Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 16/02/2017

Định giá HRC EU

Platts tăng trung điểm của phạm vi định giá thép cuộn cán nóng phía bắc châu Âu thêm 2,50 euro/tấn hôm thứ Tư với mức cao nhất của phạm vi giá tăng 5 euro/tấn lên mức 570-580 euro/tấn (604,34-615,08usd/tấn) xuất xưởng Ruhr.
Các nhà máy dường như chào giá 600 euro/tấn hoặc ra khỏi thị trường. Một số vẫn là thông báo mức giá Q2 trong khi những nơi khác dường như thiếu hụt nguồn cung.
Một nguồn tin nhà máy cho biết 580 euro/tấn là mức hiện tại, trong khi một người mua ở Benelux ghi nhận một số giao dịch đã được thực hiện ở mức cao 590 euro/tấn. Tuy nhiên, ông nói rằng ông sẽ không mua với mức đó, trong khi một người mua ở Đức đưa mức giá thị trường hiện tại từ 575 euro/tấn. Các nguồn tin khác cho là mức giá 570 euro/tấn vẫn còn có sẵn.
Một người Đức cho biết giá nhập khẩu từ Thổ Nhĩ Kỳ và Ấn Độ là khoảng 530 euro/tấn CIF Antwerp, mặc dù thương nhân khác cho biết đang đàm phán xung quanh ngưỡng 510-520 euro/tấn.
 

Định giá thép cây FOB Thổ Nhĩ Kỳ

Platts định giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ tại mức 420usd/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ thứ Tư, tăng 2,50usd/tấn, từ thứ Ba.
Các nhà sản xuất cũng bị cho là đang duy trì ổn định giá chào trong phạm vi rộng là 430-450usd/tấn FOB Marmara/Izmir. Một thương nhân ở Thổ Nhĩ Kỳ đã báo cáo một chào giá là 440usd/tấn FOB. Anh nghe nói không có đặt mua ở mức này nhưng dự kiến thị trường sẽ điều chỉnh tăng lên. Trong khi đó, một thương nhân Thổ Nhĩ Kỳ khác thông báo mộ lô hàng bulk cho Malaysia chốt ở mức 425usd/tấn FOB trọng lượng thực tế. Khối lượng lô hàng này vẫn chưa được tiết lộ. Một thương nhân châu Âu đặt ra một mức giá phổ biến khoảng 420usd/ tấn FOB.
Platts nâng định giá đến 420usd/tấn FOB vì các nguồn tin bắt đầu báo cáo một số hoạt động đặt mua khoảng 420usd/tấn trở lên.
 

NSSMC duy trì giá thép dầm hình H trong nước

Nippon Steel & Sumitomo Metal Corp (NSSMC) đã quyết định giữ giá giao ngay trong nước cho thép dầm hình H đối với những hợp đồng tháng 2 (sản xuất tháng 3) nhưng đang khuyến cáo khách hàng rằng họ sẽ phải trả nhiều hơn vào tháng tới.
Trong tháng này, NSSMC đang ưu tiên cho việc đảm bảo mức tăng trước đó được chấp nhận hoàn toàn. Thép dầm của nhà máy hiện có giá đắt hơn 13.000 Yên/tấn (114 USD/tấn) so với mức giá hồi tháng 11.
Mặc dù trong tháng tới, giá quặng sắt và nguyên liệu phụ trợ tăng và thêm vào chi phí đầu vào của các nhà máy dùng lò nung, đại diện nhà máy giải thích. Đồng thời, các nhà máy mini sản xuất thép dầm sẽ đối mặt với phí dịch vụ và chi phí đầu vào cao hơn chẳng hạn như điện. “Việc cải thiện lợi nhuận là vấn đề quan trọng cho các nhà sản xuất thép ngay bây giờ”.
Một nhà phân phối có trụ sở tại Tokyo cho biết các khách hàng mua thép dầm hình H của NSSMC phần lớn đã chấp nhận mức tăng mà công ty thúc ép trong tháng 11 và 12, nhưng NSSMC vẫn đang vấp phải sự phản đối cho mức tăng 3.000 Yên/tấn mà công ty thông báo đối với những hợp đồng tháng 1.
“Tồn kho thép dầm hình H đã tăng vào cuối tháng 1 nhưng mức tồn kho vẫn còn tương đối thấp. Chúng tôi vẫn gặp khó khăn trong việc có được tất cả các kích cỡ thép dầm vì vậy có vẻ như nguồn cung đang hạn chế”.
Tồn kho thép dầm hình H tại nhóm các nhà phân phối trong nước Tokiwakai thuộc NSSMC vào cuối tháng 1 đã tăng 5% so với cuối tháng 12 lên 185.700 tấn. Đây là lần đầu tiên tồn kho vượt hơn 180.000 tấn kể từ tháng 9/2016.
“Nhưng tháng 1 có số ngày kinh doanh ít hơn, vì vậy chúng tôi dự báo tồn kho sẽ tăng một chút. Chúng tôi không quá lo lắng về kết quả”, nhà phân phối này nói.
NSSMC không bao giờ tiết lộ giá niêm yết của mình nhưng giá thị trường hiện nay cho thép dầm hình H cỡ lớn tại Tokyo là 72.000-73.000 Yên/tấn (632-640 USD/tấn), tăng 2.000 Yên/tấn so với 1 tháng trước đó.
Trong khi đó, Nippon Steel & Sumikin Shapes – công ty con của NSSMC – nằm ở Wakayama, phía tây Nhật Bản, cũng sẽ giữ giá thép dầm hình H cho tháng 2.

