Bản tin phế tuần: Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ tìm cách bình ổn giá
Các nguồn tin cho biết các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đang nhắm mục tiêu bình ổn giá phế liệu trong lần mua sau, trong khi nhu cầu tiêu thụ thép trong nước và xuất khẩu chậm chạp. Tuy nhiên, ít nhất một nhà sản xuất thép cho biết các chào giá của các nhà cung cấp phế liệu đã tăng mạnh do điều kiện thời tiết khắc nghiệt.
Tại thị trường Thổ Nhĩ Kỳ trong nước, giá thép cây vẫn tương đối mạnh trên cơ sở đồng đô la, sau khi đồng Lira dần tăng giá so với đồng đô la kể từ tuần cuối cùng của tháng 12.
Giữa tuần, một đại lý của Thổ Nhĩ Kỳ cho biết ông nghe rằng giá chào của Mỹ vẫn ở trên 380 USD/ tấn. Giá chào mua từ Thổ Nhĩ Kỳ vẫn còn khoảng 365-370 USD/tấn.
Hôm thứ Năm, thị trường đã phấn khởi về thông ti có 5 lô hàng giao tới Ai Cập trong tháng này. Hai thương gia Anh báo cáo vận chuyển 4 trong số đó, trong khi lô thứ năm được báo cáo là là của Mỹ. Một thương nhân quốc tế nói rằng hàng hóa của Hoa Kỳ có giá 385 USD/tấn cho phế HMS 80:20.
Một thương nhân ở Benelux cho hay, một nhà máy của Thổ Nhĩ Kỳ đã chào mua 375 USD/tấn đối với vật liệu 80:20 của Mỹ, nhưng bị từ chối.
Thị trường xuất khẩu phế liệu của Nhật vẫn yên lặng.Trong khi đó, tập đoàn Kanto Tetsugen H2 đã tố chức đấu thầu hôm thứ sáu và giá trúng thầu lần đầu tiên là 37.820 Yên/tấn (340 USD/tấn) FAS, tăng 1.694 USD/ tấn (15 USD/tấn) so với mức giá cao nhất của tháng trước.
Trong khi thị trường phế liệu khối lượng lớn châu Á vẫn trầm lắng trong tuần.Trong tuần, các đơn đặt hàng phế HMS I/II 80:20 container chốt khoảng giá 350-357 USD/tấn CFR Đài Loan.
Giá HRC Mỹ tiếp tục tăng
Giá HRC Mỹ tiếp tục tăng vào hôm thứ sáu do người mua khó tìm được giá dưới 680 USD/tấn.
Một trung tâm dịch vụ cho biết giá HRC đã tăng cao hơn 650 USD/tấn cách đây 1 tuần. Một nhà máy mini Midwest chào bán và nhận được 700 USD/tấn cho HRC.
Giá CRC không tăng mạnh bằng các loại thép cuộn khác nhưng các nhà máy chào tới 880 USD/tấn với vài đơn hàng gần mức 860 USD/tấn.
Tuy nhiên, thị trường CRC nội địa suy yếu hơn mức này tầm 800-860 USD/tấn. HRC là mặt hàng mạnh nhất với vài thương nhân không tìm được giá dưới 680 USD/tấn với phần lớn chào giá 700 USD/tấn.
Một nhà máy vẫn đang cố gắng đẩy giá HRC lên trên 700 USD/tấn.
Giá chào từ Thổ Nhĩ Kỳ hiện tại là 640 USD/tấn giao tới Houston. chào giá từ Mexico tương tự.
Chào giá gang thỏi CIS tháng 2 và tháng 3 tăng
Các nhà xuất khẩu gang thỏi CIS bắt đầu năm mới với giá tăng cho đơn hàng giao tháng 2 và 3 dựa vào phế tăng ở Mỹ và Thổ Nhĩ Kỳ cộng với giá quặng sắt tăng.
