Cuộc chạy đua giá trên thị trường thép cây nội địa Thổ Nhĩ Kỳ hỗ trợ giá xuất khẩu tăng
Cuộc chạy đua giá trên thị trường thép cây nội địa Thổ Nhĩ Kỳ thu hút các nhà máy bán vào trong nước và hỗ trợ giá xuất khẩu tăng.
Với giá nội địa đạt mức 470-490 USD/tấn xuất xưởng, giá xuất khẩu vẫn thấp trong bối cảnh thị trường trầm lắng. Platts tăng giá xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ thêm 3.5 USD/tấn so với thứ năm, đạt mức 433.50 USD/tấn trong ngày thứ sáu.
Một nhà máy ở Marmara cho biết vẫn chưa dự tính xuất khẩu vì nhu cầu thấp và giá thấp. Thị trường trong nước đang hoạt động mạnh mẽ, nên hầu hết các nhà máy tập trung vào thị trường trong nước để tìm kiếm đơn hàng.
Giá chào xuất khẩu thấp nhất là 435-437 USD/tấn FOB, nhưng chỉ có một nhà máy chào giá này. Một nhà máy khác chào tại mức 437 USD/tấn FOB tới Nam Mỹ và giá người mua đưa ra là 430 USD/tấn FOB, nhưng chưa chốt đơn hàng.
Một nhà máy chào bán tại mức 435-440 USD/tấn FOB và cho biết không vội giảm giá để bán hàng vì đã có đủ đơn hàng. Có nhiều chào mua hơn từ Châu Âu, Israel và Trung Đông nên nhà máy này không dưới mức 435 USD/tấn FOB trọng lượng thượng tế. Bất cứ chào mua nào dưới 430 USD/tấn đều không được phản hồi.
Một nhà môi giới ở UAE nhận được chào giá mới nhất từ Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 430 USD/tấn CFR Jebel Ali, trọng lượng lý thuyết cho các đơn hàng lớn, tương đương 421-425 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế. Ông cho rằng mức giá 420 USD/tấn CFR là giá giao dịch phổ biến và 435 USD/tấn CFR cũng có thể được chấp nhận.
Giá HRC Châu Á giảm do thiếu sức mua và giá nội địa suy yếu
Nhu cầu tiêu thụ im ắng và giá nội địa suy yếu kéo giá HRC xuất khẩu giảm trở lại sau 2 ngày duy trì ổn định. Platts giảm giá xuất khẩu HRC SS400 dày 3mm xuống 3 USD/tấn, còn 415 USD/tấn FOB Trung Quốc trong ngày thứ sáu.
Giá cùng mặt hàng được định giá ở mức 425 USD/tấn CFR Đông Á, giảm 7.50 USD/tấn so với tuần đầu tháng. Tại thị trường Thượng Hải, HRC Q235 5.5mm ở mức 3.010-3.030 NDT/tấn (436-439 USD/tấn) xuất xưởng đã tính 17% VAT, giảm 30 NDT/tấn so với ngày trước đó.
Một nhà máy lớn ở Đông Bắc Trung Quốc sẵn sàng bán HRC SS400 tại mức 415 USD/tấn FOB Trung Quốc nếu đơn hàng lớn. Nhà máy này đã chốt vài đơn hàng tại mức giá này trong tuần qua. Một nhà máy ở miền đông cũng đồng ý chốt giá 415 USD/tấn FOB.
Mức 415 USD/tấn FOB được cho là giá chốt hợp lý vì vài khách hàng Hàn Quốc có thể chấp nhận giá 415 USD/tấn FOB và đang đàm phán với vài nhà máy Trung Quốc tại mức giá này.
Đối với các nhà máy Trung Quốc khác, họ một mực bán trên 420 USD/tấn FOB cho HRC SS400, và chưa chốt được đơn hàng nào vì người mua bi quan về triển vọng giá sắp tới.
Đối với thép cuộn SAE, một nhà máy chỉ nhận được giá chào mua 420 USD/tấn FOB Trung Quốc từ Trung Đông, thấp hơn nhiều giá chào bán của nhà máy. Một nhà máy khác được cho là đã bán vài đơn hàng thép cuộn SAE tại mức giá 430 USD/tấn CFR Indonesia trong tuần qua nhưng không có thêm thông tin cụ thể nào.
Hai nhà máy khác chào bán tại mức 440-450 USD/tấn CFR Việt Nam. Giá chào từ Ấn Độ và Nhật Bản ở mức cao 455-470 USD/tấn và 500 USD/tấn CFR Việt Nam.
