Sản lượng thép dây Thổ Nhĩ Kỳ xuất khẩu giảm nhưng giá tăng
Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đang cố gắng giữ giá chào thép dây tại mức cao trong mấy tuần nay sau khi giá tăng mạnh theo giá phế, phôi thanh và tâm lý thị trường lạc quan.
Giá chào các nhà máy tầm 590-600 USD/tấn FOB tùy thuộc khối lượng, nhưng giá chào mua vẫn thấp hơn 10-15 USD/tấn.
Mặc dù thu được giá cao hơn nhưng khối lượng xuất khẩu giảm. Xuất khẩu thép dây giảm 28% so với cùng kỳ năm ngoái trong tháng 7 xuống còn 47.440 tấn.
Một quốc gia Caribbean trở thành nhà nhập khẩu thép dây lớn nhất của Thổ Nhĩ Kỳ trong tháng 7 tại mức 23.350 tấn mặc dù không hề nhập khẩu trong cùng kỳ năm ngoái.
Xuất khẩu tới Israel đạt tổng cộng 10.750 tấn trong tháng 7, tăng 24% so với cùng kỳ năm ngoái nhưng giảm mạnh từ mức 38.280 tấn tháng trước. Xuất khẩu tới hai nước này chiếm 72% trong tổng thép dây xuất khẩu từ Thổ Nhĩ Kỳ.
Hesteel Trung Quốc giữ nguyên giá thép cây
Nhà máy Hesteel Group sẽ giữ nguyên giá niêm yết thép cây giai đoạn 11-20/9 tại mức 4.150 NDT/tấn (635 USD/tấn), theo thông báo ngày hôm qua.
Thêm vào đó, nhà máy quyết định đền bù cho các đại lý 150 NDT/tấn cho các đơn hàng đặt hồi đầu tháng.
Giá áp dụng cho các sản phẩm sản xuất bởi các chi nhánh Tangshan Iron & Steel, Xuanhua Iron & Steel và Chengde Iron & Steel của Tập đoàn bán tại Bắc Kinh và Thiên Tân, giá xuất xưởng trọng lượng lý thuyết đã tính thuế.
Giá của Hesteel tương đương mức 4.278 NDT/tấn trọng lượng thực tế.
Angang tăng giá thép dẹt tháng thứ ba liên tiếp
Nhà máy Angang ở đông bắc Trung Quosc tăng giá chào bán thép dẹt giao tháng 10.
Đây là lần tăng giá thứ ba liên tiếp của nhà máy với mức tăng tổng cộng 200 NDT/tấn (30.6 USD/tấn) cho HRC. Nhà máy này cũng tăng giá CRC thêm 100 NDT/tấn, ngoại trừ CRC dùng cho sản xuất các bộ phận xe hơi với mức tăng 150 NDT/tấn.
Trong các sản phẩm khác, Angang tăng giá tấm dày thêm 150 NDT/tấn và giá HDG tăng 100 NDT/tấn. Công ty hiếm khi tiết lộ giá niêm yết thực tế hàng tháng mà chỉ công bố mức tăng giảm.
Một thương nhân Thượng Hải cho rằng giá niêm yết của Angang ít tác động tới giá giao ngay vì vốn dĩ giá rất cao so với giá giao ngay.
Các nhà buôn phế Mỹ tập trung xuất khẩu sau khi thị trường trong nước suy yếu
Trước sự thất vọng của thị trường phế tháng 9, các nhà cung cấp phế Mỹ đang tăng cường đơn hàng tới bờ vịnh để xuất khẩu.
Giá chốt đơn hàng phế khối lượng lớn tới Thổ Nhĩ Kỳ giảm và nhu cầu tiêu thụ phế khối lượng nhỏ im ắng ở Ấn Độ nhưng vẫn còn sự lựa chọn cho các nhà cung cấp phế Mỹ, ít nhất thu hút hơn thị trường trong nước.
Các khách hàng Pakistan đang thu mua phế vụn khối lượng nhỏ Mỹ tại mức 320 USD/tấn FAS Bờ đông.
Mức giá 320 USD/tấn cho phế vụn cao hơn so với giá 315 USD/tấn tại Ohio và South Carolina.
Trong tuần trước, các nhà máy thép Mỹ bắt đầu thu mua phế với giá ổn định. Phần lớn các nhà cung cấp phế bán vào trong nước với giá không đổi nhưng số khác bán tới bờ vịnh.