Thị trường phôi thanh Thổ Nhĩ Kỳ điểu chỉnh lại theo giá thấp hơn của Kardemir

Thị trường phôi thanh yên ắng của Thổ Nhĩ Kỳ trong vài tuần gần đây đã sôi động lại hôm thứ Tư, khi nhà sản xuất thép dài tích hợp lớn của Thổ Nhĩ Kỳ, Kardemir, mở bán lại đơn đặt hàng với giá trong nước thấp hơn - mặc dù giá phôi thanh và phế nhập khẩu tiếp tục mạnh lên.
Công ty đưa ra giá bán mới bằng đồng lira với phôi thép tiêu chuẩn là 1.430-1.445 TRY/tấn (392-396usd/tấn) xuất xưởng, giảm 21 TRY/tấn (6usd/tấn) so với niêm yết trước đó của nó. Kardemir chốt bán phôi thanh khoảng giữa trưa, sau khi nhận được hơn 100.000 tấn của các đơn đặt hàng từ các thị trường trong nước, các nguồn tin công nghiệp cho biết.
Kardemir đã điều chỉnh giá thép cây hôm thứ Tư. Giá niêm yết thanh tròn trơn đạt 1.592 TRY/tấn (436usd/tấn) xuất xưởng sau khi tăng giá, trong khi thép cây đã được thiết lập tại mức 1.575 TRY/tấn (431usd/tấn) xuất xưởng – đầu tăng 54 TRY/tấn (15usd/tấn ) so với giá trước đây ban hành ngày 09/02.
Công ty cũng tăng giá cuộn trơn 35 TRY/tấn (9,50usd/tấn) hôm thứ Tư. Giá niêm yết của Kardemir cho cuộn trơn 5.5mm tăng lên mức 1.680-1.695 TRY/tấn (460-464usd/tấn) xuất xưởng, trong khi giá cuộn trơn 6-32mm đã lên đến khoảng 1.665-1.680 TRY/tấn (456-460usd/tấn) xuất xưởng.
Kardemir tái mở bán đơn đặt hàng thép hình và thép góc với giá giảm so với giá niêm yết trước đó. Công ty này giảm giá IPE-IPN-UPNs 160-300mm còn 1.765 TRY/tấn (483usd/tấn) xuất xưởng.
Giá cho IPE-IPN-UPN 320-550mm giảm còn 1.835TRY/tấn (502usd/tấn), trong khi giá cho HEA-HEBs 120-200mm, 220-260mm và 280-300mm giảm một khoản tương ứng còn 1.780 TRY/tấn (487usd/tấn), 1.855 TRY/tấn (508usd/tấn) và 1.930 TRY/tấn (528usd/tấn), tương ứng.
Công ty cũng giảm giá đối với thép góc bằng: cho 150x15mm còn 1.890-1.940 TRY/tấn (518-526usd/tấn); cho 180x18mm còn 2.020 TRY/tấn (553usd/tấn) và cho 200x16-24mm còn 2.020-2.110 TRY/tấn (553-578usd/tấn).
Giá niêm yết của Kardemir không bao gồm 18% thuế VAT.
 