Giá thép tấm dày giảm tiếp tục gây sức ép cho thị trường thép Mỹ
Giá thép tấm dày Mỹ giảm nhẹ trong tuần qua, nhưng các nhà máy không tăng chiết khấu như những lo ngại trước đó. Platts giảm giá thép tấm dày thương phẩm A36 xuống 5 USD/tấn, còn 720-740 USD/tấn xuất xưởng Đông Nam Mỹ trong ngày thứ sáu.
Thị trường trầm lắng và có áp lực tới giá nhưng không nhiều. Hàng nhập khẩu vẫn thấp mặc dù có nhiều chào giá hơn đến từ các nhà máy Hàn Quốc.
Áp lực chính đối với giá thép tấm lúc này vẫn từ giá bán lại của các trung tâm dịch vụ. Đe dọa từ hàng nhập khẩu vẫn lơ lửng dù Mỹ đang điều tra áp dụng điều khoản 232. Hiện giá chào nhập khẩu có sẵn và cạnh tranh nhất là từ Hàn Quốc, dưới 600 USD/tấn CIF Houston.
Một nguồn tin cho rằng, các nhà máy thép tấm dày trong nước sẽ giảm giá bán xuống 20 USD/tấn so với tháng 4 nhưng vẫn có vài người cố gắng duy trì giá bàn ở giá sàn còn số khác trở về giá chào bán cũ.
Các nhà máy trong nước vẫn có thể duy trì giá bán thép tấm hồi tháng 4 mặc dù giá phế giảm 20 USD/tấn. Trong tháng 5, giá phế đã tăng 10 USD/tấn, hậu thuẫn cho các nhà máy giữ giá thép tấm.
Giá bán lại từ các trung tâm dịch vụ ở mức 770 USD/tấn đã tính phí giao hàng, so với giá nhà máy 740-760 USD/tấn đã tính phí. Thời gian làm hàng tầm 5-6 tuần.
Bản tin phế tuần: Trung Quốc trở lại xuất khẩu phế sau nửa tháng gián đoạn
Thị trường phế nung chảy hạng nặng HMS Đông Á trầm lắng trở lại cho tới khi có vài đơn hàng xuất khẩu phế Trung Quốc được chốt trong tuần sau, sau nửa tháng gián đoạn.
Trong tuần qua, một nhà máy Đài Loan đã đặt mua một đơn hàng lớn trọng tải 1.000 tấn phế vụn Trung Quốc tại mức giá 250 USD/tấn CFR Đài Loan, thấp hơn đơn hàng gần đây nhất (tuần cuối tháng 4) 10 USD/tấn. Nhà máy này được cho là đang đàm phán hợp đồng dài hạn với các nhà cung phế Trung Quốc.
Trong ngày 10/5, nhà máy Tokyo Steel Manufacturing được cho là đã nhận 1.000 tấn phế Trung Quốc tại các xưởng ở Kyushu. Tuy nhiên, không có thêm thông tin về loại phế và giá cả.
Hai nhà máy này chỉ đặt mua 1.000 tấn phế vì muốn kiểm tra thử chất lượng lô hàng. Kể từ khi Trung Quốc nổi lên là nhà cung cấp phế ở thị trường Châu Á cách đây 3 tuần thì các nguồn tin vẫn bối rối về tính bền vững của xuất khẩu phế Trung Quốc.
Nhà nhập khẩu phế lớn Hàn Quốc, Hyundai Steel,cũng đang dự tính nghiên cứu cẩn thận phế Trung Quốc bằng cách trực tiếp thăm các bãi phế Trung Quốc, và sẽ mua vài đơn hàng nhỏ trong tháng này.
Thị trường phế Nhật cũng trầm lắng do lễ ở Hàn và Nhật, cho tới khi Hyundai Steel dự thầu trong ngày thứ sáu. Nhà máy này thừa nhận giá dự thầu ở mức 24.000 Yên/tấn (211 USD/tấn) FOB cho phế H2, giảm 1.000 Yên/tấn so với ngày 28/4.
Hyundai đã dự thầu mua 3 loại phế khác nhau gồm: 24.500 Yên/tấn cho phế H1/ 2(50:50), 26.500 Yên/tấn FOB cho phế vụn, 26.500 Yên/tấn cho phế HS, 27.000 Yên/tấn cho phế Shindachi Barra, và 28.000 Yên/tấn cho phế Shindachi.
