Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 15/12/2014

 Các nhà máy thép cây Thổ Nhĩ Kỳ tăng giá theo giá phế

Các nhà máy thép cây Thổ Nhĩ Kỳ đang chào bán tại mức 500 USD/tấn và cao hơn do giá phế gần đây đã tăng.

Chưa có lô hàng nào được chốt tại mức giá mới nhưng có thể khách hàng sẽ mua ở mức giá 490 USD/tấn FOB từ nhà máy lớn. Trong khi đó, nhu cầu tiêu thụ vẫn còn là một vấn đề đáng lo ngại.

Một nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ tin rằng phế sẽ còn tăng nữa trong năm mới với khả năng thay đổi mức cắt giảm thuế xuất khẩu thép thành phẩm của Chính Phủ Trung Quốc đẩy giá thép tăng. Cạnh tranh từ Trung Quốc vẫn là thách thức lớn  cho các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ do giá quặng thấp cùng các hỗ trợ từ Chính Phủ cho phép họ bán giá thấp.

Platts định giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ tại mức giá 495 USD/tấn FOB trong ngày thứ sáu, tăng 5 USD/tấn so với ngày trước đó.

Các nhà máy thép cây Nga tăng giá thép tháng 1 để bù đắp sự mất giá của đồng Rub

Các nhà máy thép cây Nga đang tìm cách tăng giá thép cây tháng 1 thêm 1.500-2.000 Rub/tấn (26-35 USD/tấn) đã tính VAT. Việc tăng giá lần này là cần thiết để bù đắp lại phần nào sự mất giá của đồng Rub và kết quả dẫn tới giá trị thép tính theo đồng dolla trong nước sụt giảm mạnh  so với giá xuất khẩu. Hơn thế nữa, thép cây bán theo điều kiện CPT Maxcova thậm chí thấp hơn giá phôi thanh CIS từ  35-40 USD/tấn .

Thậm chí nếu tăng thêm 35 USD/tấn trong ngày thứ sáu, giá thép cây Nga cũng chưa thể bắt kịp mức giá 400 USD/tấn FOB của phôi thanh Biển Đen.

Người mua sẽ từ chối nhưng trên tinh thần đang chuẩn bị cho giá tăng lên, nghĩa là các khách hàng tại Nga đã ý thức được việc lạm phát cao trong giá tiêu dùng mà thép thì cũng không ngoại lệ.

Giá thép cây đã suy yếu trong tháng 8 và tháng 9 và liên tục giảm trong 3 tháng sau đó, Nếu giá tăng sẽ kéo giá thép cây lên mức 21.550-21.850 Rub/tấn tháng 10.

Đối với thép sản xuất tháng 12, các nhà máy Nga vẫn giữ nguyên giá như ở tháng 1 là 23.900-24.100 Rub/tấn (415-419 USD/tấn) với loại đường kính 12mm và 23.500-23.700 Rub/tấn (409-412 USD/tấn) đối với loại 14mm đã tính cước phí vận tải tới Maxcova. Nếu trừ thuế VAT ra thì giá sẽ còn tương đương 20.250-20.420 Rub/tấn (352-355 USD/tấn) và 19.915-20.085 Rub/tấn (346-349 USD/tấn) CPT Maxcova.

Platts giảm giá thép cây Nga xuống mức 20.000-20.350 Rub/tấn (347-353 US/tấn) CPT Maxcova, giảm 85 Rub/tấn (1.5 USD/tấn) so với giá 20.100-20.420 Rub/tấn (405-412 USD/tấn) CPT Maxcova tại mức tỷ giá ngày 28/11. Giá trị theo đồng dolla đã giảm 58 USD/tấn do sự mất giá của đồng Rub, còn 57 Rub/dolla trong ngày 12/12 từ mức 50 Rub/dolla cách đây 2 tuần.

Tâm lý trì trệ bao phủ thị trường thép cuộn Biển Đen

Tâm lý thị trường thép cuộn Biển Đen trì trệ trong tuần qua và dự báo chưa thể phục hồi  sớm. Gía HRC và CRC tiếp tục suy yếu cùng với đồng Rub và UAH chạm mức thấp 5 năm.

Các thương nhân dự báo giá HRC Nga sẽ còn giảm thêm 10 USD/tấn nữa, xuống còn 540 USD/tấn FOB Biển Đen và CRC có thể giảm tới 80 USD/tấn. Một người mua nhận được giá chào từ một nhà máy tại mức giá 365 USD/tấn (455 USD/tấn) FOB Biển Đen.Đây là giá thấp nhất được chấp nhận.