Thị trường thép cây Thái Lan tìm thấy sự hỗ trợ từ giá phôi thép cao hơn

Giá thép cây tại Thái Lan cuối cùng đã phục hồi trong bối cảnh chi phí phôi thanh tăng. Chào giá phôi thép đã tăng trong tuần này nhờ tâm lý cải thiện tại Trung Quốc và cùng với giá nguyên liệu cao hơn trong đó có phế.
Giá thép cây trong nước đã tăng lên 16.700 Bath/tấn (477 USD/tấn) hôm thứ Ba, sau khi rớt xuống 16.200 Bath/tấn trong ngày thứ Hai. Tuần trước, giá thép cây phổ biến ở mức 16.500-17.000 Bath/tấn.
Nghe nói phôi thép của Iran được chốt với giá 388 USD/tấn CFR Thái Lan trong tuần trước. Nhưng một số thương nhân cho biết giao dịch này, là cho 10.000 tấn, đã giảm qua những thay đổi có thể trong thông số kỹ thuật. Chào giá ban đầu cho phôi thép của Iran là 390 USD/tấn CFR.
Tuần này, chào giá phôi thanh từ Biển Đen đã tăng lên 420-430 USD/tấn CFR Thái Lan từ 410-415 USD/tấn CFR của tuần trước. Không có chào giá Trung Quốc hay từ những nơi khác được nghe nói tới.
Tính đến cuối ngày thứ Tư, các nhà cung cấp phôi thanh của Thổ Nhĩ Kỳ vẫn chưa thông báo chào giá bởi vì thị trường phế vẫn đang tăng. Nhưng hiện nay giá phế Thổ Nhĩ Kỳ, chào giá cho phôi thanh Thổ Nhĩ Kỳ có khả năng ở quanh mức 415-420 USD/tấn CFR Thái Lan.
Với chi phí chuyển đổi thông thường 2.000 Bath/tấn từ phôi thép sang thép cây, các nhà cán thép cần phải đặt mua phôi thép nhập khẩu với giá dưới 410 USD/tấn CFR để hòa vốn. Nhưng sự quan tâm thu mua hạn chế. “Không ai hành động ngay cả ở mức giá này hiện nay”, một thương nhân Bangkok cho biết hôm thứ Tư.

Thị trường thép không gỉ quan sát giá ferrochrom để dự đoán xu hướng mức phụ phí

Với phụ phí hợp kim các nhà máy không gỉ châu Âu ở mức cao trong nhiều năm, những người tham gia thị trường đang nhìn vào giá ferrochrome và nickel cho những manh mối về mức phụ thu trong những tháng tới, các nguồn tin cho hay.
"Phụ phí ferritics chủ yếu được xác định bởi ferrochrome. Đó là một con số hàng quý, vì vậy chúng tôi sẽ phải xem những gì sẽ xảy ra trong quý 2," một nguồn tin nhà máy cho biết. "Chúng tôi không cho là giá ferrochrome sẽ biến động."
Chuẩn ferrochrome châu Âu đàm phán giữa nhà sản xuất và các nhà máy chốt ở mức 165 cent/lb cho Q1, tăng 55 cent/lb (50%) so với quý trước và tăng 79% từ mức 92 cent/lb trong quý 1 năm ngoái.
Phụ phí hợp kim tháng Hai cho thép dẹt ferriti 403 được công bố bởi các nhà máy châu Âu trung bình khoảng 785euro/tấn (830usd/tấn), tăng 29% từ 610 euro/tấn trong tháng trước và tăng 89% từ mức 415 euro/tấn trong tháng 02/2015.
Phụ phí Outokumpu cho thép dẹt nickel-free 430 chốt ở mức 810 euro/tấn cho tháng Hai, tăng 186 euro từ tháng Một và đạt mức cao kỷ lục từ tháng 01/2007.
Chuẩn ferrochrome Q2 Ferô sẽ được công bố vào tháng Ba, theo một nguồn tin nhà máy thứ hai, và nói thêm rằng dự đoán giá sẽ "giảm nhẹ so với mức hiện nay, nhưng không quá mạnh."

Một nguồn tin nhà phân phối cho rằng trong khi ferrochrome đã thắt chặt, nó đã không chứng minh quy mô của xu hướng giá gần đây. "Có bằng chứng cho việc tăng giá, nhưng tôi không chắc chắn là có lý do để tăng giá lần này," ông nói.
Phụ phí châu Âu cho thép nickel-bearing austenitic cũng tăng mạnh trong những tháng gần đây, với mức phụ phí trung bình cho thép dẹt 304 là 1.420 euro/tấn cho tháng Hai, tăng 7,5% từ mức 1.320 euro/tấn trong tháng Một và tăng 66% từ 855 euro/tấn vào tháng Hai năm 2015.
"Austenitics được thúc đẩy bởi sự phát triển của giá nickel, vốn đang có những phản ứng với các thông báo liên quan đến Indonesia và Philippines", nguồn tin nhà máy đầu tiên nói.
Giám đốc điều hành Outokumpu Roeland Baan nói trong một hội nghị gần đây rằng công ty đã dự kiến giá niken giao dịch trong một phạm vi 10.500- 11.500usd/tấn cho đến khi tin tức vào tháng trước của việc nới lỏng lệnh cấm xuất khẩu quặng của Indonesia đã kéo giá về dưới ngưỡng 9.500usd/tấn.
Thị trường sau đó hồi phục trên 10.000usd/tấn do tin rằng việc điều tra môi trường ở Philippines đã đề nghị đóng cửa một số mỏ khai thác, có khả năng cắt giảm mạnh sản lượng niken của nước này.
 