Trong khi đó, buổi đấu thầu phế xuất khẩu H2 (diễn ra hàng tháng) do Kanto Tetsugen tổ chức vào thứ tư với giá chốt là 25.000 Yên/tấn (219 USD/tấn ) FAS, giảm 2.380 Yên/tấn (21 USD/tấn) so với tháng trước.
Tuy nhiên, giá này cao hơn giá mua của các thương nhân, dẫn tới giá các thương nhân phải trả cho H2 là 23.500 Yên/tấn, tăng 1.500 Yên/tấn so với tuần trước đó.
Nhà máy Tokyo Steel Manufacturing đã giảm giá mua các loại phế tại các xưởng và trung tâm xuống 1.000-1.500 Yên/tấn kể từ ngày 2/ 5. Giá mua phế H2 khối lượng nhỏ giao bằng xe tải tới các xưởng ở Utsunomiya ở mức 23.500 Yên/tấn.
Trong ngày thứ ba tuần vừa rồi, Platss vẫn duy trì giá xuất khẩu phế HMS I/II khối lượng lớn ở mức 255-265 USD/tấn CFR và phế Ferrite Nhật Bản tại mức 24.500 Yên/tấn vịnh Tokyo, không đổi so với tuần trước đó.
Trong khi đó, giá nhập khẩu phế Thổ Nhĩ Kỳ giảm 3 USD/tấn trong tuần qua, chốt tại mức 272 USD/tấn CFR ngày thứ sáu. Đây là giá mua của một nhà máy EAF ở Marmara, người đã đặt mua phế 80:20 Anh tại mức 270 USD/tấn (tương đương 275 USD/tấn), sau đó tăng lên 272 USD/tấn CFR cho phế tại biển Bantic trong ngày thứ năm.
Các nguồn tin bối rối về diễn biến thị trường, khi giá thép thành phẩm tăng còn giá phế giảm. Tuy nhiên, người bán tin rằng sự phục hồi của thị trường thép trong nước sẽ kéo giá xuất khẩu phế tăng vào cuối tuần.
Giá HRC Trung Quốc vẫn giảm do giá giao kỳ hạn suy yếu
Giá giao ngay HRC Thượng Hải giảm trong ngày thứ sáu do thị trường thiếu vắng giao dịch sau khi giá giao kỳ hạn suy yếu.
Platts giảm giá HRC Q235 5.5mm xuống 30 NDT/tấn so với thứ năm, còn 3.010-3.030 NDT/tấn (436-439 USD/tấn) xuất xưởng đã tính 17% VAT trong ngày thứ sáu. Tại sàn SHFE, giá hợp đồng tháng 10 chốt tại mức 2.840 NDT/tấn, giảm 112 NDT/tấn.
Các thành viên thị trường thép cuộn đang cố gắng dò tìm xu hướng giá vì giá cả biến động nhiều tuần, khiến người mua bối rối.
Trong khi đó, nhà máy Angang vẫn duy trì giá thép cuộn giao tháng 6 không đổi, ngoại trừ thép tấm dày, cuộn mạ màu và mạ điện. Angang giảm giá các loại này xuống 100 NDT/tấn,200 NDT/tấn và 300 NDT/tấn.
Cùng ngày, nhà máy Wuhan Iron & Steel (Wisco) duy trì giá tất cả các mặt hàng thép dẹt giao tháng 6 ổn định, ngoại trừ CRC, HDG và thép tấm kẽm mạ điện giảm xuống 150 NDT/tấn. Tuy nhiên, loại thép cuộn CQ giảm tới 260 NDT/tấn. Đối với tấm dày, Wisco giảm 200 DNT/tấn.
Giá xuất khẩu tấm dày Trung Quốc tăng
Giá xuất khẩu tấm dày Trung Quốc tăng nhẹ so với mốc giá cuối tháng 4, nhưng theo các nhà xuất khẩu thì xu hướng không rõ ràng do sự bất ổn của thị trường nội địa.
Giá chào thép tấm dày SS400 12-20mm từ hai nhà máy lớn ở Bắc và Đông Bắc Trung Quốc ở mức 430 USD/tấn FOB trong khi một nhà máy lớn ở Đông Bắc chào bán tại mức 435 USD/tấn FOB. Giá chào bán hầu như không đổi so với cuối tháng 4, nhưng giá giao dịch tăng lên 420-425 USD/tấn FOB vào ngày 12/5 so với mức 415-420 USD/tấn FOB cuối tháng 4.
