Hegang mở rộng chính sách giá sàn khi thị trường thép cây bình ổn
Hebei Iron & Steel (Hegang) đã chọn cách tiếp tục duy trì chính sách giá sàn cho thép cây từ ngày 7-13/7 đến hết ngày 20/7, cho thấy nhà máy đang ra sức để bình ổn thị trường.
Việc duy trì mức sàn nghĩa là mức giá thấp nhất tại các đại lý của Hegang ở Bắc Kinh sẽ được cho phép để bán thép cây HRB400 18-25mm ở mức 1.910 NDT/tấn (308 USD/tấn) trọng lượng lý thuyết và gồm VAT. Mức giá này tương đương 1.970 NDT/tấn trọng lượng thực tế.
Hôm thứ Ba, Platts định giá thép cây HRB40018-25mm không đổi so với thứ Hai và duy trì mức 1.950-1.960 NDT/tấn xuất xưởng Bắc Kinh trọng lượng thực tế và gồm 17% VAT. Đây là ngày thứ hai liên tiếp giá không đổi.
Giá thép cây giao ngay ở Bắc Kinh đã giảm kể từ 2 tuần cuối tháng 6, giảm tổng cộng 225 NDT/tấn và khiến Hegang áp dụng cơ chế giá sàn của mình. Tỉnh Hà Bắc đã dùng đến phương pháp này ba lần trong tháng qua để ngăn giá lao dốc giảm thiểu khả năng thua lỗ.
Nhiều người cho rằng sau khi giá giảm mạnh trong vài tuần qua thì khả năng giá giảm thêm nữa là rất hạn chế. Các chuyên gia cho rằng nguyên nhân khiến giá thép cây hiện nay bình ổn là nhờ sự phục hồi trong giá thép cây giao ngay và kỳ hạn vào cuối tuần trước hơn là từ chính sách giá sàn của Hegang.
Các đại lý khác thắc mắc liệu giá có thể duy trì ở mức hiện nay hay không, do nhu cầu từ lĩnh vực xây dựng trì trệ và nguồn cung từ các nhà máy không thuyên giảm.
Trên sàn Shanghai Futures Exchange hôm thứ Ba, hợp đồng thép cây giao kỳ hạn tháng 10 tăng nhẹ 0,05% so với thứ Hai chốt tại 2.062 NDT/tấn.
NSSMC một lần nữa duy trì giá thép dầm hình H giao ngay
Nippon Steel & Sumitomo Metal Corp (NSSMC) sẽ duy trì giá thép dầm hình H cho những hợp đồng tháng 7 và sản xuất tháng 8. NSSMC không tiết lộ giá niêm yết của công ty nhưng giá thị trường hiện nay cho thép dầm H SS400 cỡ lớn ở Tokyo khoảng 77.000-78.000 Yên/tấn (624-632 USD/tấn), giảm 2.000 Yên/tấn so với tháng 01 nhưng không đổi kể từ tháng 4.
Việc vận chuyển từ các nhà phân phối tới khách hàng tăng trong tháng 6 và điều chỉnh tồn kho đã tiến triển gần tới mức đủ. “Chúng tôi không có ý định giảm thêm hàng tồn nhưng sẽ cố gắng duy trì mức hiện tại. Nhưng giá thị trường đã bị sức ép và nếu chúng tôi nâng giá lên bây giờ, tình hình tài chính của các nhà phân phối sẽ xấu đi. Vì vậy cho đến nay chúng tôi sẽ chỉ đợi giá thị trường sẽ bắt đầu tăng.
Thép dầm hình H tại các nhà tích trữ vào cuối tháng 6 còn tổng cộng 200.600 tấn, giảm 3,1% so với cuối tháng 5 và giảm 10,3% so với năm ngoái. Tỷ lệ tồn kho hồi cuối tháng 6 đạt 2,19 tháng, giảm từ 2,61 tháng của tháng 5 nhưng vẫn cao hơn mức mà NSSMC cho là đủ (chỉ khoảng 2 tháng).
NSSMC tiết lộ hồi tháng trước rằng công ty sẽ đợi một sự phục hồi của giá và sau đó bắt đầu nâng giá lên. “Giá thị trường đã chạm đáy sau khi các nhà sản xuất bắt đầu nâng giá thép dầm hình H dùng trong dự án thay vì bán giao ngay. Nhưng không có dấu hiệu nào cho thấy giá tăng và chúng tôi sợ rằng giá phế thấp hơn sẽ dẫn đến các khách hàng sẽ yêu cầu giá thấp hơn”.