Kể từ tuần qua, có hai lô hàng phế lớn được bán tới Thổ Nhĩ Kỳ. Trong ngày thứ sáu, một đơn hàng phế HMS 80:20 chốt ở mức 355 USD/tấn CFR và một đơn hàng phế vụn chốt ở mức 360 USD/tấn CFR. Trong ngày thứ ba tuần này, một đơn hàng phế khối lượng lớn Bờ đông chốt thấp hơn 5 USD/tấn so với thứ sáu, còn 350 USD/tấn CFR và phế vụn ở mức 355 USD/tấn CFR.
Platts giảm giá phế vụn Bờ Đông xuống 5 USD/tấn trong ngày hôm qua, còn 334 USD/tấn FOB nhưng vẫn cao giá phế vụn Midwest (300-315 USD/tấn).
Bên cạnh đó, các nhà buôn phế ở Northeast đang bán tới bờ vịnh trong khi các nhà buôn phế Midwest tìm kiếm đơn hàng xuất khẩu. giá cho phế HMS 1 Midwest là 300-305 USD/tấn giao tới cảng Bờ đông từ phía tây như Indiana. Các điểm xuất khẩu ở Bờ Đông tăng giá chào mua thêm 10-15 USD/tấn để thu hút nguyên liệu từ Miwest. Tại Chicago, một nhà xuất khẩu trả 270 USD/tấn chở bằng xà lan cho phế HMS 1 để vận chuyển dọc đường sông tới cảng xuất khẩu New Orleans.
Các nhà xuất khẩu phôi thanh Iran tăng giá
Các nhà xuất khẩu phôi thanh Iran tăng giá chào bán do thiếu chào giá từ Trung Quốc tại Vịnh Ba Tư.
Vài giao dịch chốt ở mức 518-520 USD/tấn FOB nhưng các nhà xuất khẩu không chấp nhận mức này nữa. Vài giao dịch chốt quanh mức 525 USD/tấn FOB cảng Iran.
Nhà xuất khẩu phôi thanh lớn nhất Iran sẽ không tham gia đàm phán xuất khẩu do giá tăng. Họ dự báo giá tiếp tục tăng lên khoảng 535-545 USD/tấn FOB vào tuần tới.
Một thương nhân ở London cho biết Iran đang dần thay thế phôi thanh CIS và Trung Quốc ở vịnh Ba Tư. Xuất khẩu thép thanh vuông Trung Quốc gần đây không cạnh tranh do giá tăng mạnh. Trong ngày 12/9, thép thanh vuông Trung Quốc ở mức 530 USD/tấn FOB, cao hơn phôi thanh CIS 12.50 USD/tấn.
Chào giá hiện tại tăng lên 530-540 USD/tấn FOB với các nỗ lực giảm xuất khẩu của Chính Phủ để đẩy giá tăng và thậm chí trên mục tiêu các nhà máy CIS.
Các nhà máy CIS đang chào bán tại mức 520-530 USD/tấn FOB Biển Đen/Biển Azov với 10.000 tấn chốt ở mức 515 USD/tấn FOB Mariupol.
Giá tấm mỏng Mỹ ổn định theo giá phế
Người mua không chắc liệu các nhà máy có tăng giá tấm mỏng trong tháng này hay không do giá phế đã không tăng thêm được 20-30 USD/tấn như dự báo.
Giá phế đang ổn định và giá chào từ các nhà máy cũng ổn định ở mức 620 USD/tấn cho HRC và 810 USD/tấn cho HDG.
Trước tuần thu mua phế, tâm lý thị trường tốt. Một trung tâm dịch vụ cho biết đã lo lắng về việc khách hàng chậm đặt hàng nhưng hiện tại, ông không nghĩ giá tăng nữa.
HRC vẫn ở mức 620 USD/tấn còn CRC và HDG ở mức 820-840 USD/tấn.
Một trung tâm dịch vụ khác cho rằng giá vẫn có khả năng tăng nữa theo giá nguyên liệu thô. Các nỗ lực xây dựng trở lại sau bão ở Texas, Florida và Caribbean có thể hỗ trợ nhu cầu tiêu thụ.
Một nguồn tin khác cho hay đang chờ đợi. Ông nghĩ các nhà máy sẽ giữ giá hết mức có thể do họ đã bắt đầu đàm phán hợp đồng năm 2018.