Vài thương nhân cho biết, khả năng đàm phán giá đã thắt chặt hơn trong mấy ngày qua, và khả năng kiếm được đơn hàng 420 USD/tấn FOB khó khăn hơn.Tuy nhiên, thị trường chưa chắc về xu hướng giá vì với các đơn hàng lớn, các nhà máy vẫn có thể chấp nhận giá 420-425 USD/tấn FOB.
Tại thị trường nội địa Trung Quốc, giá tấm dày SS400 dày 12-20mm ở thị trường giao ngay Thượng Hải ở mức 3.250-3.270 NDT/tấn (471-474 USD/tấn) trong ngày thứ sáu, tăng 35 NDT/tấn so với cuối tháng 4.
Cán cân cung-cầu đang thắt chặt, nhưng vấn đề chính ngăn giá tăng là do dòng chảy tiền mặt thắt chặt trên thị trường.
Thị trường phôi thanh Đông Nam Á cải thiện nhờ chào giá tăng từ Trung Quốc
Thị trường nhập khẩu phôi thanh Đông Nam Á trong tuần qua cải thiện nhờ giá chào bán từ Trung Quốc tăng. Tuy nhiên, nhu cầu tiêu thụ vẫn im ắng vì thị trường sắp vào mùa mưa (tháng 6) và tháng ăn chay Đạo hồi diễn ra vào cuối tháng 5.
Người mua chưa sẵn sàng trả cao hơn cho phôi thanh Trung Quốc trong khi giá chào phôi thanh Q275 120/130mm giao tháng 6 đạt mức 425-430 USD/tấn CFR Manila.
Trong ngày thứ năm, phôi thanh Nhật được đặt mua tại mức giá 400-405 USD/tấn CFR Manila nhưng các thương nhân cho rằng giá này quá thấp. Họ rất ngạc nhiên khi Nhật bán giá thấp hơn Trung Quốc, với một chào giá nghe được là 410 USD/tấn CFR.
Hầu hết các khách hàng Manila đều do dự đặt hàng vì tin rằng giá sẽ giảm. Giá chào phôi thanh Thái Lan ở mức 430 USD/tấn CFR Manila.
Một lô hàng phôi thanh Q275 150mm Trung Quốc được đặt mua hồi thứ tư tại mức giá 400 USD/tấn CFR Jakarta. Một nguồn tin cho rằng người mua sẽ không trả cao hơn 405 USD/tấn CFR vào lúc này.
Phôi thanh Iran được chào bán ở mức 395 USD/tấn CFR Indonesia. Phôi thanh Iran thường không thu hút vì hầu hết các ngân hàng trong khu vực không hỗ trợ tài chính cho nguyên liệu này. Phôi thanh Nga được chào ở mức 410 USD/tấn CFR và Trung Quốc là 415-420 USD/tấn CFR Indonesia..
Tại Thái Lan, giá chào phôi thanh Q235 150mm Trung Quốc ở mức 420 USD/tấn CFR. Các nhà máy Thái Lan nhắm vào mục tiêu xuất khẩu phôi thanh ở mức giá 410 USD/tấn FOB.
Trong ngày thứ sáu, Platts tăng giá nhập khẩu hàng tuần của phôi thanh 120/130mm Đông Á lên 400-405 USD/tấn, tăng 5 USD/tấn so với tuần trước đó.
Giá thép cây Châu Á ổn định trong bối cảnh chênh lệch giá chào mua-chào bán lớn
Thị trường xuất khẩu thép cây Châu Á ổn định vào hôm qua do cả người mua và người bán đều giữ nguyên mức giá của mình. Platts duy trì giá xuất khẩu thép cây BS500 16-20mm tại mức 400-410 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế.
Một thương nhân Thượng Hải cho biết có vài giao dịch gần đây. Có sự chênh lệch lớn giữa giá của người bán và người mua, khiến giá bán khống thiếu thu hút.
Một nhà máy lớn ở phía Đông cho rằng giá sẽ giảm vào cuối tháng 5 nên sẽ không công bố chào bán chính thức mà chỉ đàm phán những đơn hàng lớn để không ảnh hưởng xấu tới giá thị trường.
Tại Singapore, giá chào từ một thương nhân ở mức 425 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết giao tháng 7, tương đương 422 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế đã tính phí vận chuyển 16 USD/tấn và 3% chênh lệch khối lượng. Hàng tồn kho vẫn ở mức cao, đủ tiêu thụ 5-6 tháng, thậm chí nhiều người mua còn trữ đủ tiêu thụ 7-9 tháng.