Trong khi các nhà máy thỉnh thoảng tăng giá và người mua hoài nghi chống cự nhưng thời điểm này cả hai bên đều tăng giá.
Chào giá cho tháng 3 tầm 405 USD/tấn CIF New Orleans, tương đương 385-390 USD/tấn FOB Biển Đen/Bantic. Giá thảo luận tầm 400 USD/tấn CIF.
Tại Ukraina, một nguồn tin nghe nói mục tiêu các nhà máy là 390 USD/tấn FOB Biển Azov nhưng chưa có giao dịch. Một nhà máy Ukrainaa đã bán gần 400 USD/tấn CIF vịnh Mexico và đang đặt mục tiêu giá 400-405 USD/tấn CIF, tương đương 385-390 USD/tấn FOB Biển Azov. Giá này chào tới các thị trường khác gồm Ý và Thổ Nhĩ Kỳ nhưng các giao dịch vẫn trong đàm phán.
Một thương nhân Ý cho biết có chào giá thấp tầm 390-395 USD/tấn CIF Ý nhưng không có giao dịch mức này. Một thương nhân Thổ Nhĩ Kỳ cho biết giá chào 380 USD/tấn FOB Biển Đen, tương đương 395-400 USD/tấn CIF Thổ Nhĩ Kỳ.
Giá phôi phiến CIS tăng
Giá phôi phiến CIS tiếp tục tăng theo giá thép cuộn. Chào giá mới nhất cho Thổ Nhĩ Kỳ là 550 USD/tấn CIF, tương đương 530-535 USD/tấn FOB Biển Đen.
Tuy nhiên, các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ chưa sẵn sàng đặt ở mức này với giá 510 USD/tấn FOB Biển Đen được xem là hợp lý.
Giá thép cuộn nội địa Thổ Nhĩ Kỳ vẫn mạnh do các nhà máy bán HRC ở mức 620-625 USD/tấn xuất xưởng. Điều này cho thấy giá mua phôi phiến sẽ không dưới 510 USD/tấn FOB Biển Đen.
Đơn hàng phôi phiến Nga gần đây từ cảng Châu Á tầm 520 USD/tấn FOB, cho thấy tương đương giá 510 USD/tấn FOB Biển Đen.
Nguồn cung phôi phiến CIS có thể giảm nhẹ trong vài tháng tới dựa vào sự cố lò cao ở Nizhniy Tagil iron and steel works (NTMK) của Evraz ở Urals. Trong năm 2016, NTMK đã khai móng cho lò cao số 7 và sẽ công bố vào tháng 2 hoặc 3 tới.
Lò mới này sẽ ngăn sự sụt giảm gang thỏi trở nên nghiêm trọng khi NTMK phá hủy lò cao số 6 cho tái sửa chửa dài hạn. Hai sự kiện trên dường như trùng hợp và có thẻ tác động tới sản lượng gang thỏi và phôi phiến nhưng kế hoạch dài hạn là lò cao mới 2.5 triệu tấn/năm, lò cao thứ ba của NTMK giúp duy trì sản lượng gang thỏi 5 triệu tấn/năm khi lò số 6 hư hỏng.
Đại diện nhà máy phủ nhận rằng công ty có thể tăng nguồn cung phôi phiến tới đối tác trong năm nay là nhà máy ống thép đường kính lớn OMK và giảm cung tới thị trường giao ngay. Phía nhà máy cho hay vẫn giữ nguồn cung tới OMK không đổi.
Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ tăng giá chào bán HRC nội địa và xuất khẩu
Giá chào bán HRC tiếp tục tăng trong tuần trước dựa vào chi phí đầu vào và giá nhập khẩu tăng. Tuy nhiên, người mua từ chối dù tồn kho thấp và giá giao dịch thấp hơn giá chào bán 10-15 USD/tấn.