Platts vẫn duy trì giá HRC và CRC ổn định tại mức 620-640 USD/tấn và 790-820 USD/tấn xuất xưởng Midwest (Indiana).
Phôi thanh CIS chạm mức cao 4.5 năm do sức mua từ Algeria tăng
Thị trường phôi thanh Biển Đen tăng trưởng trở lại vào hôm qua do Algeria đặt mua các lô hàng tại mức giá cao hơn.
Platts tăng giá phôi thanh CIS thêm 7.50 USD/tấn, đạt mức 525 USD/tấn FOB vào hôm qua, tăng 15 USD/tấn chỉ trong 2 ngày, lên mức cao 4.5 năm.
Các khách hàng khác như Thổ Nhĩ Kỳ và Ai Cập lại do dự hơn. Tại Thổ Nhĩ Kỳ, giá chào phôi thanh nội địa ở mức 530-540 USD/tấn xuất xưởng, cho thấy giá chào từ CIS quá cao. Tâm lý thận trọng do giá phế giảm, với phế HMS I/II được đặt mua tại mức 350 USD/tấn CFR.
Một nhà máy CIS cho biết các đơn hàng phôi thanh nghe chốt ở mức 535 USD/tấn FOB Biển Đen nhưng không có thêm thông tin chi tiết nào.
Một nhà máy khác đã chốt được đơn hàng 25.000 tấn phôi thanh tới Algeria ở mức 550 USD/tấn CFR, gần mức 525 USD/tấn FOB. Một thương nhân Châu Âu đồng tình rằng các thị trường Algeria và Moroccan có thể trả giá 550 USD/tấn CFR. Algeria rõ ràng đang đói hàng và Chính phủ đã công bố giấy phép nhập khẩu trong bối cảnh giá tăng.
Một thương nhân cho biết một khách hàng Algeria gần đây đã đặt mua 30.000 tấn phôi thanh Braxin tại mức 550-555 USD/tấn CIF.
Thị trường Ai Cập mặc dù từ chối giá chào tăng từ CIS nhưng vẫn muốn đặt hàng. Mức giá 535 USD/tấn CFR đã được chấp nhận và tuần tới sẽ trả thêm 10 USD/tấn. Giá có thể chấp nhận cho thị trường Ai Cập là 540 USD/tấn CFR.
Giá thép cây/phôi thanh Thổ Nhĩ Kỳ ổn định
Giá thép cây và phôi thanh Thổ Nhĩ Kỳ ổn định trong bối cảnh tiêu thụ nội địa và xuất khẩu khá tốt mặc dù tâm lý thị trường có tín hiệu suy yếu.
Một nhà máy cho biết các nhà máy đã bán được lượng lớn thép sau thời gian trì trệ. Giá tăng tại các thị trường mục tiêu chẳng hạn như UAE hỗ trợ giá chào bán của các nhà máy. Giá chào thấp nhất là 555 USD/tấn FOB.
Thổ Nhĩ Kỳ đang bán thép vào ASEAN với giá chào thấp nhất là 565 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết tới Singapore giao tháng 11.
Nhu cầu tiêu thụ trong nước ổn khá tốt nhưng giá chào bán ổn định ở mức 553-558 USD/tấn xuất xưởng tùy vào khu vực.
Theo một thương nhân cho biết, giá thép cây trong nước hiện ở mức 560 USD/tấn và thị trường có vẻ chậm chạp. Gía tại Iskenderun giảm 100 TRY/tấn. Các nhà máy đang cố gắng bán nhanh để kiếm tiền mặt.
Giá chào từ các nhà môi giới ở khu vực Iskenderun ổn định ở mức 2.270-2.280 TRY/tấn (659.6-662.6 USD/tấn) đã tính thuế sau khi suy yếu tuần trước. Gía tại Istanbul cao hơn 10-20 TRY/tấn (2.9-5.8 USD/tấn) so với Iskenderun.
Giá phôi thanh trong nước cũng ổn định ở mức 525-530 USD/tấn xuất xưởng tuần này trong bối cảnh giá phế nhập khẩu tương đối ổn định.
Giá nhập khẩu phế HMS I/II giảm 5 USD/tấn, còn 350 USD/tấn CFR trong ngày hôm qua.