Tại Hong Kong, giá chào từ các nhà máy cố định ở mức 435 USD/tấn CFR Hong Kong trọng lượng thực tế giao tháng 7, tương đương 425 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế đã tính phí vận chuyển 10 USD/tấn. Một nhà môi giới trong nước không hứng thú kiểm tra giá trong thời gian gần đây.
Giá thép cuộn không gỉ Châu Á suy yếu, triển vọng không rõ ràng
Giá xuất khẩu thép cuộn cán nguội không gỉ loại 304 2mm 2B từ Đài Loan và Hàn Quốc giảm 25 USD/tấn trong tuần qua, còn 2.000-2.050 USD/tấn CFR Đông Á và Đông Nam Á. Nhu cầu tiêu thụ suy yếu vì tâm lý thị trường bi quan sau khi niken sụt giảm và thị trường Trung Quốc biến động.
Giá có thể giao dịch cho CRC 304 xuất xứ Hàn Quốc là 2.050 USD/tấn CFR trong ngày thứ sáu. Các nhà máy Hàn Quốc không vội giảm giá để chốt hàng vì thị trường nội địa vẫn mạnh.
Trong khi đó, người mua ra giá chào mua là 2.020 USD/tấn CFR. Một thương nhân Ma Cao cho rằng giá giao dịch sẽ thấp hơn hoặc không đổi. Các nhà máy không vội giảm giá để kích cầu do phần lớn người mua rút khỏi thị trường sau khi giá niken biến động.
Tại Trung Quốc, nhà máy thép không gỉ lớn nhất là Taigang Stainless Steel đang chào bán tại mức 1.870-1.880 USD/tấn FOB tùy thuộc vào cảng đến, do giá nội địa sụt giảm. Giá chào từ các thương nhân ở mức 1.900 USD/tấn FOB trong khi giá người mua đưa ra thấp hơn 50 USD/tấn.
Giá giao dịch niken bằng tiền mặt trên sàn London Metal Exchange ở mức 9.365-9.370 USD/tấn trong ngày 11/5, tăng 360 USD/tấn so với tuần trước đó.
Định giá HRC EU
Platts giữ giá HRC Tây Bắc Âu tại mức 525-535 Euro/tấn (tương đương 573.590-584.643 USD/tấn xuất xưởng Ruhr) trong ngày thứ sáu.
Cuối tuần qua, các nhà máy Bắc Âu chào bán tại mức 530-540 Euro/tấn xuất xưởng) nhưng giá chào bán từ Nam và Đông Âu cộng với hàng nhập khẩu vẫn phần nào gây áp lực tới thị trường.
Một nhà môi giới lớn ở Đức cho biết đã chốt đơn hàng tại mức 420 Euro/tấn xuất xưởng.
Các nhà máy Ý đang chào bán tại mức 500-505 Euro/tấn xuất xưởng nhưng đối với các đơn hàng lớn, họ sẽ chấp nhận giá 490 Euro/tấn xuất xưởng. Các nhà máy Đông Âu đang chào bán tới Nam Đức và Áo ở mức 470 Euro/tấn giao tháng 7.
Tại cảng nhập khẩu, các nhà máy Ấn Độ chào bán ở mức 480-490 Euro/tấn CIF Antwerp và 480 Euro/tấn CIF cảng Nam Âu.
Định giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ
Platts tăng giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ thêm 3.5 USD/tấn, đạt mức 433.50 USD/tấn trong ngày thứ năm.
Một nhà máy chào bán ở mức 460 USD/tấn FOB Marmara nhưng không thu hút người mua. Mọi người đang tập trung vào thị trường nội địa. Một nhà máy chào bán với giá 437 USD/tấn FOB Marmara tới Nam Mỹ nhưng giá dự thầu chỉ ở mức 430 USD/tấn FOB.
Hầu hết các nhà máy chào bán ở mức 450 USD/tấn FOB. Chỉ một nhà máy chào bán ở mức 435-437 USD/tấn FOB Marmara tới Châu Phi. Một thương nhân cho biết, giá xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ dao động quanh mức 440-445 USD/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ.
Bản tin quặng sắt tuần: Giá giảm do nguồn cung tăng
Thị trường xuất khẩu quặng sắt tiếp tục suy yếu tuần qua do hàng tồn tại các cảng tăng kéo giá giao dịch giảm xuống. Platts giảm giá quặng 62% IODEX xuống 85 cents (1.38%) so với tuần trước đó, còn 60.55 USD/tấn CFR Bắc Trung Quốc.