Một nhà máy lớn chào bán HRC trong nước ở mức 635-640 USD/tấn xuất xưởng tùy vào khối lượng. Giá niêm yết số khác tăng lên 625-635 USD/tấn xuất xưởng. Tuy nhiên, giá chốt tầm 620-630USD/tấn xuất xưởng tùy vào khối lượng.
Giá chào tới Châu Âu và vài thị trường khác tăng lên mức cao 620-630 USD/tấn FOB nhưng tiêu thụ vẫn chưa phục hồi sau năm mới và không có giao dịch Các nhà máy tăng xuất khẩu thép dẹt tới Châu Âu năm 2017 chủ yếu là Tây Ban Nha và Ý trong bối cảnh áp thuế chống bán phá giá cho thép dẹt nhập khẩu.
Trong khi đó, các nhà máy CIS đang dần trở lại thị trường tuần này. Tuy nhiên, giá chào cho tháng 3 có thể cao hơn 15-20 USD/tấn lên 600 USD/tấn CFR. Giá nhập khẩu sẽ rõ hơn vào tuần tới.
Các nhà máy Ý tăng giá thép cuộn như dự báo
Phần lớn các nhà máy thép cuộn Nam Âu đã tăng giá như dự báo thêm 20-40 Euro/tấn.
Mục đích các nhà máy đạt mức 550 Euro/tấn (667.26 USD/tấn xuất xưởng cho HRC, và 640 Euro/tấn cho CRC và 650 Euro/tấn xuất xưởng cho HDG, với người mua sẵn sàng trả giá cao hơn.
Giá tăng nhờ 3 yếu tố: giá nguyên liệu thô tăng, tiêu thụ tốt và giá nhập khẩu tăng.
Các nguồn tin Ý cho biết giá nhập khẩu đã tăng 20 Euro/tấn và rất khó để tìm nguyên liệu.
Các thương nhân và các trung tâm dịch vụ xác nhận chỉ có vài chào giá từ Ấn Độ ở mức 545-550 Euro/tấn CIF cảng Ý tầm 3.000 tấn giao tháng 3 và không có giá nào từ Thổ Nhĩ Kỳ, Hàn Quốc hoặc Đài Loan.
Giá HDG tăng chủ yếu nhờ giá kẽm tăng. Các nhà nhập khẩu Ý dự báo sẽ có quyết didnhj đánh thuế thép Trung Quốc vào tháng tới, nhưng có vẻ không có nhiều tác động vì nguyên liệu nhập khẩu chủ yếu để sản xuất xe hơi.
Thép cây Ấn Độ được ưa chuộng trong và ngoài nước
Các dự án xây dựng quỹ công cộng tăng lên tại Ấn Độ đang kích cầu thép cây. Doanh số bán hàng tháng của công ty Steel Authority of India Limited (SAIL) thuộc sở hữu nhà nước Ấn Độ trong tháng 12 tăng 10% so với cùng kỳ năm ngoái lên 220.000 tấn. Các đơn hàng thép cây được đặt cho việc xây dựng đường cao tốc, xa lộ, xe lửa và cầu vượt,..
Tốc độ xây dựng cải thiện với Chính quyền trung ương và thành phố giải phóng các quỹ xây dựng cơ sở ạ tầng. Chính quyền Ấn Độ đang xúc tiến các dự án trước bầu cử Quốc hội năm sau.
Theo Bộ giao thông vận tải Ấn Độ cho biết, khoảng 1.355 dự án cao tốc với chiều dài hơn 44.477 kms bao gồm cầu vượt và hầm chui đang xây dựng. Trong đó, tầm 559 dự án gồm cả cầu dự báo hoàn thành vào tháng 3/2019.
Nhu cầu tiêu thụ mạnh đang giúp giá thép cây tăng. Trong tuần đầu tháng 1, giá thép cây nội địa tăng 4.000 Rupees/tấn lên 41.000-42.000 Rupees/tấn so với tháng trước.