NSSMC tăng giá thép dầm hình H trở lại
Nhà máy Nippon Steel & Sumitomo Metal Corp (NSSMC) quyết định tăng giá thép dầm hình H cho hợp đồng tháng 9. Theo phát ngôn viên nhà máy cho hay, mức tăng hồi tháng 8 đã được chấp nhận hoàn toàn trong khi chi phí sản xuất tăng nên công ty cần tăng giá thép để bảo toàn lợi nhuận.
Công ty tăng giá thêm 3.000 Yên/tấn (27 USD/tấn) sau khi tăng giá tháng 8 thêm 2.000 Yên/tấn.
Chi phí sản xuất của các nhà máy tích hợp và hồ quang điện đang tăng. Quặng sắt, than đá, phế và giá hợp kim vẫn ở mức cao nhưng phí vận chuyển và các chi phí khác như điện cực và chất chịu nhiệt đang tăng.
NSSMC không công bố giá niêm yết nhưng giá thép dầm hình H cỡ lớn ở Tokyo là 75.000-76.000 Yên/tấn (681-690 USD/tấn), không đổi so với tháng 4.
Một thương nhân thép xây dựng Tokyo cho biết điều kiện thị trường đang cải thiện, với quá trình giao hàng từ các nhà phân phối tới khách hàng đang tăng và tồn kho thấp. Cân bằng cung cầu thắt chặt sẽ hỗ trợ giá.
Tồn kho thép dầm hình H tại tập đoàn Tokiwakai gồm các nhà phân phối của NSSMC cuối tháng 8 giảm 5% so với tháng 7 và 4.2% so với cùng kỳ năm ngoái xuống còn 179.400 tấn. Đây là lần đầu tiên kể từ cuối tháng 12, tồn kho của Tokikawa giảm dưới mức 180.000 tấn. Lượng thép giao từ các nhà phân phối tới khách hàng trong tháng 8 ở mức trung bình 4.400 tấn, tăng từ mức 4.3000 tấn trong tháng 7 mặc dù tháng 8 có nhiều ngày lễ hơn.
Trong khi đó, chi nhánh Nippon Steel & Sumikin Shapes ở Wakayama cũng tăng giá thép dầm hình H thêm 3.000 Yên/tấn.
Thép cây Châu Á ổn định do tiêu thụ suy yếu
Giá thép cây Châu Á ổn định ngày thứ ba liên tiếp tính tới hôm qua. Các nhà xuất khẩu giữ giá chào bán ở mức cao do giá trong nước ổn định mặc dù các khách hàng ngoài nước do dự đặt hàng.
Platts vẫn duy trì giá thép cây BS500 16-20mm tại mức 560-564 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế, không đổi so với thứ ba.
Tại Singapore, giá thép cây 10-40mm Thổ Nhĩ Kỳ được các thương nhân chào bán ở mức 565 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết giao tháng 11. Tuy nhiên, người mua do dự đặt hàng thậm chí ở mức 550 USD/tấn CFR bởi vì giá bán trong nước ở mức 620-630 GSD/tấn (461-468 USD/tấn), thấp hơn giá chào hiện tại.
Tại Hồng Kông, thép cây Ấn Độ 10-40mm chào ở mức 570 USD/tấn CFR trọng lượng thực tế giao tháng 11.
Một thương nhân Thượng Hải cho biết rất khó để các nhà xuất khẩu thép Trung Quốc chốt được đơn hàng lúc này vì vấp phải áp lực giá cạnh tranh từ các đối thủ, như Thổ Nhĩ Kỳ.
Các nhà xuất khẩu thép Trung Quốc vẫn giữ chào vào hôm qua. Một nhà máy lớn ở miền đông giữ giá chào thép cây 10-40mm tại mức 565 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng lý thuyết giao tháng 11. Giá tương đương mức 582 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế kèm 3% chênh lệch khối lượng.
Một nhà máy khác chào bán ở mức 580 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế trong khi một nhà máy ở phía bắc chào bán ở mức cao 595 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế giao tháng 11.
Tại Bắc Kinh, giá giao thép cây HRB400 18-25mm tăng 5 NDT/tấn (1 USD/tấn), đạt mức 4.125-4.115 NDT/tấn (631-635 USD/tấn) xuất xưởng trọng lượng thực tế đã tính thuế.