Nhu cầu tiêu thụ khan hiếm do người mua từ chối đặt hàng vì nghĩ giá còn giảm nữa.
Nhiều nhà tiêu thụ cuối còn bán lại các đơn hàng quặng giao kỳ hạn của họ tại thị trường giao ngay, gây áp lực cho giá.
Quặng chất lượng thấp được mua nhiều ở Trung Quốc vì các nhà máy muốn giảm chi phí sản xuất bằng cách pha trộn nó với quặng chất lượng cao Carajas. Mặc khác, các nhà máy thép Trung Quốc nghĩ rằng quặng không còn giảm nhiều nữa vì họ đã đủ lợi nhuận để duy trì ngắn hạn.
Trong khi đó, quặng cục lại có xu hướng tăng giá dựa vào hàng tồn kho thấp. Các nhà tiêu thụ cuối đang tìm kiếm quặng cục do tin rằng Chính quyền địa phương sẽ đưa ra các sáng kiến mới để giảm thiểu ô nhiễm trước hội nghị “Một vành đai, một con đường” ở Bắc Kinh trong 2 ngày 14 và 15/5.
Tuy nhiên, người mua cho rằng đà tăng giá quặng viên chỉ duy trì ngắn hạn vì có nhiều lô hàng sẽ cập bến sớm, và nguồn cung tăng trở lại sẽ kéo giá giảm.
Bản tin than đá tuần: Giá giảm do các nhà máy đã thu mua đủ
Thị trường than đá Châu Á-Thái Bình Dương tiếp tục suy yếu trong tuần qua do người mua không cần thêm hàng, một số thậm chí đã mua quá nhiều sau trận bão Debbie. Platts giảm giá than đá chất lượng thấp xuống 20 USD/tấn, còn 168 USD/tấn FOB Úc trong ngày thứ sáu.
Nhu cầu tiêu thụ than đá ngoài nước im ắng, dù có vài người mua trở lại thị trường với vài giao dịch diễn ra ở mức giá thấp hơn.
Tuy nhiên, nhìn chung các thương nhân sẽ phải giảm giá nữa vì người mua rất do dự khi đặt hàng.
Tại Trung Quốc, các cuộc điều tra môi trường đã dẫn tới sự sụt giảm mạnh về sản lượng thép cũng như than đá trước sự kiện “Một vành đai, một con đường” ở Bắc Kinh trong 2 ngày 14 và 15/5.
Giá than đá nội địa Trung Quốc cũng giảm do sức mua yếu. Một nhà máy ở Sơn Đông đã chốt giao dịch với giá giảm 50 NDT/tấn,kéo giá nội địa lún sâu thêm. Điều này dự báo cũng sẽ kìm hãm nhu cầu tiêu thụ than đá ở Châu Á.
Tại Đông Bắc Châu Á, các thành viên thị trường tập trung vào các thảo luận giá chuẩn Q2 nhưng chưa động tĩnh gì trong tuần qua.
Thị trường tấm mỏng Mỹ trầm lắng do người mua từ chối đặt hàng
Thị trường tấm mỏng Mỹ trầm lắng tuần qua do người mua la lánh thị trường và không biết liệu sẽ mua được các đơn hàng lớn với giá nào.
Một trung tâm dịch vụ cho biết, các nhà máy sẵn sàng chấp nhận giá 560-580 USD/tấn đối với các đơn hàng HRC trọng tải lớn, mặc dù ông chưa giao dịch tại mức giá này. Các nhà máy tích hợp vẫn giữ giá tối thiểu là 620 USD/tấn xuất xưởng.
Một trung tâm dịch vụ cho hay đã mua HRC cách đây vài tuần với giá cạnh tranh từ một nhà máy Canada. Với giá giảm và nhu cầu tiêu thụ suy yếu, trung tâm này đã giảm khối lượng đơn hàng thu mua dự trữ.
Các nhà máy đã giữ giá thoát khỏi được đà giảm sâu bằng cách duy trì bảo dưỡng nhà xưởng. Sự tiêu thụ chậm chạp từ ngành sản xuất xe hơi khiến giá giảm, nhưng chỉ ngắn hạn. Một nguồn tin dự báo giá sẽ ổn định trong thời gian còn lại.
Platts vẫn duy trì giá HRC và CRC lần lượt tại mức 600-630 USD/tấn và 810-840 USD/tấn xuất xưởng Midwest (Indiana).
Định giá phôi thanh CIS
Platts vẫn duy trì giá xuất khẩu phôi thanh CIS tại mức 393 USD/tấn trong ngày thứ sáu.