Các nhà máy Ấn Độ đang thu được doanh số xuất khẩu tăng lên dựa vào giá cạnh tranh. Trong tháng 4-tháng 11, xuất khẩu thép cây Ấn Độ gần tăng gấp đối so với cùng kỳ năm ngoái thêm 92% lên 3.27 triệu tấn.
Các nhà máy thuộc nhà nước thường tập trung vào bán trong nước như SAIL và Rashtriya Ispat Nigam Limited cũng đã nhảy vào thị trường xuất khẩu để cạnh tranh với các nhà máy tư nhân như JSW Steel và Jindal Steel & Power Limited.
Trong ngày 26/12, chào giá từ các nhà máy Ấn Độ cho thép cây 10-40mm là 590 USD/tấn CFR Singapore, so với chào giá 625 USD/tấn FOB Trung Quốc cùng ngày.
Giá thép không gỉ Châu Á tăng dựa vào niken tăng giá
Triển vọng thị trường lạc quan sau khi giá niken tăng lại trong tuần trước. Các nhà máy Đài Loan tăng giá chào bán và có vẻ như người mua không thể tìm được giá thấp trong tuần trước.
Chào giá từ Đài Loaan tăng lên mức cao 2.250 USD/tấn CFR trong tuần trước trong khi thậm chí có vài người ngưng chào bán dựa vào giá tăng hơn nữa. Trong khi đó, chào giá từ Posco Hàn Quốc là 2.600 USD/tấn CFR, không thu hút người mua.
Tại Trung Quốc, chào giá từ vài nhà máy lớn cho CRC 304 là 2.150 USD/tấn FOB giao tháng 3. Taigang Stainless Steel đự báo sẽ công bố giá chào mới vào 20/01.
Giá giao dịch niken trên sàn LME chốt tăng 220 NDT/tấn lên 12.835 NDT/tấn.
NSSC giữ giá CRC và tấm không gỉ
Nippon Steel & Sumikin Stainless đã quyết định giữ giá CRC và tấm dày không gỉ cho hợp đồng tháng 1.
NSSC giải thích rằng giá niken trung bình tháng 11-tháng 12 tăng 0.02 USD/ln so với tháng 10-tháng 11 và giá ferronchrome trung bình là 147 cents/lb. Thật may là sự biến đổi tỷ giá không ảnh hưởng tới giá kim loại và công ty có thể giữ giá thép.
Nhu cầu tiêu thụ CRC không gỉ ổn định do các ngành tiêu thụ cuối gồm dự án phát triển đô thị và nhà cửa liên quan tới thế vận hội Olympics Tokyo 2020 cộng với phát triển năng lượng, nhà bếp… CSSC cho biết tiêu thụ nội địa ổn định từ các ngành thông tin.
NSSC cũng hoat động sản xuất CRC ở mức thông thường tại Hikari và Kashima gần Tokyo cùng với tấm dày tại Yamata.
Một nhà phân phối cho biết vẫn chưa truyền tải được giá tăng trước đó từ các nhà máy tới khách hàng của họ nên hy vọng có thể sớm tăng giá.
Kể từ tháng 10, NSSC đã tăng tổng cộng 35.000 Yên/tấn cho CRC và tấm dày austenitic cũng như 20.000 Yên/tấn cho CRC Ferrite.
NSSC không công bố giá niêm yết nhưng giá hiện tại cho tấm cán nguội 304 2.0mm ở Tokyo là 340.000 Yên/tấn (3.057 USD/tấn) và tấm cán nguội 430 2.0mm là 270.000 Yên/tấn (2.428 USD/taaaans0. Giá cho tấm dày 304 trên 7.0mm ở Tokyo là 51.000 Yên/tấn (4.586 USD/tấn). Giá không thay đổi so với tháng trước.
Giá ống đúc miền đông Trung Quốc giảm theo giá thép tròn đặc
Giá ống đúc giao ngay miền đông Trung Quốc giảm vào cuối tuần qua theo giá thép tròn đặc.