NSSMC đã tăng giá thép dầm hình H cho các dự án lên 3.000 Yên/tấn. “Chúng tôi sẽ tiếp tục thương lượng với các khách hàng về mức tăng này”.
Gía HRC tăng tại Mỹ nhưng giảm tại các khu vực khác
Xu hướng giá HRC Mỹ và các nơi còn lại trên thế giới trái ngược nhau. Gía HRC Mỹ tăng 1 USD/tấn trong tuần qua nhưng giảm tại Nam Âu, Thổ Nhĩ Kỳ và Đông Nam Á. Gía tại Bắc Âu không đổi.
Trong tháng qua, giá HRC tại Mỹ đã tăng tổng cộng 12 USD/tấn trong khi tại Bắc Âu giảm 2 Euro/tấn còn Nam Âu giảm 6 Euro/tấn, Thổ Nhĩ Kỳ giảm 15 USD/tấn và Châu Á giảm 32 USD/tấn.
Đối với CRC, giá thép tại Mỹ và Bắc Âu vẫn không đổi, nhưng tăng 1 Euro/tấn tại Nam Âu. Gía HDG đã tăng 9 USD/tấn tại Mỹ và 1 Euro/tấn tại Nam Âu nhưng không đổi tại Bắc Âu và 16 USD/tấn tại Thổ Nhĩ Kỳ.
Gía thép tấm các nước đều giảm. Gía thép cây đã giảm 2 Euro/tấn tại Bắc Âu và 5 Euro/tấn tại Nam Âu.
Thời gian giao hàng tại Bắc Âu tăng trong khi HRC và HDG tại Nam Âu thu hẹp. Thời hạn giao hàng thép cây vẫn là 3 tuần tại Bắc Âu và 2 tuần tại Nam Âu.
Thời gian giao hàng trung bình tại Mỹ tăng đối với CRC nhưng HDG và thép tấm giảm. HRC vẫn không đổi tại mức 4.1 tuần.
Trung Quốc: Giá CRC xuất khẩu và trong nước tiếp tục giảm
Giá xuất khẩu của CRC Trung Quốc tiếp tục giảm trong tuần này cùng với giá trong nước. Các thương nhân khuyến cáo rằng nếu giá trong nước tiếp tục giảm thì giá xuất khẩu khó mà bình ổn. Platts định giá CRC SPCC dày 1.0mm trong khoảng 370-375 USD/tấn FOB Trung Quốc hôm thứ Ba, giảm 8 USD/tấn so với tuần trước. Cho đến tháng 7, giá xuất khẩu CRC đã giảm 17,5 USD/tấn tức 4,5%.
Một vài nhà xuất khẩu xác nhận rằng một nhà sản xuất lớn ở đông bắc Trung Quốc đã giảm chào giá CRC SPCC 1.0mm xuống 10 USD/tấn trong tuần này còn 370 USD/tấn FOB, giao tháng 9. Một thương nhân ở Hàng Châu cho biết các khách hàng của ông đang xem xét mức giá này nhưng quan ngại rằng những bất ổn trong một thị trường thay đổi nhanh chóng trong suốt 2 tháng trước.
Một nhà máy ở miền bắc cho biết chào giá vẫn ở mức 385 USD/tấn FOB, nhưng thừa nhận rằng việc đảm bảo đơn hàng ở mức này thật khó. Bà cho biết thêm rằng mọi thứ có thể thương lượng với người mua mà đã đặt mua nhiều.
Một nhà xuất khẩu ở Thượng Hải cho biết vấn đề thực sự hiện nay không phải giá mà là đà lao dốc sẽ kéo dài bao lâu. “Các khách hàng của tôi có ý định mua nhưng giá sụt giảm quá nhanh đã làm họ hoảng sợ”.
Ông cho biết thị trường trong nước ế ẩm đang kéo giá xuất khẩu Trung Quốc giảm. Tại thị trường Thượng Hải, Platts định giá cho CRC loại như trên trong khoảng 2.680-2.760 NDT/tấn (432-445 USD/tấn), giảm 45 NDT/tấn so với đầu tuần trước.
CRC tồn kho trên thị trường sẽ bắt đầu ứ đọng một cách đáng kể vào cuối tháng này, bởi vì lượng thép mới sẽ dần về tới và nhu cầu quá yếu để hấp thu được hết số thép này. Ông tin rằng với tồn kho cao như vậy sẽ gây sức ép nhiều hơn lên giá CRC.