Cùng thời điểm, các nguồn tin cho biết các nhà máy Ukraina nên giảm giá thêm xuống 15 USD/tấn so với Nga để tăng tính cạnh tranh.  Điều này có thể dẫn tới giá HRC Ukraina giảm còn 435-445 USD/tấn FOB, tuy nhiên, các mức giá này vẫn chưa được xác nhận. Gía chào mới nhất từ Ukraina là 475-480 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ giao cuối tháng 1 và tháng 2.

Trong khi đó, tại mức giá này, giá HRC FOB Nga gần với giá Trung Quốc hơn. Tại Dubai, một thương nhân cho biết giá chào bán từ Trung Quốc và Nga đạt mức tương đương 490 và 500 USD/tấn CFR Jebel Ali. Gía mới đối với HRC CIS sản xuất tháng 1sẽ được báo cáo trong  tuần này.

Platts giảm giá HRC và CRC Biển Đen xuống 5 USD/tấn trong ngày cuối tuần, còn 450 và 530 USD/tấn FOB.

Giá xuất khẩu cuộn trơn Thổ Nhĩ Kỳ tăng

Sản lượng cuộn trơn xuất khẩu trong 10 tháng đầu năm nay của Thổ Nhĩ Kỳ tăng 5.7^% so với cùng kỳ năm ngoái, chủ yếu là sang Mỹ và Israel trong khi giá trị xuất khẩu cũng tăng 4.4% lên 439 triệu USD.

Cuộn trơn xuất khẩu tới Mỹ tăng  323.6% lên mức 169.000 tấn  trong khi các lô hàng tới Israel tnagw 45.9% lên 136.000 tấn.

Tuy nhiên, xuất khẩu cuộn trơn Thổ Nhĩ Kỳ tới các thị trường khác như Lybia giảm 33,3% còn 63.000 tấn do các bất ổn chính trị và kinh tế trong khu vực. Thổ Nhĩ Kỳ cũng xuất khẩu 56.000 tấn cuộn trơn tới Morocco trong tháng 1-10.

Trong khi đó, các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ tăng giá chào bán xuất khẩu thêm 5-10 USD/tấn hồi cuối tuần qua lên mức 510-525 USD/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ giao tháng 1 cùng với sự tăng mạnh của giá phế trong và ngoài nước mặc dù tiêu thụ thấp, đặc biệt là từ Châu Âu trước Năm mới.

Giá dự báo sẽ còn tăng tiếp trong những tuần tới nếu giá phế nhập khẩu tăng, tuy nhiên, người mua vẫn chưa chấp nhận trả giá cao hơn.

Icdas lại tăng giá thép cây/cuộn trơn

Nhà máy thép hàng đầu Thổ Nhĩ Kỳ Icdas lại tăng giá thép cây/cuộn trơn thêm 20 TRY/tấn (8.7 USD/tấn) trong ngày thứ sáu sau khi đã tăng cùng mức trong ngày thứ năm dựa trên sự tăng giá cuả đồng dolla và giá phế nhập khẩu cao hơn. Nhu cầu tiêu thụ trong nước cũng đã cải thiện.

Giá bán thép cây 12-32mm của công ty này là 1.375 TRY/tấn xuất xưởng (602 USD/tấn), tương đương mức 494 USD/tấn chưa tính VAT 18%. Gía bán thép cây 10mm của công ty này cũng tăng lên mức 1.385 TRY/tấn xuất xưởng (606 USD/tấn) trong khi loại 8mm hiện tại là 1.395 TRY/tấn xuất xưởng (610 USD/tấn).

Công ty này cũng tăng giá cuộn trơn 7-8.5mm với cùng mức tương tự lên 1.430-1.460 TRY/tấn (623-636 USD/tấn) xuất xưởng đã tính VAT 18%.

Công ty Kardemir cũng mở cửa bán lại thép cây trong ngày thứ ba với giá cao hơn, song công ty này đã chốt hàng vào chiều thứ sáu. Các nguồn tin dự báo Kardemir sẽ tiếp tục bán trong hôm nay với giá cao hơn nữa tùy thuộc vào điều kiện thị trường. Công ty này vẫn chưa bán lại phôi thanh.

Trong khi đó, các nhà xuất khẩu thép cây cũng bắt đầu tăng thêm 5-10 USD/tấn. Gía chào xuất khẩu đạt mức 495-500 USD/tấn FOB trong ngày thứ sáu nhưng người mua không chấp nhận giá này trước Năm mới.