Các nhà máy lớn đã thông báo ý định giảm giá niêm yết xuống 400 NDT/tấn (62 USD/tấn) cho đơn hàng 11-20/1.
Giá cho thép tròn đặc 20# 50-130m do các nhà máy Zenith Steel Group và Changqiang Iron & Steel sản xuất giảm 400 NDT/tấn xuống 4.570 NDT/tấn và 4.520 NDT/tấn cho đơn hàng giữa tháng 1 có thuế.
Một nhà máy lớn là Huaigang Special Steel thông báo giảm giá thép tròn đặc xuống 380 NDT/tấn còn 4.590 NDT/tấn có thuế. Đây là lần giảm giá thứ hai liên tiếp của các nhà máy này với tổng mức giảm 680-700 NDT/tấn.
Trong ngày thứ sáu, chào giá cho ống đúc 20# 219x6mm (GB/T 8163) do các nhà máy phía đông sản xuất là 5.100 NDT/tấn xuất xưởng có thuế, giảm 200 NDT/tấn so với 10 ngày trước đó.
Giá phôi thanh Châu Á ổn định
Giá phôi thanh Châu Á ổn định trong ngày thứ sáu. Người mua chờ đợi dựa vào sự suy yếu của giá trong nước nhưng giá chào bán vẫn cao.
Chào giá ở Manila ở mức 540-545 USD/tấn CFR cho phôi thanh Trung Quốc trong khi giá mua chỉ 525-530 USD/tấn CFR. Một thương nhân Tokyo cho biết người mua vẫn xa lánh thị trường dựa vào sự suy yếu của thị trường thép cây nội địa Trung Quốc.
Một nhà máy Trung Quốc cho biết tại Manila, chào giá thép tầm 540 USD/tấn CFR cho phôi thanh Q275 130mm và ông nhận được giá chào mua 526 USD/tấn CFR cho 10.000 tấn.
Một thương nhân Thượng Hải cho biết đã nhận được chào mua ở mức 526 USD/tấn CFR Manila và CFR Indonesia.
Một thương nhân Manila cho biết phôi thanh Trung Quốc đã thu hút trở lại với giá chào 540-545 USD/tấn CFR Manila. Giá chào mua tầm 525 USD/tấn CFR.
Giá thép cây xuất khẩu Trung Quốc tiếp tục giảm
Giá xuất khẩu thép cây Trung Quốc tiếp tục giảm trong ngày thứ sáu tuần trước do các nhà máy giảm giá theo giá trong nước và giá giao kỳ hạn.
Tại Singapore, một giao dịch chốt mức 560 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết cho thép cây 10-40mm Trung Quốc khối lượng 18.000 tấn giao tháng 3, tương đương 540-555 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế với phí vận chuyển 20 USD/tấn.
Giá đạt mức 560 USD/tấn theo một thương nhân sẽ rất khó do người mua có đủ hàng dự trữ và chưa có ý định nhận đơn hàng mới. Một thương nhân miền đông Trung Quốc nghĩ rằng giá có thể giao dịch tầm 540-550 USD/tấn CFR.
Các nhà môi giới cho rằng giá có thể xuống 520 USD/tấn FOB. Một người cho biết không muốn kiểm tra giá lúc này vì có đủ hàng dự trữ cho 4 tháng.
Tại Hồng Kông, một nhà môi giới nhận được chào giá thép cây 10-40mm giảm 5-10 USD/tấn giao cuối tháng 2/đầu tháng 3 ở mức 560 USD/tấn CFR trọng lượng thực tế từ một nhà máy miền bắc Trung Quốc, tương đương 547 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế. Hai nhà môi giới khác nhận được giá chào dưới 560 USD/tấn CFR. Một chào giá tầm 575 USD/tấn cho thép cây 40mm từ một nhà máy phía đông.
