân hơn các khu vực khác. Giá phế Châu Âu tăng gần 20 Euro/tấn tùy vào trường hợp với giá phế tại Anh tăng 15-20 FBP/tấn đối với các hợp đồng tháng 8. Thị trường Thổ Nhĩ Kỳ cũng đã trải qua lần tăng này trong 2 tuần qua.
Hoạt động xây dựng mạnh cũng như tín dụng khỏe giúp duy trì hoạt động giao dịch thép mạnh mẽ trong hè ở Châu Âu và những nơi khác.
Singapore và Hồng Kông là các thị trường thay thế béo bở cho thép cây Thổ Nhĩ Kỳ xét về ngắn hạn trong năm nay, mặc dù tốc độ tăng của giá thép Thổ Nhĩ Kỳ sẽ khiến cho họ khó bán như trường hợp của Trung Quốc.
Platts vẫn duy trì giá xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ bình ổn tại mức 512.50 USD/tấn vào hôm thứ sáu.
CISA: giá thép Trung Quốc tăng mạnh do sự thổi phồng quá mức
Đà tăng gần đây của giá thép giao ngay cũng như kỳ hạn Trung Quốc dường như là sự thái quá trước chính sách đóng cửa các lò cảm ứng thép hồi cuối tháng 6 và kế hoạch cắt giảm sắp tới trong năm nay, theo phát biểu của các thành viên Hiệp hội thép Trung Quốc (CISA) và các nhà máy trong cuộc họp nội bộ diễn ra vào thứ tư tuần trước (09/8).
Cụ thể, các ý kiến cho rằng giá thép tăng mạnh gần đây không phải do nhu cầu tiêu thụ tăng hay nguồn cung cắt giảm mà là sự phản ứng thái quá, thậm chí là hiểu sai về vài vấn đề như cắt giảm công suất quá mức, đóng cửa lò cảm ứng và nỗ lực kiểm soát ô nhiễm.
Trong ngày 07/8, hợp đồng thép cây giao kỳ hạn tháng 1 trên sàn SHFE tăng 154 NDT/tấn (23 USD/tấn) lên 3.928 NDT/tấn (mức cao nhất kể từ tháng 3/2013), và giá giao ngay thép cây HRB400 18-25mm ở Bắc Kinh theo Platts chạm mức cao 5 năm là 4.040-4.060 NDT/tấn.
Theo phát biểu tại cuộc họp, kết luận về nguồn cung sẽ giảm mạnh trong những tháng tới đã kéo giá thép lên như tên lửa, cộng với các nghi ngờ về khả năng đầu cơ mạnh để kiếm lời trên thị trường giao hạn.
CISA trích dẫn xu hướng cân bằng giữa cung cầu trong nửa đầu năm nay là ví dụ cho thấy việc đóng cửa lò cảm ứng không hề khiến cho nguồn cung thép thắt chặt. Các nhà máy vẫn có thể bổ sung nguồn cung thông qua cách gia tăng công suất cá nhân để bình ổn thị trường.
Hơn thế nữa, xu hướng thái quá gần đây và các lo âu quá mức về nguồn cung có thể tác động xấu tới nỗ lực của Chính Quyền trong việc loại bỏ công suất quá mức, CISA lên tiếng cảnh báo. Cuối cùng, chính các nhà máy sẽ chịu hậu quả do giá tăng quá nhân dẫn tới giá nguyên liệu thô tăng song song và nguồn cung tăng, sẽ dần ăn mòn lợi nhuận các nhà máy.
Các đồn đoán về cắt giảm sản lượng thép ở 26 thành phố gồm Hà Bắc, Hà Nam, Sơn Tây và Sơn Đông, cũng như các đô thị Bắc Kinh và Thiên Tân vào mùa đông đã dẫn tới suy nghĩ sai lệch. CISA cho biết điều này không có nghĩa là khoảng 50% sản lượng thép thành phẩm sẽ được cắt giảm.
Bên cạnh đó, Chính quyền Trung Quốc sẽ công bằng và chỉ áp dụng các biện pháp kiểm soát ô nhiễm, và dường như không bắt buộc các nhà máy đáp ứng đúng tiêu chuẩn thân thiện với môi trường phải cắt giảm cùng mức như những nhà máy không đủ tiêu chuẩn.