Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 15/09/2014

Giá quặng sắt tuần qua ngưng đà giảm để “nghỉ lấy hơi”

Sự lao dốc của giá quặng sắt đã kết thúc vào thứ sáu tuần trước với một sự phục hồi khiêm tốn. Nhưng giá chuẩn vẫn giảm so với tuần trước đó và vẫn còn gần mức thấp 5 năm.

Giá tham khảo của The Steel Index cho quặng sắt 62% Fe hôm thứ Sáu chốt ở mức 82 USD/dmt CFR Thiên Tân, nhích nhẹ lên 0,1 USD/tấn so với ngày trước đó nhưng vẫn thấp hơn 1,9% so với thứ sáu (5/9). Suốt 4 tuần qua, giá đã giảm tổng cộng hơn 12%.

Platts định giá loại tương tự ở mức 83,5 USD/dmt CFR miền bắc Trung Quốc, tăng 0,75 USD/dmt so với thứ Năm nhưng lại giảm 0,5 USD/dmt so với tuần trước đó.

Tâm lý bi quan tiếp tục duy trì gần như cả tuần qua, sau khi có tin tức xấu “đánh” vào niềm tin thị trường thép. Nguyên liệu tồn kho giá thấp hơn tại các cảng đã làm hạn chế nhu cầu dành cho quặng nhập khẩu. Các nhà máy đang trông cậy việc đặt hàng nhiều theo hợp đồng trong khi các nhà khai thác mỏ và thương nhân lại đang đua nhau bốc dỡ các lô hàng.

Hôm thứ Sáu, các chỉ số được theo dõi sát sao chẳng hạn như giá thép giao kỳ hạn và giá phôi thanh giao ngay phục hồi sau khi giảm mạnh vào đầu tuần trước, dẫn đến một sự điều chỉnh giá quặng. Nghe nói một vài nhà máy Trung Quốc đã sản xuất các đơn hàng cho quặng giao ngay trước khi nghỉ lễ Quốc khánh sắp tới.

Nhưng một vài nguồn tin thị trường không nghĩ là đà phục hồi của giá quặng sẽ được duy trì vì cho rằng nguồn cung dồi dào, thị trường thép suy yếu, cộng thêm thị trường bất động ảm đạm và tín dụng thắt chặt để thu mua quặng sắt giao ngay. 

Giá chào nhập khẩu thép cây vào Thổ Nhĩ Kỳ ổn định sau các vụ kiện thương mại

Các thương nhân thép cây Mỹ đang cân nhắc giá chào  từ Thổ Nhĩ Kỳ mặc dù chưa có giao dịch nào diễn ra sau khi Uỷ Ban thương mại Mỹ đã có quyết định gây ngạc nhiên cho dư luận khi không chống bán phá giá thép cây Thổ Nhĩ Kỳ.

Một thương nhân cho biết các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đã trở lại thị trường với giá chào bán không đổi. Thép cây có thể được mua tại mức 595 USD/tấn CFR Houston.

Một thương nhân khác cho biết mức giá 595 USD/tấn CFR Houston hiện chỉ có sẵn đối với thép cây giao tháng 12. Có thể sẽ phải mất một thời gian khá dài để người mua thu mua trở lại.

Một khách hàng tại Texas cho biết có nghe rằng giá chào thép cây giao tháng 1 cho người dùng cuối sẽ giảm trở lại xuống mức 628 USD/tấn giao bằng xe tải ở Houston. Gía đã tăng mạnh trước khi Bộ Thương mại Mỹ đưa ra quyết định cuối cùng rằng Thổ Nhĩ Kỳ không bán phá giá.

Giá thép cây Mỹ trong nước hiện ở mức 660 USD/tấn xuất xưởng.Ngay sau thông báo hôm thứ ba, thương nhân đầu tiên nói rằng Ông không chắc rằng có thể bán thép cây nhập khẩu vào khách hàng nội địa  tại mức cao hơn 661 USD/tấn trong bao lâu. Nhân tố hỗ trợ duy nhất hiện tại là Uỷ Ban thương mại Mỹ đã chống bán phá giá 20.58-58.66% đối với thép cây Mexico, giúp hạn chế thép cây nhập khẩu từ nước này kể từ tháng 5 và nguồn cung hạn chế.

Một nhà phân phối cho biết giá thép cây  Thổ Nhĩ Kỳ đã bị giới hạn nhưng vẫn không ngạc nhiên nếu nó có tăng lên. Gía nhập khẩu hiện tại là 600 USD/tấn hoặc cao hươn CFR cảng Vịnh.

Các nhà máy mini Nhật Bản lo sợ ảnh hưởng từ sự suy yếu của đồng Yên 

Với sự mất giá của Yên Nhật rơi tới mức thấp 6 năm so với đồng bạc xanh hôm thứ Năm tuần trước, các nhà máy minni trong nước đang quan sát xu hướng này một cách thận trọng, và lo sợ sự tác động tiêu cực tới hoạt động kinh doanh của họ. Trong tháng 07, giá trị đồng nội tệ của Nhật Bản so với đôla Mỹ chốt ở mức trung bình là 1 USD đổi được 102,73 Yên, trong khi đó vào ngày thứ năm tỷ giá này đã giảm xuống mức thấp còn 107,2.