Các vụ kiện thương mại thắp sang hy vọng cho thị trường thép cuộn
Các nhà máy thép cuộn Mỹ tiếp tục chờ đợi các vụ kiện thương mại CRC nhưng thậm chí nếu có thì cũng không đủ vực dậy thị trường trì trệ trong hè.
Theo dự báo thì thị trường sẽ nhanh chóng chấp nhận giá tăng 20 USD/tấn khi có kiện chống bán phá giá, cộng với nguồn cung có thể giảm sút nhờ các đàm phán lao động giữa US Steel và ArcelorMittal và liên minh United Steelworkers.
Trong khi đó, thông báo tăng giá thêm 40 USD/tấn của US Steel gây bất ngờ cho thị trường do đây là thời điểm khó khăn trước hiện trạng giá thép thương phẩm giảm và kinh tế toàn cầu bất ổn.
Platts vẫn duy trì giá HRC tại mức 460-470 USD/tấn và CRC tại mức 580-590 USD/tấn xuất xưởng Midwest (Indiana).
Định giá phôi thanh CIS
Platts định giá phôi thanh CIS tại mức 325 USD/tấn FOB Biển Đen, bình ổn so với ngày trước đó.
Trong khi thị trường trầm lắng trong lễ thì các nhà máy CIS vẫn do dự giảm giá chào bán với hy vọng nhu cầu tiêu thụ sẽ tăng nhẹ.
Trong khi giá chào từ Trung Quốc bình ổn tại mức 290 USD/tấn FOB, các nhà máy CIS cũng giữ giá ở mức 325-335 USD/tấn FOB CIS nhưng chưa có đơn hàng nào được chốt. Gía chào tới Thổ Nhĩ Kỳ đạt mức 340 USD/tấn CFR bao gồm phí vận chuyển 15 USD/tấn, trong khi giá chào Trung Quốc tới Thổ Nhĩ Kỳ đạt mức 311-315 USD/tấn CFR.
Các nhà máy CIS cũng giảm giá xuống còn 320 USD/tấn FOB Biển Đen, nhưng người mua vẫn từ chối.
Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ mua ít phế hơn
Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục cắt giảm giá phế tàu và DKP xuống thêm 10-15 USD/tấn với giá giảm xuống mức thấp 227 USD/tấn trong bối cảnh giá phế nhập khẩu giảm, biến động tỷ giá và tiêu thụ trì trệ.
Một trong những nhà máy EAF Thổ Nhĩ Kỳ, Colakoglu và nhà máy hợp kim Asil Celik giảm giá mua phế DKP thêm 20 TRY/tấn xuống còn 600 TRY/tấn (227 USD/tấn) và 620 TRY/tấn (235 USD/tấn).
Nhà máy thép dài lớn nhất, Kardemir cũng giảm giá phế DKP tính theo đồng Lira xuống 40 TRY/tấn (15 USD/tấn), còn 660 TRY/tấn trong khi các nhà máy EAF lớn cũng giảm giá phế xuống mức thấp 600-620 TRY/tấn (227-235 USD/tấn).
Nhà máy Eregli thuộc tập đoàn Erdemir cũng giảm giá phế DKP xuống 55 TRY/tấn (20 USD/tấn) còn 610 TRY/tấn (231 USD/tấn). Trong khi đó, giá nhà máy Iskenderun đã ngưng mua phế cho tới cuối Lễ Eid.
Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ cũng giảm giá mua phế tàu xuống 5-10 USD/tấn. Phế HMS từ xác tàu thuyền vỡ được chào bán tới các nhà máy Tây Thổ Nhĩ Kỳ tại mức 230-235 USD/tấn.
phôi thanh Thổ Nhĩ Kỳ. Vài nhà máy nội địa chào bán phôi thanh chuẩn tại mức 350 USD/tấn xuất xưởng trong khi Kardemir đã mở cửa bán phôi thanh với giá thấp hơn. Gía bán mới của Kardemir cho phôi thanh chuẩn đạt mức 360-365 USD/tấn xuất xưởng, giảm 20 USD/tấn so với giá niêm yết trước.
Gía chào Trung Quốc cũng tương đối bình ổn tại mức 310-315 USD/tấn CFR trong khi các nhà máy CIS tiếp tục cắt giảm giá để cạnh tranh với giá chào nhập khẩu giá thấp. Gía chào đạt mức 335-340 USD/tấn CFR tùy thuộc vào cảng nhập khẩu, thấp hơn 5-10 USD/tấn so với cuối tuần trước.