Các khách hàng Mỹ chờ đợi giá HDG giảm

Nhu cầu tiêu thụ HDG Ấn Độ tại Mỹ vẫn trì trệ do người mua đã có đủ hàng dự trữ nên chỉ trong xu thế chờ đợi.

Giá giao dịch HDG Ấn Độ dày 0.3mm phủ 90 g kẽm/m2 vẫn ơ rmuwsc 865-880 USD/tấn CFR Mỹ tuần qua đã gồm 50-60 USD/tấn phí vận chuyển giao vào tháng 2.

Tuy nhiên, các đơn hàng khối lượng lớn hơn dường như vẫn ở mức thấp. Một thương nhân Mumbai cho biết giá giao dịch các đơn hàng khối lượng 5.000 tấn và cao hơn có thể được bán tại mức 820 USD/tấn trong khi các lô hàng dưới 5.000 tấn dường như vẫn ở mức 850-870 USD/tấn.

Trong khi đó, nhu cầu tiêu thụ tại Mỹ trước ngày 20/12 có thể tăng do người mua sẽ đặt hàng trước khi rời bỏ thị trường vào Lễ giáng Sinh.

Nhu cầu tiêu thụ vẫn suy yếu tại Châu Âu, Trung Đông và Châu phi và không có đơn hàng nào được chốt trong tuần qua.

Phế Thổ Nhĩ kỳ tăng giá, Châu Á suy yếu

Phế nhập khẩu Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng lại mạnh mẽ trong tuần qua với thêm 8 USD/tấn, đạt mức 313 USD/tấn CFR.

Các nhà máy vẫn chỉ mua đủ dùng và mua số lượng cần thiết. Tuy nhiên, các thương nhân đã bắt đầu giữ giá và kìm hàng trước tình hình thời tiết lạnh mùa đông ở Bắc Âu và Mỹ.

Trong ngày cuối tuần, một thương nhân tại bờ Đông Mỹ đã ký kết một đơn hàng phế HMS I/II (80:20) tại mức 317.5 USD/tấn với một nhà máy thép EAF, tăng so với giá 310 USD/tấn trước đó.

Vài nguồn tin cho biết giá các lô hàng giao nhanh cao hơn, song mức giá cao nhất tuần qua là của các lô hàng giao tháng 1. Mặc dù giá tăng, nhưng vẫn có hoài nghi về đà tăng không bền vững. Chênh lệch giá phế và phôi thanh Biển Đen đã chạm mức thấp trước khi cả hai cùng tăng trong ngày thứ sáu với phế tăng lên mức 313 USD/tấn CFR và phôi thanh lên mức 400 USD/tấn FOB.

Thị trường nhập khẩu phế khối lượng lớn Đông Á vẫn trầm lắng với ít giao dịch diễn ra kể từ tuần đâu tháng 11. Các nhà máy vẫn tránh xa thị trường dựa trên nhu cầu tiêu thụ thép trì trệ. Kể từ khi họ giảm công suất vận hành và sử dụng ít phế hơn, các nhà máy này cũng quan tâm tới hàng trong nước hơn.

Platts vẫn duy trì giá phế khối lượng lớn HMS tại mức 300-310 USD/tấn CFR trong ngày thứ sáu, không đổi so với trước đó.

Trong khi đó, giá phế nội địa Nhật Bản tuần qua suy yếu sau khi các nhà máy giảm giá mua vào.

Tokyo Steel Manufacturing giảm giá mua phế xuống 1.000 Yên/tấn cho tất cả các sau đó lại giảm giá xuống 5.00-1.000 Yên/tấn đối với lô hàng phế giao ngày 13/12. Lần cắt giảm này kéo giá mua phế H2 tại các xưởng ở Bắc Kanto xuống mức 28.000 Yên/tấn. Các thương nhân tin rằng các nhà máy Nhật Bản khác sẽ sớm áp dụng cắt giảm giá lần hai như Tokyo Steel.

Các thương nhân Nhật Bản đang mua phế H2 tại mức 28.000 Yên/tấn FAS đối với phế H2 gom tại Vịnh Tokyo dành cho xuất khẩu, giảm 500-1.000 Yên/tấn so với tuần trước đó. Mức giá thắng thầu trong phiên ngày 10/12 là 29.330 Yên/tấn FAS (246.4 USD/tấn), tăng 280 Yên/tấn (2.4 USD/tấn) so với tháng 11. Do giá này tương đương giá phế nội địa nên kết quả trên không ảnh hưởng gì tới thị trường.