“Sự suy yếu hơn nữa của đồng Yên chắc chắn sẽ làm tăng chi phí của chúng tôi. Chi phí điện, vận chuyển sẽ cao hơn và giá nguyên liệu hỗ trợ nhập khẩu cũng tăng. Mặt khác, đồng Yên mất giá sẽ khiến phế Nhật được các nhà máy ở nước ngoài chấp nhận nhiều hơn, vì vậy giá phế tại Nhật có lẽ sẽ tăng”, giám đốc một nhà máy mini ở miền tây nước này thừa nhận.

Nhật Bản thường xuất khẩu phế tính bằng Yên hơn là đôla Mỹ. Chào giá xuất khẩu phổ biến của phế H2 từ các thương nhân trong nước ở khoảng 34.000 Yên/tấn FOB hay tương đương 318 USD/tấn FOB với tỷ giá hối đoái hiện tại. Tuy nhiên, một tháng trước khi giá tính theo Yên ở mức tương tự thì giá tính theo đôla Mỹ ở khoảng 333 USD/tấn FOB, nghĩa là người mua trả bằng đôla Mỹ hôm nay sẽ được hưởng khoản tiền tiết kiệm 15 USD/tấn.

Mặt khác, các nhà máy mini Nhật Bản có thể làm cho tỷ giá hối đoái sụt giảm để thuận lợi trong việc xuất khẩu các sản phẩm chẳng hạn như phôi thanh. “Nhưng mức giá mà các khách hàng ở nước ngoài yêu cầu đối với phôi thanh thì quá thấp”, đại diện một nhà máy mini khác ở miền tây Nhật Bản nói và cho rằng với các nhà sản xuất có lợi nhuận cao có thể bù đắp cho chi phí của họ nhưng không phải ở mức giá mà người mua đang yêu cầu.

Một thương nhân ở Tokyo cho biết mức giá yêu cầu hiện nay cho phôi vuông loại SD295 dày 130-150mm ở khoảng 470 USD/tấn FOB, nhưng các nhà máy mini Nhật Bản lại đang đặt mục tiêu cỡ 500 USD/tấn. Theo Thống kê thương mại, Nhật Bản đã xuất khẩu 63.972 tấn phôi thanh trong tháng 07, tăng 28,7% so với tháng 06 nhưng lại giảm 46% so với năm ngoái. 

Thị trường nhập khẩu ferrochrome Trung Quốc vẫn tiếp tục gặp bế tắc 

Hôm thứ Sáu, Platts định giá giao ngay cho ferrochrome hàm lượng cacbon cao xuất xứ Ấn Độ (58-60% Cr) là 82-84 cents/lb CIF Trung Quốc và quặng chrome từ Nam Phi (48-52% Cr) với giá 81-82 cents/lb CIF Trung Quốc, cả hai mức giá này đều không đổi so với tuần trước đó do người mua và bán đều tiếp tục gặp bế tắc.

Không có giao dịch nào được xác nhận. Các chào giá ferrochrome Ấn Độ và quặng chrome Nam Phi tiếp tục hiếm hoi chỉ có hai người mua Trung Quốc là cho biết chào giá ở mức lần lượt 82-83 cents/lb CIF và 81-82 cents/lb CIF vào tuần trước. Không có tin tức nào về chào giá cho quặng chrome của Nam Phi với giá 76 cents/lb CIF nhưng hầu hết đều không tin rằng người bán sẽ hạ chào giá xuống mức này. Tiêu chuẩn kỹ thuật của loại quặng này cũng không được biết.

Giá từ phía người mua nghe nói là 77-81 cents/lb CIF, mặc dù đây vẫn chưa phải là giá đặt mua chắc chắn. Tuy nhiên, hầu hết các nhà cung cấp ở Nam Phi và Ấn Độ đều không mặn mà lắm với việc bán ở mức giá như vậy do chi phí sản xuất cao. Các nhà sản xuất Ấn Độ bây giờ cũng ít thiên về bên xuất khẩu vì giá ở thị trường trong nước cao. “Người bán sẽ xuất sang Trung Quốc sau khi họ không còn sự lựa chọn hay nếu giá ở đó cải thiện”, một nhà nhập khẩu ở Hong Kong nói.

Tâm lý trên thị trường Trung Quốc vẫn còn yếu ớt. Giá giao ngay trong nước của ferrochrome hàm lượng cacbon cao (50% Cr) thứ Tư tuần trước giảm còn 6.250-6.400 NDT/tấn (tương đương 77-79 cents/lb) từ mức 6.300-6.400 NDT/tấn của tuần trước đó, gồm VAT 17%. 