Thị trường HRC Châu Á ổn định do thiếu đơn hàng
Giá HRC Châu Á ổn định ngày thứ ba liên tiếp tính tới hôm qua do tình hình giao dịch trầm lắng. Cả hai bên mua và bán đều thận trọng với giá chào không đổi.
Platts duy trì giá HRC SS400 3.0 mm ổn định ở mức 595 USD/tấn FOB Trung Quốc. Giá HRC Q235 5.5mm trong nước giảm 5 NDT/tấn còn 4.210-4.230 NDT/tấn (645-648 USD/tấn) xuất xưởng.
Tại sàn giao kỳ hạn, hợp đồng HRC giao tháng 1 chốt giảm 58 NDT/tấn còn 4.119 NDT/tấn.
Mặc dù giá nội địa Trung Quốc suy yếu vào hôm qua, nhưng các nhà máy từ chối giảm giá xuất khẩu mà chỉ giữ giá bình ổn quanh mức 600 USD/tấn FOB.
Một nhà máy phía bắc giảm giá chào HRC SS400 xuống 10 USD/tấn còn 615 USD/tấn FOB do giá trong nước giảm.
Một giao dịch tuần này chốt ở mức 600 USD/tấn FOB Trung Quốc tới Châu Phi với khối lượng tầm 2.000-3.000 tấn.
Đối với thép cuộn SAE, một nhà máy giữ chào giá thép cuộn SAE 1006 tại mức 620 USD/tấn CFR Việt Nam. Một nhà máy khác chào giá 600-610 USD/tấn CFR Việt Nam. Giá chào của nhà máy này hôm thứ ba là 610 USD/tấn CFR Việt Nam.
Một giao dịch khác nghe vào hôm thứ ba cho lô hàng 10.000 tấn từ một nhà máy ở đông bắc Trung Quốc chốt ở mức 590 USD/tấn CFR Việt Nam giao tháng 10.
Trong tuần trước, nhà máy trên đã bán được 1.000 tấn thép cuộn SAE1006 tại mức 591 USD/tấn CFR Việt Nam giao tháng 10.
Giá thép dây Châu Á tăng theo giá thép Trung Quốc
Giá thép dây Châu Á tăng trong ngày hôm qua, hỗ trợ bởi giá thép Trung Quốc mạnh mặc dù tiêu thụ chậm chạp. Platts tăng giá thép dây lưới 6.5mm Trung Quốc thêm 1 USD/tấn so với tuần trước, đạt mức 590 USD/tấn FOB.
Tại Thượng Hải, giá giao ngay thép dây Q195 6.5mm giảm 65 NDT/tấn so với tuần trước, còn 4.180 NDT/tấn (640 USD/tấn) xuất xưởng đã tính thuế. Các thương nhân cho rằng giá giao kỳ hạn sụt giảm là lý do kéo giá giao ngay giảm.
Các nhà máy ở miền đông và bắc Trung Quốc chào bán tại mức 615-620 USD/tấn FOB cho thép dây SAE1008 6.5mm giao tháng 11, tăng từ mức 595-605 USD/tấn FOB tuần trước. Giá tăng cùng với quyết định tăng giá cho các đơn hàng giữa tháng 9 của các nhà máy.
Tuy nhiên, doanh số bán ra chậm do giá chào cao, thậm chí ở mức 600 USD/tấn FOB. Trong khi đó, một nhà máy ở miền Bắc Trung Quốc chào bán thép dây SAE1006 6.5mm tại mức 600 USD/tấn FOB trong ngày hôm qua.
Các khách hàng Châu Á vẫn im ắng trong tuần này do giá thép nội địa Trung Quốc bất ổn. Tuy nhiên, đơn hàng từ Nam Mỹ tăng mạnh do tồn kho thấp. Thêm vào đó, vài thương nhân cho biết đã mua thép dây từ Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 570 USD/tấn FOB xuất khẩu tới Nam Mỹ.
Nhà máy Jiujiang Wire Co ở Hà Bắc đã tăng giá niêm yết hàng tuần lên 20 NDT/tấn lên 4.070 NDT/tấn xuất xưởng trong ngày 12/9. Nhà máy này đã ngưng chào bán ở thị trường xuất khẩu do khó bán mức 615 USD/tấn FOB và muốn bán vào trong nước hơn. Xu hướng thị trường vẫn chưa rõ ràng.