Một nhà máy Nga duy trì giá chào bán tại mức 400 USD/tấn FOB Novorossiysk. Thị trường chưa có giao dịch mới. Có nhiều hỏi mua hơn từ Bắc Phi với giá dự thầu là 415 USD/tấn CIF Ai Cập, tương đương 390-395 USD/tấn FOB Biển Đen.
Trong ngày thứ năm tuần trước, một nhà máy mini Ukraina đã chốt được đơn hàng giao tháng 6 thanh toán trước một phần tại mức giá 385 USD/tấn FOB Biển Azov. Một thương nhân cho biết đã đặt 10.000 tấn cũng từ nhà máy này với giá 385 USD/tấn FOB. Ông dự báo sẽ có thêm 10.000 tấn nữa được bán vào tuần tới.
Kardemir tăng giá gang thỏi
Nhà máy tích hợp thép dài Kardemir Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng mạnh giá gang thỏi tính bằng đồng Lira vào cuối tuần trước, sau khi lượng gang thỏi nhập khẩu vào Thổ Nhĩ Kỳ giảm đáng kể trong Q1.
Kardemir tăng giá gang thỏi thêm 100 TRY/tấn (28 USD/tấn) lên 1.475-1.510 TRY/tấn (410-420 USD/tấn) xuất xưởng trong ngày thứ sáu, trong khi giá gang thỏi tăng cùng mức lên 1.390-1.425 TRY/tấn (387-397 USD/tấn) xuất xưởng. Giá chào gang thỏi CIS ở mức 360 USD/tấn FOB Biển Đen trong mấy ngày gần đây.
Nhập khẩu gang thỏi vào Thổ Nhĩ Kỳ trong Q1 giảm 30% so với cùng kỳ năm ngoái, còn 210.000 tấn do sản lượng thép thô tăng 14.1% lê 8.8 triệu tấn.
Sản lượng thép thô tại các nhà máy EAFs tăng mạnh 19.2% trong tháng 1-3 trong khi sản lượng các lò biến đổi oxy tăng 4.9% lên 2.9 triệu tấn.
Mặc dù giảm 5% về sản lượng, Nga vẫn là nhà nhập khẩu lớn nhất của Thổ Nhĩ Kỳ trong Q1, với 98.000 tấn. Ukraina là nhà cung cấp lớn thứ hai với 85.000 tấn, giảm mạnh 55% so với cùng kỳ năm ngoái.
Giá phế Châu Âu bình ổn hoặc giảm nhẹ trong tháng 5
Giá phế Bắc Âu hầu như ổn định trong tháng 5 ngày, mặc dù giá chốt vài đơn hàng có thấp hơn tháng trước.
Giá phế vụn ở mức 250-265 Euro/tấn đã tính phí bốc hàng, ổn định hoặc giảm nhẹ 5 Euro/tấn trong vài giao dịch. Giá cao hơn giá xuất khẩu phế chất lượng cao và HMS chất lượng cao.
Tuy nhiên, nhu cầu tiêu thụ thép cây mạnh mẽ trong nước đã hỗ trợ tâm lý các nhà xuất khẩu phế Châu Âu. Họ cho rằng sẽ tăng giá vào cuối tuần này, trong khi đồng nội tệ vẫn là vấn đề lớn trong nước.
Tại Ba Lan và Anh, giá mua phế ổn định hoặc giảm nhẹ với giá mua của nhà máy Celsa giảm 5 Euro/tấn trong tháng 5.
Tại thị trường Thụy Điển, giá mua phế giảm 70 SEK/tấn (7 Euro/tấn) trong tháng 5. Giá này dành cho phế tiêu chuẩn số 11, tương ứng phế HMS số 1 ở thị trường xuất khẩu xa, hoặc E3 ở Châu Âu.
Platts vẫn duy trì giá xuất khẩu phế vụn ở mức 250-260 Euro/tấn trong tháng 5.
Giá thép thanh/phôi thanh Thổ Nhĩ Kỳ tăng sau khi Kardemir tiếp tục tăng giá
Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục tăng giá thép dài nhờ tiêu thụ nội địa mạnh và nguồn cung vài mặt hàng giới hạn. Nhà máy Kardemir đã trở lại thị trường trong ngày thứ sáu, với giá tăng lần hai trong vòng 1 tuần.
Giá mới của Kardemir cho thép thanh tròn đạt mức 1.729 TRY/tấn (482 USD/tấn) xuất xưởng, trong khi thép cây ở mức 1.712 TRY/tấn (477 USD/tấn) xuất xưởng, cùng cao hơn giá niêm yết ngày 25/4 khoảng 64 TRY/tấn (18 USD/tấn).