 Lợi nhuận của các nhà máy thép cây Nga thu hẹp

Thị trường thép cây Nga đang trải qua một xu hướng giá đối chiều nhau khi mà giá phôi thanh suy yếu còn phế tăng. Theo định giá Platts, chỉ trong 3 tuần, chênh lệch giá phế và phôi thanh FOB Biển Đen đã thu hẹp còn 13 USD/tấn xuống mức 157 USD/tấn vào ngày 11/9.

Các nhà máy thép cây hy vọng có thể duy trì giá bán hiện tại cho tới tháng 10. Họ xác nhận rằng nguồn cung sẽ giảm trong cả tháng này và tháng tới nhờ  vào kế hoạch sửa chữa và khối lượng đơn hàng thép cây 8-10mm tăng.

Thép cây đường kính nhỏ, được các nhà máy cắt giảm sản lượng đang nhận được nhiều đơn hàng hơn tại Nga nhờ vào sự ngưng sản xuất của hai nhà máy Yenakievo và Makeyevka Iron & Steel Works Ukraina.

Tháng này, các nhà máy tại  Chelyabinsk của công ty Mechel đã ngưng sản xuất tại một trong 3 nhà máy thép dài của nó đẻ bảo trì 10 ngày , cắt giảm 10.000 tấn thép cây từ mức 110.000 tấn/tháng .

Vào tháng tới, NLMK sẽ ngưng sản xuất tịa 1 trong 2 nhà máy cuộn ở Nizhneserginsky, Urals trong vòng 7-10 ngày bảo dưỡng, cắt giảm sản lượng hàng tháng xuống 25% tức 25.000 tấn.  Serverstal dự tính ngưng đúc phôi thanh tại các nhà máy ở Cherepovets trong vòng 9 ngày bảo trì trong tháng 11, loại bỏ 30.000 tấn trong tháng.  

Giá thép cây 12mm và 14mm giao tới Maxcova trong khu vực vẫn ở mức lần lượt 25.900-26.100 Rub/tấn (689-691 USD/tấn) và 25.750-26.000 Rub/tấn (678-682 USD/tấn) đã tính VẢ 18%. Gía thép cây Nga theo Platts đạt mức 21.750-22.100 Rub/tấn (576-586 USD/tấn) CPT Maxcova trong ngày thứ sáu, giảm từ mức 21.980-22.160 Rub/tấn trước đó.

Baosteel một lần nữa giữ nguyên giá xuất khẩu cho thép không gỉ 

Baosteel tiếp tục giữ giá xuất khẩu cho thép cuộn không gỉ austenite đi ngang trong tháng thứ hai liên tiếp do giá niken bình quân hầu như không đổi.

Theo quyết định hôm thứ Sáu của Baosteel, chào giá xuất khẩu của HRC loại 304 3mm và CRC 2mm vẫn ở mức lần lượt là 2.700 USD/tấn FOB và 2.900 USD/tấn FOB Trung Quốc, cho những lô hàng tải lên tàu đến tận đầu tháng 11.

Giá niken đã phục hồi vào đầu tháng này nhưng sau đó lại sớm giảm trở lại. Giá giao dịch chính thức bằng tiền mặt của niken trên sàn London Metal Exchange tăng đến mức cao hai tháng lên khoảng 19.700 USD/tấn vào đầu tháng 09, nhưng sau đó là giảm xuống 18.455-18.460 USD/tấn hôm 11/9.

Nhu cầu trong tháng 09 được cho là sẽ không thay đổi nhiều so với tháng 08. Nhu cầu tháng 10 sẽ cải thiện nhưng sự mạnh lên của lực cầu sẽ vẫn tùy vào những biến động của giá niken.

Giá thép cuộn không gỉ ở Đông Á đã tăng vào đầu tháng 09 sau xu hướng giảm liên tục từ giữa tháng 05. Tuy nhiên, sự phục hồi này chỉ duy trì được chốc lát, đến hôm thứ Sáu tuần trước, giá có thể giao dịch của CRC không gỉ loại 304 2B dày 2mm Đài Loan và Hàn Quốc giảm còn 2.650-2.750 USD/tấn CFR các cảng Đông Á và Đông Nam Á, từ mức 2.650-2.800 USD/tấn CFR của tuần trước đó. 

Giá thép cây Thổ Nhĩ Kỳ suy yếu do phế Ferrite giảm

Giá xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ trong ngày cuối tuần qua suy yếu do giá phế giảm và sự cạnh tranh gay gắt khi nhập hàng vào  thị trường Mỹ. Một cuộc điều tra chống bán phá giá thép cây  tại  Mỹ đã kết thúc trong ngày thứ tư, cho phép Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục xem đây là một thị trường lớn hiện tại.

Tuần qua, chưa có đơn hàng nào được chốt do giá chào mau và dự thầu chưa thể gặp nhau. Một nhà máy đã bán 10.000 tấn thép cây vào thị trường nội địa tại mức giá 578 USD/tấn xuất xưởng trọng lực thực tế do giá chào mua quá thấp để các nhà máy có thể bảo toàn lợi nhuận.

Chênh lệch giá thép cây và phế theo Platts đã mở rộng ra 193.5 USD/tấn. Trong khi đó, khoảng cách 180-200 USD/tấn nhìn chung là mức có thể  giúp các nhà máy kiếm lời. 