Các nhà máy mini Hàn Quốc, dẫn đầu là Hyundai Steel không mua phế Nhật tuần qua do hàng tồn cao và công suất thấp dựa trên nhu cầu tiêu thụ thép trì trệ.

Áp lực giảm giá sẽ tiếp tục kéo dài đến năm 2015 trên thị trường ống đúc Trung Quốc

Thị trường thép ống đúc của Trung Quốc được cho là giá sẽ tiếp tục xu hướng đi xuống tới năm 2015, do sức mua khá yếu, trong khi giá nguyên liệu lại giảm cùng với nguồn cung dư thừa quá nhiều.

Hôm 05/12, giá giao ngay tại Thượng Hải cho ống đúc cacbon loại 20# 219x6mm (GB/T 8163) được sản xuất từ các nhà máy ở miền đông Trung Quốc vẫn duy trì mức 3.600 NDT/tấn (582 USD/tấn) gồm VAT 17%, không đổi so với tuần trước đó.

Các thương nhân vẫn giữ giá của họ do tồn kho thị trường thấp và giá thép tròn đặc ổn định. Mặc dù sức mua mùa đông thường chậm lại ở những lĩnh vực sản xuất như chế tạo máy móc và xây dựng.

Giá hiện nay đã giảm tổng cộng 600 NDT/tấn (97 USD/tấn) kể từ đầu năm.

Một sự cải thiện trong giá hay nhu cầu ống đúc vào năm tới là rất khó, một nguồn tin từ nhà máy ở miền bắc cho biết hôm thứ Sáu. Nhưng công ty ông, một trong những nhà sản xuất ống đúc lớn nhất ở Trung Quốc, sẽ vẫn đạt mục tiêu doanh số hàng năm trong năm nay nhờ khối lượng xuất khẩu gia tăng sẽ giúp bù đắp lại sự sụt giảm trong nước.

Ngược lại, một nhà máy khác thừa nhận rằng rất có thể họ sẽ không đạt được doanh số mục tiêu đề ra cho năm nay. Đại diện nhà máy cũng tỏ ra bi quan về triển vọng thị trường 2015, do nguồn cung dư thừa vẫn còn là sức ép lớn, mặc dù nhiều nhà sản xuất được cho là sẽ rời khỏi thị trường cùng với áp lực cao khi tín dụng siết chặt. Mặc dù đã có khoảng 5-6 triệu tấn thép mỗi năm bị cắt giảm do các nhà máy bên bờ vực phá sản hay ngưng sản xuất trong hai năm qua. 

Giá nhập khẩu quặng chrome tăng ở Trung Quốc 

Platts định giá giao ngay cho quặng chrome xuất xứ Nam Phi (48-52% Cr) là 79-80.5 cents/lb CIF Trung Quốc, tăng từ 78-80 cents/lb CIF của một tuần trước, trong bối cảnh nguồn cung hạn chế và giá bán ở Trung Quốc cao hơn.

Các giao dịch tuần trước được nghe nói trong phạm vi từ 79-80.5 cents/lb CIF, với chào giá cỡ 81 cents/lb CIF.

Một số khách hàng đã tăng sự kỳ vọng về giá sau khi giá ferrochrome ở Trung Quốc tăng gần đây. Giá giao ngay trong nước của ferrochrome hàm lượng cacbon cao 50% Cr của Trung Quốc hôm thứ Tư tuần trước tăng 50 NDT/tấn so với tuần trước đó lên 6.350-6.500 NDT/tấn (tương đương 78-80 cents/lb).

Các nguồn tin cũng cho biết nguồn cung ferrochrome hiện nay hạn chế do ngưng sản xuất và các nhà cung cấp trong nước đang hạn chế doanh số bán ra do kỳ vọng sắp tới giá sẽ cao hơn. Giá dưới 6.400 NDT/tấn đã trở nên khó để thực hiện trong tuần trước. Người mua đang tìm nguyên liệu nhập khẩu có sẵn nhiều hơn so với thị trường nội địa.

Tuy nhiên, hầu hết người mua đều không muốn trả với giá 81 cents/lb CIF hay cao hơn do giá tại Trung Quốc vẫn chưa đạt đến mức như vậy. Ngoài ra, một số khách hàng cũng đang yêu cầu mức giá thấp như 77-78 cents/lb CIF do NDT gần đây đã mất giá so với đôla Mỹ, khiến hàng nhập khẩu đắt đỏ hơn.