Giá bán từ các nhà môi giới cũng tăng 50-70 TRY/tấn (14-20 USD/tấn) ở vài khu vực, đạt mức 495-500 USD/tấn xuất xưởng trong ngày thứ năm.
Kardemir cũng tăng giá thép dây đường kính 5.5mm lên 1.780 TRY/tấn (495 USD/tấn) xuất xưởng trong khi loại 6-32mm tăng lên 1.750-1.765 TRY/tấn xuất xưởng (486-490 USD/tấn), cùng tăng 20 TRY/tấn (5.5 USD/tấn).
Kardemir cũng nhận đơn hàng thép hình và góc với giá cao hơn. Giá thép hình tính bằng đồng Lỉa tăng 20 TRY/tấn (5.5 USD/tấn) so với giá cũ còn thép hìnhIPE-IPN-UPNs 160mm-300mm tăng lên 1.750 TRY/tấn (487 USD/tấn) xuất xưởng.
Giá cho thép hình IPE-IPN-UPN 320mm-550mm tăng lên 1.820 TRY/tấn (507 USD/tấn) trong khi loại HEA-HEBs 120mm-200mm, 220mm-260mm and 280mm-300mm tăng cùng mức lên 1.765 TRY/tấn (491 USD/tấn), 1.840 TRY/tấn (512 USD/tấn) và 1.915 TRY/tấn (533 USD/tấn).
Công ty này cũng tăng giá thép góc loại 150mm x 15mm lên 1.875-1.925 TRY/tấn (522-536 USD/tấn), loại 180mm x 18mm lên 2.005 TRY/tấn (559 USD/tấn), và loại 200mm x 16-24mm lên 2.005-2.095 TRY/tấn (559-583 USD/tấn) chưa thuế.
Tương tự, trong ngày thứ sáu, Kardemir mở cửa nhận đơn hàng phôi thanh với giá cao hơn giá niêm yết cũ. Giá mới cho phôi thanh chuẩn là 1.500-1.515 TRY/tấn (417-422 USD/tấn) xuất xưởng. Tuy nhiên, công ty này đóng cửa lại vào buổi chiều thứ sáu sau khi nhận được các đơn hàng có khối lượng 80.000 tấn trong nước. Giá chào từ các nhà máy khác là 430-435 USD/tấn xuất xưởng trong khi CIS tăng chào giá lên 410-415 USD/tấn CIF.
Các nhà xuất khẩu cán nóng lên án chính quyền New Delhi áp dụng thuế chống bán phá giá cho HRC
Các nhà xuất khẩu thép cán nóng tới Ấn Độ lên án việc chính quyền New Delhi áp dụng thuế chống bán phá giá cho HRC, thép tấm dày và tấm mỏng nhập khẩu từ 6 nhà cung cấp lớn.
Bộ tài chính Ấn Độ thông báo trong ngày 11/5 rằng, Ấn Độ sẽ truy thu thế từ ngày 8/8/2016 cho thép cuộn nhập khẩu từ Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Braxin, Nga và Indonesia trong 5 năm.+
Bộ tài chính cho rằng giá nhập khẩu từ các nước này (tính theo CFR) dưới giá xuất xưởng 478-489 USD/tấn cho HRC và dưới 561 USD/tấn cho thép tấm cán nóng và cán dày.
Trong tháng trước, Bộ đã đưa ra các khuyến nghị tương tự cho HRC nhập khẩu có độ dày 25mm và rộng 2.100mm, tấm mỏng/dày rộng 4.950mm và dày 150mm có mã 7208 và 7211, 7225 và 7226.
Nhập khẩu HRC vào Ấn Độ giảm 44% so với cùng kỳ năm ngoái, còn 1.9 triệu tấn trong suốt giai đoạn tháng 4/2016-tháng 3/2017. Xuất khẩu từ Hàn Quốc, nhà cung cấp lớn nhất, giảm 55% còn 837.150 tấn.
Giá HRC nội địa Ấn Độ tiếp tục cao hơn giá toàn cầu. Platts định giá HRC dày 3mm và cao hơn xuất xưởng tại mức 35.500-36.500 Rupees/tấn (553-569 USD/tấn) trong khi chào giá từ Trung Quốc tới Ấn Độ cho cùng mặt hàng ở mức 455 USD/tấn CFR Mumbi, thấp hơn nhiều giá tham khảo.