Giá Platts đối với thép cây FOB Thổ Nhĩ Kỳ trọng lượng thực tế giảm 50 cents còn 568.50 USD/tấn do giá phế suy yếu.

Giá thép cuộn không gỉ Châu Á đổi hướng đi xuống sau khi niken rớt giá 

Giá có thể giao dịch của CRC không gỉ loại 304 2B dày 2mm giảm còn 2.650-2.750 USD/tấn CFR tại các cảng Đông Á và Đông Nam Á , từ mức 2.650-2.800 USD/tấn CFR của tuần trước đó, đổi chiều đi xuống sau khi giá niken giảm.

Các chào giá cho CRC Đài Loan nghe nói phổ biến khoảng 2.700 USD/tấn CFR vào tuần trước so với 2.680-2.850 USD/tấn CFR của tuần trước đó. Một thương nhân ở Đài Bắc đã bán một khối lượng nhỏ với giá 2.700 USD/tấn CFR khu vực Châu Á vào tuần trước. Không có giao dịch khác nào được xác nhận.

Một thương nhân ở Hong Kong nghe nói một thương nhân Đài Loan đang bán CRC với giá 2.600  USD/tấn CFR khu vực Châu Á nhưng hầu hết người mua đều không nhìn thấy mức giá như vậy do vẫn chưa phổ biến. Giá đặt mua của các khách hàng Trung Quốc cho CRC Đài Loan giảm 50 USD/tấn còn 2.600 USD/tấn vào tuần trước sau khi niken giảm nhưng các nhà máy lại tỏ ra do dự để hạ giá tới mức này.

Một thương nhân ở miền nam Đài Loan đã bán với giá 2.800 USD/tấn CFR Đông Nam Á vào hai tuần trước cho biết mức giá này không thể đạt được hồi tuần trước do nhu cầu và đơn đặt hàng đều chậm sau khi giá niken đi xuống. “Chúng tôi sẽ vui nếu như có thể bán với giá 2.720 USD/tấn CFR”, ông nói.

Việc chào bán CRC Hàn Quốc rất hiếm hoi trong tuần trước do các doanh nghiệp đóng cửa nghĩ lễ Chuseok (lễ tạ ơn) từ thứ Hai đến thứ Tư tuần trước. Nghe nói chỉ có một nhà cung cấp là chào giá 2.750 USD/tấn FOB Hàn Quốc, giá này không đổi so với giá bán tuần trước đó của ông này.

Sự phục hồi của giá niken trên sàn London Metal Exchange hồi đầu tháng 09 là rất ngắn ngủi. Sau đó, giá giao dịch chính thức bằng tiền mặt của niken đã giảm trở lại hồi tuần trước còn 18.455-18.460 USD/tấn hôm 11/9, để mất hơn 1.000 USD/tấn so với đầu tuần trước. 

Giá HRC và CRC Thổ Nhĩ Kỳ dự báo sẽ vẫn mạnh trong tháng 9

Giá chào CRC Thổ Nhĩ Kỳ dự báo vẫn ở mức cao 590-605 USD/tấn trong tháng 9 do nhu cầu tiêu thụ dự báo vẫn tốt trong suốt tháng. Thêm vào đó, đồng Lira suy yếu so với đồng dolla đã đẩy chi phí sản xuất tăng. Trong khi đó, giá chào từ các nhà môi giới cao hơn 15-20 USD/tấn.

Một trung tâm dịch vụ cho rằng các nhà máy  nhìn chung hài lòng với các đơn hàng nhận được đối với thép sản xuất tháng 10 và bắt đầu nhận đơn hàng tháng 11. Tâm lý thị trường cũng chắc chắn trong tháng.

Giá chào HRC hiện tại là 590-605 USD/tấn xuất xưởng đối với thép sản xuất tháng 10 và 11 trong khi giá chào xuất khẩu hiện tại là 580-585 USD/tấn FOB.

Trong khi đó, các nhà máy Nga hiện chào bán tại mức 565-575 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ trong khi người mua vẫn thận trọng. Một vài nhà máy Ukraina cũng mở cửa nhận đơn hàng HRC tại mức 560-565 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ, được cho là khá cao so với giá chào trước.

Thị trường CRC Thổ Nhĩ Kỳ vẫn bình ổn kể từ giữa tháng 8 với giá HRC tăng suốt tháng 8 cũng như sức mua có dấu hiệu phục hồi trong tuần gần đây.

 

Giá CRC cơ bản từ các nhà máy trong nước vẫn ở mức 685-700 USD/tấn xuất xưởng trong khi giá chào xuất khẩu là 675-680 USD/tấn xuất xưởng trong bối cảnh nhu cầu tiêu thụ tại thị trường xuất khẩu ổn định.