Trong khi đó, ferrochrome hàm lượng cacbon cao xuất xứ Ấn Độ (58-60% Cr) được chốt ở mức 81-82 cents/lb CIF Trung Quốc hôm thứ Sáu, không đổi so với một tuần trước đó do người mua và bán vẫn giữ nguyên kỳ vọng giá của họ. Giá mua và đặt mua cao nhất vẫn duy trì mức 81 cents/lb CIF, trong khi giá bán và chào giá thấp nhất thì ở mức 82 cents/lb CIF trong tuần trước. Có rất ít chào giá trên thị trường do nguồn cung vẫn còn hạn chế ở Ấn Độ vì sản lượng bị cắt giảm. 

Thị trường thép cuộn Mỹ trông chờ bước tiến lớn

Tình hình thị trường thép cuộn Mỹ trong ngày cuối tuần vừa qua vẫn trầm lắng do người mua ưa thích chờ đợi.

Một trung tâm dịch vụ Midwest cho biết giá đơn hàng HRC 125 tấn đạt mức 620 USD/tấn, nhưng vẫn chưa có giao dịch diễn ra. Người mua vẫn chưa muốn mua hàng vào thời điểm này.

Một đơn hàng 625 tấn HRC được bán tại mức 590 USD/tấn, đã gồm phụ thu nhúng dầu và nhúng nóng 30 USD/tấn. Nguồn cung tháng 12 vẫn có sẵn.

Một nhà máy cho biết nhu cầu tiêu thụ vẫn bình ổn, nhưng các nhà máy nội địa đang cạnh tranh gay gắt và hệ quả có thể dẫn tới là sẽ có nhiều cắt giảm giá vào cuối năm.

Một người mua cho biết vài nhà máy dường như đã chiết khấu cho các đơn hàng giao tháng 1, song hầu hết chỉ cắt giảm gái cho các đơn hàng khối lượng lớn và thanh toán trước. 

Platts vẫn giữ giá HRC tại mức 610-620 USD/tấn và 740-750 USD/tấn xuất xưởng Midwest.

Giá thép cuộn không gỉ Châu Á giảm nhẹ cùng với niken 

Platts định giá CRC không gỉ loại 304 2B dày 2m của Đài Loan và Hàn Quốc ở mức 2.450-2.490 USD/tấn CFR cảng Đông Á và Đông Nam Á, giảm nhẹ so với 2.450-2.500 USD/tấn CFR của tuần trước đó do giá niken thấp hơn.

Các giao dịch của CRC Đài Loan và Hàn Quốc được nghe nói ở mức trên trong tuần trước. Chào giá cho CRC Hàn Quốc hôm thứ Sáu vẫn không đổi so với tuần trước đó trong khoảng 2.500-2.550 USD/tấn CFR.

Chào giá và giá bán cho CRC Đài Loan tuần trước vẫn duy trì trong một phạm vi rộng từ 2.420-2.700 USD/tấn CFR. Một số nhà cung cấp tiếp tục giữ chào giá mặc dù niken suy yếu trong tuần trước. Một thương nhân ở miền trung cho biết bà đã không điều chỉnh chào giá 2.700 USD/tấn CFR do giá có thể giao dịch hiện nay thật khó để chấp nhận.

Một người khác ở Hong Kong cho biết hôm thứ Sáu nhà cung cấp ở Đài Loan của ông đã hạ chào giá xuống 50 USD/tấn so với tuần trước đó còn 2.420 USD/tấn CFR sau khi giá niken giảm. Tuy nhiên, các khách hàng của ông ở Trung Quốc đang tìm mua với giá 2.400 USD/tấn CFR, đây là mức giá mà bây giờ các nhà cung cấp Đài Loan và Hàn Quốc không sẵn lòng hạ xuống.

Các thương nhân vẫn còn bi quan về triển vọng thị trường sắp tới. Một thương nhân ở miền nam Đài Loan cho biết bà dự đoán nhu cầu sẽ vẫn tiếp tục suy yếu trong tháng 12, mặc dù đã bán CRC Đài Loan ở mức 2.490 USD/tấn CFR Đông Nam Á trong tuần trước.

Giá giao dịch chính thức bằng tiền mặt của niken trên sàn London Metal Exchange hôm 11/12 là 16.145-16.150 USD/tấn, giảm gần 700 USD/tấn trong suốt tuần qua. 