HRC Châu Á chững lại sau 6 ngày lao dốc
Giá giao ngay của HRC nhập khẩu vào Châu Á đã ngừng giảm, sau khi giá thị trường ở Trung Quốc bình ổn. Tuy nhiên, hầu hết mọi người trên thị trường không vội tin là giá đã phục hồi vì sự cạnh tranh khốc liệt giữa những người bán và giá quặng sắt có khả năng biến động.
Platts định giá HRC SS400 dày từ 3.0mm trở lên trong khoảng 308-313 USD/tấn FOB Trung Quốc hôm thứ Ba, bằng so với ngày trước. Các giao dịch thưa thớt trong bối cảnh sức mua trì trệ và các thương nhân cho biết chào giá từ 310-315 USD/tấn FOB, với chênh lệch giá từ các nhà máy khác.
Đối với thép cuộn loại cán lại, một giao dịch cho 4.000 tấn thép cuộn SAE1006 2mm và 2.3mm được chốt ở mức 320 USD/tấn CFR Việt Nam, giao tháng 9.
Chào giá tháng 9 là 335 USD/tấn CFR Việt Nam cho thép cuộn Benxi SAE1006 2.0mm, nhưng không có hợp đồng nào được ký kết. Thép cuộc của Xinyu và Ma’anshan Iron & Steel được nghe nói chào giá lần lượt là 320 USD/tấn CFR và 325 USD/tấn CFR. Thép cuộn Nhật Bản cũng được chào giá 360 USD/tấn CFR Việt Nam.
Một chào giá cho Baotou Iron & Steel vẫn duy trì mức 330 USD/tấn CFR Hải Phòng, giao trước ngày 15/9.
Gía thép cây, phôi thanh Thổ Nhĩ Kỳ giảm sâu hơn nữa theo giá phế
Gía thép cây Thổ Nhĩ Kỳ đã giảm thêm 30-40 TRY/tấn (11-15 USD/tấn) trong tuần này theo sự suy yếu mạnh của giá phế trong nước và nhập khẩu trong khi nhu cầu tiêu thụ trong và ngoài nước trước lễ Eid.
Gía thép cây 8-12mm từ các nhà môi giới tại Marmara đạt mức 1.280-1.300 TRY/tấn xuất xưởng (đã tính VAT 18%), trong khi giá tại Iskenderun đạt mức thấp 1.240-1.260 TRY/tấn.
Vài nhà máy thép như Kardemir vẫn chưa nhận đơn hàng thép cây trong khi số khác tiếp tục cắt giảm sản lượng để bảo trì nhà xưởng. Gía chào từ các nhà máy gần với giá chào từ các nhà môi giới với giá xuất xưởng Iskenderun đạt mức 395-405 USD/tấn.
Gía phế Thổ Nhĩ Kỳ đã giảm xuống còn mức thấp 227 USD/tấn trong khi giá nhập khẩu HMS 1&2 cũng giảm thêm 15 USD/tấn xuống còn 223-227 USD/tấn CFR.
Tâm lý thị trường trì trệ cũng tiếp tục tác động tới thị trường phôi thanh Thổ Nhĩ Kỳ. Vài nhà máy nội địa chào bán phôi thanh chuẩn tại mức 350 USD/tấn xuất xưởng trong khi Kardemir đã mở cửa bán phôi thanh với giá thấp hơn. Gía bán mới của Kardemir cho phôi thanh chuẩn đạt mức 360-365 USD/tấn xuất xưởng, giảm 20 USD/tấn so với giá niêm yết trước.
Gía chào Trung Quốc cũng tương đối bình ổn tại mức 310-315 USD/tấn CFR trong khi các nhà máy CIS tiếp tục cắt giảm giá để cạnh tranh với giá chào nhập khẩu giá thấp. Gía chào đạt mức 335-340 USD/tấn CFR tùy thuộc vào cảng nhập khẩu, thấp hơn 5-10 USD/tấn so với cuối tuần trước.
Định giá HRC EU
Platts vẫn duy trì giá HRC Tây Bắc Âu bình ổn tại mức 380-385 Euro/tấn xuất xưởng Ruhr.
Thị trường đang rất trầm lắng trong hè. Gía chào từ các nhà máy Châu Âu đạt mức 380-385 Euro/tấn trong khi các đơn hàng khối lượng lớn có sẵn tại mức 380 Euro/tấn.
Gía nhập khẩu cạnh tranh tại mức 350-360 Euro/tấn CIF Antwerp nhưng không thu hút lắm.