Thị trường ống đúc miền đông Trung Quốc vẫn ảm đạm, triển vọng u ám 

Nhiều đại lý ống đúc chủ chốt ở Thượng Hải giữ giá không đổi vào tuần trước do các thương nhân trữ rất ít hàng vào thời gian này sau khi giá giảm 150 NDT/tấn (24 USD/tấn) chỉ trong vòng một tháng. Nhưng với sự suy yếu hơn trong giá xuất xưởng của thép tròn đặc và thép ống hồi tuần trước ở tỉnh Sơn Đông và Giang Tô được cho là sẽ tiếp tục gây sức ép lên giá ống đúc ở miền đông Trung Quốc trong thời gian ngắn.

Platts định giá thép ống 20# 219x6mm (GB/T 8163) được sản xuất từ các nhà máy ở miền đông là 3.700 NDT/tấn (603 USD/tấn) gồm VAT 17% tại Thượng Hải hồi thứ sáu tuần trước, không đổi so với tuần trước đó và đây vẫn ở mức thấp nhất kể từ khi Platts bắt đầu theo dõi vào tháng 09/2008.

Các đại lý và nhà máy thép ống mà Platts đã liên hệ hôm 12/9 dự đoán triển vọng u ám cho thị trường thép ống trong tháng này, cùng với sức mua chậm chạp và sự bất ổn lớn trong giá nguyên liệu. Các nhà máy thép ống ở thành phố Lâm Nghi, tỉnh Sơn Đông đã hạ giá xuất xưởng xuống 100 NDT/tấn trong một tuần chỉ để tăng cường doanh số bán ra.

Một nhà máy ống thép trong nước cho biết doanh số của họ trong tháng này thấp hơn tháng 09 năm ngoái và cả tháng 08, do những nhà tiêu thụ trực tiếp như các nhà sản xuất máy móc đều không có sự cải thiện và các thương nhân đang trì hoãn việc thu mua vì dự đoán giá sẽ giảm thêm nữa. Các nhà máy thép ống trong nước có thể sẽ hạ giá xuống thấp hơn vì họ đang bị sức ép ngày càng nhiều bởi hàng tồn chất đống trong kho.

Hôm 11/9, các nhà máy thép lớn ở miền đông đã thông báo ý định giảm giá xuất xưởng cho thép tròn đặc xuống 100-170 NDT/tấn từ ngày 11-20/9. Theo đó giá thép tròn đặc 20#  còn lần lượt 3.100 NDT/tấn, 3.050 NDT/tấn và 3.170 NDT/tấn xuất xưởng gồm VAT. 

Thị trường thép cuộn mạ Thổ Nhĩ Kỳ chưa thể khởi sắc mặc dù giá HRC tăng

Giá nội địa và xuất khẩu thép cuộn mạ Thổ Nhĩ Kỳ vẫn tương đối ổn định kể từ giữa tháng 8 do nhu cầu tiêu thụ suy yếu mặc dù giá HRC tăng trong suốt tháng qua.

Giá chào HDG 0.5mm từ các nhà máy Thổ Nhĩ  Kỳ tới thị trường trong nước vẫn ổn định tại mức 790-810 USD/tấn xuất xưởng trong khi giá chào PPGI 0.5mm cũng ổn định tại mức 880-920 USD/tấn xuất xưởng.

Các nhà máy đã còn chiết khấu cho khách hàng tại mức giá này do chi phí sản xuất gia tăng. Tuy nhiên, các thương nhân phàn nàn rằng nhu cầu tiêu thụ suy yếu và công suất quá mức buộc các nhà máy phải chiết khấu cho các đơn hàng lớn.

Trong khi đó,  giá xuất khẩu thép mạ đã giảm 5 USD/tấn trong mấy tuần gần đây do nhu cầu tiêu thụ suy yếu và áp lực cạnh tranh từ Trung Quốc mặc dù chi phí sản xuất tăng. Gía chào xuất khẩu HDG 0.5mm giảm 5 USD/tấn xuống mức 770-790 USD/tấn FOB  cuối tuần qua trong khi giá xuất khẩu PPGI 9002  0.55mm đạt mức 870-900 USD/tấn FOB, giảm với mức tương tự.

Giá chào HRC trong nước dự báo sẽ tiếp tục tăng trong tháng 9, và nhu cầu tiêu thụ cũng tốt do đồng Lira suy yếu đẩy chi phí đầu vào tăng lên.

Đồng dolla tăng giá kéo giá phế giảm

Giá chào phế khối lượng nhỏ Mỹ tới Đài Loan đã suy yếu tuần qua do các nhà máy Châu Á tim kiếm nguồn nguyên liệu giá rẻ hơn từ thị trường Châu Á và phôi thanh Trung Quốc. Các giao dịch phế HMS 1&2 khối lượng nhỏ Mỹ chốt tại mức 350-353 USD/tấn CFR, nhưnggúa 530 USD/tấn phổ biến hơn và chủ yếu diễn ra trong ngày thứ năm. Định giá phế 80:20 khối lượng nhỏ tại Bờ Biển Tây Mỹ theo Platts giảm 4 USD/tấn còn 325 USD/tấn FAS cảng LA.