Thị trường phôi thanh CIS phục hồi nhẹ nhờ các đơn hàng mới

Thị trường phôi thanh CIS đã cho thấy dấu hiệu phục hồi trong cuối tuần qua do các nhà máy tăng giá chào bán dựa trên nguồn cung tháng 1 thắt chặt. Các thương nhân xác nhận giá chào mới đều được người mua hưởng ứng.

Nhiều nhà máy Ukraina đã bán hết phôi thanh tháng 1 nên số còn lại đã tăng giá chào bán lên mức cao 410 USD/tấn FOB Biển Đen.

Giá chào từ một thương nhân CIS tới Ai Cập đạt mức 426 USD/tấn CIF trong khi có 3 lô hàng từ thương nhân khác đã được chốt ở mức 427-430 USD/tấn CIF Aliaga, cho thấy giá được người mua chấp nhận  là 407-410 USD/tấn FOB Biển Đen.

Hồi đầu tuần, một thương nhân cho biết các giao dịch đạt mức 380 USD/tấn FOB Biển Đen thanh toán trước đầy đủ và 390 USD/tấn FOB Biển Đen chưa thanh toán, tuy nhiên, đến ngày cuối tuần, giá đã tăng lên mức 400-410 USD/tấn FOB.

Một thương nhân dự báo giá sẽ còn leo thêm 10 USD/tấn do Trung Quốc đã rời khỏi thị trường trước đồn đoán sẽ hủy bỏ việc giảm thuế cho các mặt hàng có thêm boron. Tuy nhiên, nhu cầu tiêu thụ yếu va đồng Rub giảm giá cho thấy giá phôi thanh dường như không tăng thêm nữa.

Platts cũng theo đó tăng giá phôi thanh lên mức 400 USD/tấn FOB Biển Đen từ mức 390 USD/tấn ngày trước đó.

Theo báo cáo, có một lô hàng gồm 5.000 tấn phôi thanh sản xuất tháng 1 /2015 đã được giao dịch trên sàn điện tử Chicago Mercantile Exchange tại mức 402 USD/tấn FOB đầu tuần này. 

Giá phôi thanh nhập khẩu suy yếu ở Đông Á 

Nhu cầu phôi thanh Đông Á vẫn còn trì trệ trong tuần trước mặc dù chào giá đã giảm suốt tháng qua.

Chào giá tuần trước của Nga là 430-435 USD/tấn CFR Thái Lan, so với 440 USD/tấn CFR của tuần trước đó. Một vài người nghe nói phôi của Việt Nam và Ấn Độ được chào giá 435 USD/tấn CFR. Còn chào giá cho phôi thanh không phải của Trung Quốc ở khoảng 460 USD/tấn CFR hồi giữa tháng 11.

Các nguồn tin từ Thái cho biết sự quan tâm của người mua giảm đi và sức mua chậm lại. “Doanh số thép cây bán ra sụt giảm vì người mua đang chuẩn bị nghỉ lễ”. Giá phôi thanh trong nước tương đương 440 USD/tấn.

Các thương nhân cũng tin là giá phôi thanh Nga có thể giảm sâu hơn trong bối cảnh đồng ruble mất giá. Người mua cũng có chung quan điểm này khi đặt mua với giá từ 420 USD/tấn CFR trở xuống cho phôi của Nga. Các nhà cung cấp ở Nga sẽ có thể bán với giá 420-430 USD/tấn CFR tới khu vực này. Nghĩa là thấp hơn 5-10 USD/tấn so với chào giá ban đầu.

“Người mua Indonesia ngày càng hồi hộp khi giá phôi thanh tiếp tục lao dốc. Gần đây ông nghe nói một chào giá của Nga là 425 USD/tấn CFR”.

Trong khi đó, giá xuất khẩu phôi thanh Trung Quốc suy yếu với một vài chào giá giảm 5 USD/tấn so với tuần trước còn 425 USD/tấn CFR Philippines. Giá đặt mua phôi thanh ở mức 430 USD/tấn CFR Philippines trong tuần đầu tiên của tháng 12.

Phí vận chuyển tới Manila cao bởi tình trạng ùn tắc ở cảng, phôi thanh Trung Quốc đang được chào giá khoảng 420 USD/tấn CFR đến bất cứ nơi nào thuộc khu vực Đông Á.

Hôm thứ Sáu, Platts định giá nhập khẩu cho phôi thanh Đông Á giảm còn 425-430 USD/tấn CFR từ mức 430-440 USD/tấn CFR của tuần trước đó.