Chào giá từ các nhà môi giới trong nước giảm xuống 530 USD/tấn CFR do triển vọng thị trường suy yếu. Một nhà môi giới cho biết chào giá thép cây 10-40mm có thể đạt 550 USD/tấn CFR sớm.
Giá xuất khẩu HRC Trung Quốc giảm do sự suy yếu của thị trường nội địa
Giá xuất khẩu HRC Trung Quốc giảm dựa vào sự suy yếu của cả giá giao kỳ hạn và giá giao ngay trong nước.
Tại thị trường Thượng Hải, giá HRC Q235 5.5mm giảm 110 NDT/tấn xuống 4.130-4.150 NDT/tấn (639-642 USD/tấn) xuất xưởng có thuế.
Tại sàn giao kỳ hạn, hợp đồng HRC giao thấng 5 chốt giảm 43 NDT/tấn xuống 3.831 NDT/tấn.
Chào giá HRC từ các nhà máy Trung Quốc không đổi so với ngày trước đó, với chào giá thấp nhất là 575 và 585 USD/tấn FOB cho HRC SS400 và SAE1006.
Tại Việt Nam, điều kiện thị trường không cải thiện mấy do chênh lệch giá chào mua và chào bán 5-10 USD/tấn. Các thương nhân giảm giá chào xuống thấp để kích cầu, tầm 575-585 USD/tấn CFR Việt Nam cho HRC DD400 và 582-585 USD/tấn CFR cho HRC SAE1006.
Bản tin quặng tuần: giá tiếp tục tăng
Thị trường quặng tiếp tục tăng trưởng do tiêu thụ tăng trước thềm năm mới. Giá nhập khẩu quặng 62% sắt vào Trung Quốc giảm 1.05 USD/tấn so với thứ năm nhưng tăng 1.20 USD/tấn so với tuần đầu tháng lên 78.30 USD/tấn CFR Trung Quốc.
Các nhà máy và các thương nhân đang tích trữ hàng trước tết, thúc đẩy giá tăng.
Tuy nhiên, tồn kho thép tại cảng cũng tăng. Hoạt động tải hàng tại cảng Hedland Úc đang bị trì trệ do thông tin bão nhiệt đới đổ bộ vịnh Kimberley ở khu vực Pilbara phía tây Úc.
Các thành viên thị trường cho biết nhiều người mua đang bổ sung tồn kho dựa vào sự không chắc về tác động của bão tới kế hoạch giao hàng. Kết quả là có biến động trên sàn kỳ hạn và hỗ trợ giá quặng giao ngay.
Giá phôi thanh Đường Sơn gigamr 40 NDT/tấn so với thứ năm xuống 3.550 NDT/tấn (546.73 USD/tấn) xuất xưởng vào hôm thứ sáu.
Lợi nhuận thép đang gặp áp lực. Tiêu thụ cuối có thay đổi, chuyển sang quặng giá rẻ hơn với nồng độ sắt thấp hơn hoặc ít tinh khiết hơn.
Trong khi đó, quặng chất lượng cao ổn định ở những nơi khác. Trong khi giá than cốc cao làm hạn chế sức mua quặng cục thì vài nhà máy tăng nhẹ tỷ lệ sử dụng quặng cục vì nó kinh tế hơn so với các loại khác như quặng tinh hay viên.
Các nhà máy Châu Âu dự báo giá HDG tăng
Giá giao ngay HDG Bắc Âu dự báo tăng trong Q1 nhưng giá ổn định những tháng qua khiến thị trường ngạc nhiên.
Giá hàng tuần cho HDG Châu Âu tăng 5 Euro/tấn lên 665 Euro/tấn xuất xưởng (808.24 USD/tấn). Mức này khiến thị trương thất vọng dựa vào tiêu thụ tăng.