Đồng dolla tăng mạnh đã gây khó khăn cho cho các nhà xuất khẩu phế Mỹ trong việc tìm kiếm các đơn hàng lớn. Tuần qua, không có giao dịch lớn nào được chốt do Hàn Quốc tiếp tục kháng cự giá chào từ Mỹ. Tuy nhiên, đồng Yên suy yếu đã hỗ trợ thị trường xuất khẩu phế Nhật. Trong tuần qua, các giao dịch phế H2 Nhật diễn ra tại mức 358 USD/tấn CFR Đài Loan, giảm từ mức 362 USD/tấn CFR cách đó 2 tuần.

Trong ngày thứ tư vừa qua, phiên đấu thầu phế H2 xuất khẩu hàng tháng do Kanto Tetsugen tổ chức đã chứng kiến giá dự thầu tăng với mức cao nhất 33.850 Yên/tấn FAS (316 USD/tấn), cao hơn 200 Yên/tấn so với tháng trước. Các thương nhân Nhật Bản hiện tại mua phế H2 tại mức 33.000 Yên/tấn FAS vịnh Tokyo, tăng từ mức 32.500-33.000 Yên/tấn FAS trước phiên đấu thầu.

Nhà máy Tokyo Steel Manufacturing, nhà máy mini hàng đầu Nhật Bản  đã quyết định tăng giá thu mua phế tại 4 công xưởng thêm 500-1.000 Yên/tấn sau khi giữ giá mua phế không đổi kể từ ngày 30/7. Ông  đã tăng giá phế thêm 500.1000 Yên/tấn tại 3 nhà  máy kể từ thứ bảy tuần qua. Gía mua H2 tại các xưởng Utsunomiya Bắc Kanto hiện tại đạt  mức 34.000 Yên/tấn.

 

Giá nhập khẩu phế vào  Thổ Nhĩ Kỳ đã suy yếu cuối tuần qua. Trong ngày thứ sáu, giá nhập khẩu phế 80:20 theo Platts đạt mức 375 USD/tấn CFR, giam 7 USD/tấn so với ngày trước đó và 8 USD/tấn so với tuần trước đó.

Giá phôi thanh và thép cây giao kỳ hạn phục hồi ở Trung Quốc 

Giá thép cây giao kỳ hạn ở Thượng Hải tăng 1,2% vào thứ Sáu tuần trước, đây là lần tăng nhiều nhất trong gần 6 tuần và giá phôi thanh ở thành phố Đường Sơn, tỉnh Hà Bắc cũng phục hồi 20 NDT/tấn (3,3 USD/tấn). Nhưng thông tin tích cực này bị giảm bớt tác dụng bởi sự sụt giảm nhẹ của giá thép cây ở miền bắc Trung Quốc, và một số người trên thị trường thắc mắc liệu giá đã thực sự chạm đáy hay chưa.

Tại thị trường Bắc Kinh hôm 12/9, giá giao ngay của thép cây HRB400 đường kính 18-25mm được đánh giá giảm 10 NDT/tấn so với thứ Năm còn 2.865-2.875 NDT/tấn (467-469 USD/tấn) trọng lượng thực tế và gồm VAT 17%. So với tuần trước đó, giá đã giảm mạnh tổng cộng 115 NDT/tấn do các đại lý giành giựt nhau bán cho hết hàng trong kho vì sợ giá sẽ tiếp tục lún sâu hơn nữa.

Giá thép cây vẫn cứ suy yếu vào thứ Sáu tuần trước bất chấp nỗ lực của Hebei Iron & Steel nhằm bình ổn thị trường. Nhà máy này đã yêu cầu các đại lý ở Bắc Kinh của mình bán thép cây HRB400 đường kính 18-25mm với giá thấp nhất là 2.910 NDT/tấn trọng lượng thực tế từ ngày 10-15/9.

Từ trước tới nay rất hiếm khi một nhà máy can thiệp hai lần vào thị trường với thời gian gần nhau như vậy. Hơn thế nữa, nhà máy đã khuyến cáo các đại lý sẽ đối  mặt với sự trừng phạt nếu không thực hiện giá sàn, gồm có việc trì hoãn giao hàng tới cuối tháng và chỉ thị giá hợp đồng cao hơn.

Nhưng đại lý này cho biết đây là lần đầu tiên ông cảm thấy quá mất niềm tin cho sự can thiệp của Hegang, và nhận thấy rằng thị trường đã không chống chọi nổi với sự cạnh tranh giá phi lý, và ông hy vọng động thái của nhà  máy sẽ giúp thị trường bình ổn trở lại.

Ngay cả như vậy, ông cũng vẫn còn quan ngại cho thị trường trong 6 tháng này khi mà các nhà máy thường vận chuyển nhiều hơn tới thị trường. Tồn kho gia tăng có thể gây sức ép lên giá giao ngay, cụ thể thép tồn kho tăng 18.900 tấn so với tuần trước đó lên 278.100 tấn vào ngày 12/9, theo nhà cung cấp thông tin Mysteel ở Thượng Hải.   