Một nhà máy phân vân về giá HDG chỉ 660 Euro/tấn vì nguồn cung sẵn có thấp mà lại không có hàng nhập khẩu. Giao hàng phải tới tháng 4. Chào giá mới từ Việt Nam đắt còn các nước khác không chào bán.
Một người tranh cãi rằng khối lượng nhập khẩu không giảm mạnh dù có thuế chống bán phá giá cho HDG Trung Quốc. Trong mấy năm nay, Trung Quốc là nhà xuất khẩu lớn nhất tới EU nhưng các nước Việt Nam, Đài Loan, Ấn Độ thì lại vắng bóng.
Tuy nhiên, các nhà máy cho rằng giá sẽ tăng nữa chủ yếu do giá kẽm tăng. Một nhà phân phối cho biết tiêu thụ mạnh và giá nguyên liệu thô tăng thúc đẩy giá tăng.
Xuất khẩu thép Trung Quốc năm 2017 giảm 31% so với cùng kỳ năm ngoái
Xuất khẩu thép thành phẩm Trung Quốc năm 2017 giảm 30.5% so với cùng kỳ năm ngoái xuốn 75.43 triệu tấn, theo báo cáo của Tổng cục hải quan Trung Quốc. Đây là năm xuất khẩu thấp nhất kể từ 2014, cho thấy thị trường đang tập trung vào các khách hàng nội địa dựa vào giá trong nước cao hơn.
Xuất khẩu thép ròng năm 2017 ở mức 62.13 triệu tấn, giảm 34.8% so với cùng kỳ năm ngoái.
Trong năm 2017, giá xuất khẩu HRC Trung Quốc ở mức trung bình 506 USD/tấn FOB, tăng 34% so với cùng kỳ năm ngoái trong khi giá xuất khẩu thép cây trung bình tăng 42% so với cùng kỳ năm ngoái lên 478 USD/tấn FOB.
Động lực tăng trưởng giá ở thị trường xuất khẩu chủ yếu nhờ giá trong nước dựa vào nguồn cung thắt chặt sau khi Bắc Kinh thực hiện chính sách giảm sản xuất vào mùa đông khiến giá thép cây và HRC gia tăng.
Giá HRC giao ngay tại Thượng Hải và thép cây tại Bắc Kinh năm ngoái ở mức trung bình 3.758 NDT/tấn (579 USD/tấn) và 3.814 NDT/tấn (587 USD/tấn), tăng 37% và 54% so với cùng kỳ năm ngoái.
Giá HRC nội địa và thép cây tương đương mức 534 USD/tấn và 522 USD/tấn, cao hơn giá xuất khẩu HRC và thép cây lần lượt 28 USD/tấn và 44 USD/tấn, tương đương 9% và 13%. Chênh lệch giá nội địa và xuất khẩu thậm chí ở mức cao 64 USD/tấn cho HRC trong tháng 12 và 100 USD/tấn cho thép cây trong tháng 3.
Dựa vào thị trường nội địa thu hút, các thành viên thị trường không quá ngac nhiên khi lượng xuất khẩu giảm mạnh.
Một nhà máy tin rằng giá nội địa Trung Quốc sẽ giảm vào năm nay so với 2017. Điều này có thể thuận lợi cho thị trường xuất khẩu.
Tuy nhiên, một nhà máy tin rằng dù giá biến động thì vẫn sẽ ở mức cao nửa đầu năm nay nên thị trường xuất khẩu không có nhiều cải thiện.
Theo Tổng cục hải quan, xuất khẩu tháng 12/2017 đạt 5.67 triệu tấn, tăng 6% so với tháng 11 nhưng giảm 27.3% so với cùng kỳ năm ngoái.
Trong cùng tháng, nhập khẩu ở mức 1.2 triệu tấn, tăng 5.3% so với tháng 11 và 0.8% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong năm 2017, nhập khẩu tăng 0.65 so với cùng kỳ năm ngoái , đạt 13.3 triệu tấn.