Giá xuất khẩu HDG Ấn Độ ổn định trên thị trường Mỹ im ắng

Giá xuất khẩu của HDG từ Ấn Độ vẫn ổn định trong tuần trước. Giá giao dịch của thép cuộn mềm loại thường dày 0.3mm phủ 90 gram kẽm trên một mét vuông xuất xứ Ấn Độ trung bình là 855-865 USD/tấn CFR bờ biển phía đông Hoa Kỳ vào tuần trước, trong đó phí vận chuyển là 50-60 USD/tấn cho những lô hàng vận chuyển vào tháng 10.

Đại diện một nhà máy ở Mumbai cho biết ông đã bán gần 2.000 tấn HDG với giá 870 USD/tấn CFR tới những khách hàng thường xuyên của mình ở Mỹ để giao vào cuối tháng 10. Ông cũng đã ký thêm hợp đồng 1.000 tấn HDG dày 0.18mm tới Đông Á với giá 900 USD/tấn CFR Djibouti. Vì giá HDG Trung Quốc suy yếu trong vài tuần qua nên các nhà máy Ấn Độ bị sức ép để duy trì mức giá hiện tại tới thị trường Châu Phi và Trung Quốc.

Một thương nhân người Ấn ở Singapore nói rằng công ty ông đã ngưng chào bán HDG tới Mỹ vì thị trường này vẫn chưa rõ ràng liệu chính phủ nước Mỹ có bắt đầu thủ tục tố tụng thương mại đối với việc nhập khẩu HDG hay không. Tuy nhiên, ông đã nghe một vài thương nhân Ấn Độ bắt đầu chào bán HDG tới thị trường Hoa Kỳ một lần nữa vì họ tin tưởng rằng nếu có bất kỳ hành động thương mại nào thì cũng sẽ được thông báo trễ nhất trước cuối tháng 08.

Các nhà cung cấp HDG Ấn Độ cho biết họ không quá lo lắng về việc đặt hàng xuất khẩu chậm lại. Hầu hết các nguồn tin đều nói rằng hoạt động xây dựng sau mùa mưa và mùa lễ hội sắp tới vào tháng 10 sẽ thúc đẩy nhu cầu tiêu thụ trong nước. 

Trung Quốc: Giá giao ngay của HRC bị kéo xuống bởi các giao dịch trên sàn điện tử 

Giá HRC tại thị trường nội địa Trung Quốc sụt giảm hơn nữa trong ngày thứ Sáu, nhưng với biên độ nhỏ hơn so với 10 ngày trước đó. Nguyên nhân khiến giá liên tục đi xuống là do niềm tin suy yếu và các giao dịch với giá thấp được thực hiện trên sàn thương mại điện tử.

Platts đã hạ giá niêm yết cho HRC Q235 5.5mm còn 2.950-2.980 NDT/tấn (480-484 USD/tấn) gồm VAT 17%, giảm 10 NDT/tấn so với thứ năm và 90 NDT/tấn so với tuần trước đó. Các thương nhân cho biết thị trường có thể tiếp tục suy yếu trong thời gian còn lại của tháng 09 nhưng giá khó mà giảm thêm nữa.

Giá thấp trên sàn giao dịch điện tử đã kéo giá giao ngay giảm và giá bắt đầu bước vào một vòng xoáy ốc đi xuống. Một phần giao dịch HRC ở Trung Quốc diễn ra trên sàn giao dịch điện tử tư nhân, hợp đồng này thu hút phần lớn các thương nhân và cả các nhà máy quy mô nhỏ hơn của tư nhân tham gia. Còn các nhà máy nhà nước quy mô lớn thì không sử dụng chúng như một kênh để bán hàng.

Trên một trong những sàn giao dịch ở Thượng Hải, khối lượng giao dịch đã tăng lên khoảng 20.000 tấn mỗi ngày, với giá đôi khi thấp hơn 20 NDT/tấn so với các giao dịch diễn ra bên ngoài sàn.

Những sàn này được biết là đang tập trung vào việc đẩy mạnh khối lượng giao dịch hơn là sự phục hồi giá, với kỳ vọng thu hút sự đầu tư từ các nhà tư bản mạo hiểm.  

Một vài thương nhân dự đoán giá HRC sẽ chạm mốc thấp 10 năm, dưới ngưỡng 2.900 NDT/tấn, trước khi có sự phục hồi nhanh chóng do tồn kho hiện nay thấp.

Thị trường phôi thanh CIS suy yếu trước áp lực nhập khẩu và giá phế

Thị trường phôi thanh CIS tuần qua lâm vào tình cảnh bế tắc do người mua hạ giá chào xuống trước bối cảnh giá chào nhập khẩu từ Trung Quốc giảm. Tuy nhiên, các nhà máy Biển Đen không vội vàng hạ giá xuống để có đơn hàng.

Các nhà máy CIS đang chào bán HRC giao tháng 10 tại mức 505-507 USD/tấn FOB Biển Đen/ Biển Azov. Gía chào nhập khẩu từ CIS vào Thổ nhĩ Kỳ đã giảm xuống mức 525 USD/tấn CFR từ mức 530-540 USD/tấn -  500 USD/tấn FOB. Kết quả là, thị trường rất thiếu vắng giao dịch.

Trong khi đó, giá chào nhập khẩu từ Trung Quốc lại rất cạnh tranh. Một đơn hàng lớn khối lượng 15.000 tấn có thể được mua từ Trung Quốc tại mức giá 503 USD/tấn CFR Biển Đỏ. Gía chào tới Ai Cập dao động trong mức 500-507 USD/tấn CFR.

Các chuyên gia Châu Âu nhận định  thị trường CIS nên theo xu hướng của Trung Quốc. Nếu giá chào từ Trung Quốc vẫn bình ổn tại mức này thì Nga sẽ phải giảm giá chào xuống. 

Tuy nhiên, tốc độ suy yếu vẫn được kìm hãm vì các nhà máy Ukraina và Nga không bán thấp hơn chi phí sản xuất của họ. Gía 485-490 USD/tấn FOB có thể chấp nhận được nhưng mức 495-500 USD/tấn thì thực tế hơn. Gía phế suy yếu cũng đang gây áp lực lên giá phôi thanh.

Thị trường nhập khẩu HRC Đông Á suy yếu do giá Trung Quốc giảm 

Giá nhập khẩu của HRC vào Đông Á sụt giảm trong tuần trước sau khi giá thép ở Trung Quốc suy yếu hơn. Tuy nhiên, theo những người mua trong khu vực cho biết nhu cầu trực tiếp cho các sản phẩm như thép tấm đã mạ vẫn ổn định. Platts đinh giá thấp hơn 10 USD/tấn so với tuần trước còn 505-520 USD/tấn CFR Đông Á cho thép cuộn loại SS400 dày 3mm.

Một nhà tiêu dùng trực tiếp Việt Nam đã đặt mua 7.000 tấn thép cuộn SS400, 2.3mm từ Benxi Iron & Steel với giá 525 USD/tấn CFR Việt Nam để vận chuyển vào tháng 11. Mức giá này được cho là nhằm mục đích đánh giá sau việc tiêu chuẩn hóa cho loại dày 3mm theo thông số kỹ thuật của Platts.

Một người mua Việt Nam khác ghi nhận rằng trong khi thép cuộn SAE1006 dày  2mm được ước tính khoảng 535 USD/tấn CFR Việt Nam vào tuần trước đó thì mức giá phổ biến nhất là 520 USD/tấn.

Các nhà cán lại ở Việt Nam nhấn mạnh rằng sức mua và giá hạ nguồn phần lớn vẫn còn ổn định, không giống sự lao dốc đã được chứng kiến trên thị trường nội địa Trung Quốc. “Nhưng trong vài tháng tới, tình hình sẽ thay đổi. Các khách hàng tiêu thụ thép trực tiếp của chúng tôi sẽ yêu cầu mức giá thấp hơn cho thép đã mạ”, một nhà cán lại nói.

Các nhà nhập khẩu Việt Nam hầu hết đều đã mua HRC Trung Quốc vì giá cả cạnh tranh so với thép của Đài Loan và Nhật Bản.

Giá HRC tại Trung Quốc tiếp tục đi xuống do nhu cầu và niềm tin thị trường đều suy yếu, Platts định giá HRC Q235 5.5mm trong khoảng 2.950-2.980 NDT/tấn (480-484 USD/tấn), giảm 10 NDT/tấn so với thứ Năm và 90 NDT/tấn so với tuần trước đó. Tuy các thương nhân dự đoán thị trường sẽ tiếp tục u ám, nhưng giá trong nước không thể giảm thêm vào những ngày còn lại của tháng 09.

Một nhà cán lại Hàn Quốc đã đồng ý mua HRC SAE1006 2mm với giá 535 USD/tấn CFR Busan từ Benxi Steel vào khoảng 1 tuần trước, đây sẽ là yếu tố góp phần vào sự suy giảm giá tiếp theo sau này. Bất cứ sự thương lượng lại nào cũng sẽ diễn ra cho các lô hàng vận chuyển vào tháng 11. 

 Thị trường thép cuộn Mỹ  chứng kiến giá suy yếu hướng về cuối tuần

Giá thép cuộn Mỹ đã suy yếu  do giá thấp trở nên phổ biến hơn trên thị trường trong tuần qua từ cố gắng kiếm đơn hàng của các nhà máy.

Platts hạ giá HRC xuống 660-670 USD/tấn từ mức 665-670 USD/tấn và CRC xuống mức 780-790 USD/tấn từ mức 790-800 USD/tấn xuất xưởng Midwest (Indiana).

Một nhà máy lớn cho biết mức 660 USD/tấn xuất xưởng dường như là giá có thể chấp nhận được. Đối với CRC, một người mua  cho biết đã nhận được chào bán tại mức 770-780 USD/tấn giao giữa tháng 9 đến đầu tháng 10 từ một nhà máy cho đơn hàng khối lượng nhỏ.

Tuy nhiên, cũng có một số nhà máy không quan tâm đến việc cạnh tranh và vẫn chào bán CRC tại mức gần 800 USD/tấn.