Giá cuộn trơn Châu Á tăng mạnh nhờ chào giá Trung Quốc cao hơn

Giá giao ngay của cuộn trơn được giao dịch tại khu vực Châu Á đã tăng đáng kể từ ngày 9-15/2, khi các nhà xuất khẩu Trung Quốc nâng chào giá để phản ánh sự phục hồi mạnh mẽ trên thị trường nội địa. Platts định giá thép dây dạng lưới đường kính 6.5mm ở mức 450-456 USD/tấn FOB, tăng 18 USD/tấn so với tuần trước đó.
Hôm thứ Tư, hai nhà máy xuất khẩu lớn ở miền bắc đều đã nâng chào giá so với ngày trước đó thêm 5 USD/tấn cho thép dây hàm lượng cacbon thấp SAE1008 6.5mm lên 475 USD/tấn FOB.
Điều này chủ yếu là để phản ánh một số giá bán ở mức 470 USD/tấn FOB hôm thứ Ba. Các nhà máy nhỏ hơn ở tỉnh Hà Bắc đang nâng chào giá lên mức cao 480 USD/tấn FOB để phản ánh giá phôi thép cao.
Trong khi đó, một nhà máy ở miền đông cũng đã nâng chào giá lên 470 USD/tấn FOB hôm thứ Tư, tăng 10 USD/tấn so với ngày trước đó. Một nhà máy khác đã ngưng báo giá trong tuần này bởi vì giá trong nước cao.
Các thương nhân đang chật vật để chốt được giao dịch với người mua cho cuộn trơn Trung Quốc đắt đỏ. Một số thương nhân nghe nói một giao dịch được thực hiện hôm thứ Tư với giá 465 USD/tấn CFR Manila (tương đương 450 USD/tấn FOB) nhưng cho rằng đây là giá mua vào của một công ty giao dịch nhất định. “Việc bán khống có lẽ là quá rủi ro vào lúc này”, một thương nhân ở miền đông cho hay.
Một người khác đã bán một lô hàng với giá 468 USD/tấn CFR Manila trong ngày thứ Tư. Nhưng không có chi tiết nào khác. Chào giá phổ biến của các thương nhân đã nhảy lên khoảng 475 USD/tấn FOB, một mức giá không hấp dẫn đối với người mua trong khu vực này.
Jiujiang Wire Co đã nâng giá niêm yết thêm 230 NDT/tấn lên 3.320 NDT/tấn (483 USD/tấn) xuất xưởng gồm VAT hôm 13/2. Hôm 15/2, giá giao ngay tại Thượng Hải cho cuộn trơn Q195 6.5mm là 3.380-3.400 NDT/tấn xuất xưởng gồm VAT, tăng 140 NDT/tấn so với 1 tuần trước đó.

Các nhà máy Ấn Độ giảm giá HRC trong nước do nhu cầu suy yếu

Các nhà máy thép Ấn Độ đang chật vật để thực hiện tăng giá HRC trong nước như đã thông báo vì người mua thương lượng kỳ kèo trước sự suy yếu của nhu cầu trực tiếp. Các nhà máy đang bị sức ép giảm xuống khoảng 2.000 Rupees/tấn (30 USD/tấn) cho giá niêm yết, một sự hạ giá đang đẩy giá thị trường giao ngay đi xuống.
Hôm thứ Tư, S&P Global Platts định giá HRC IS 2062 từ 3mm trở lên giảm 2.000 Rupees/tấn so với tuần trước đó xuống còn 37.500-38.500 Rupees/tấn (560-575 USD/tấn) gồm phí vận chuyển. Mức giá này tương đương 44.242-45.421 Rupees/tấn gồm 5% VAT và thuế tiêu thụ 12.5%.
“Những ảnh hưởng của việc đổi tiền vẫn chưa ổn định”, một người mua HRC cho biết, đề cập đến cuộc khủng hoảng thanh khoản mà chính phủ đã tạo ra hồi cuối năm ngoái bằng cách áp dụng hạn mức rút tiền từ ATM. Việc rút tiền mặt tại các cây ATM hiện bị giới hạn ở mức 10.000 Rupees/ngày, làm hạn chế sức mua của người tiêu dùng.
Tuy nhiên, nhu cầu thép có khả năng sẽ phục hồi một khi tiền mặt bắt đầu lưu thông vào nền kinh tế. “Tiền mặt được thu gom bởi các ngân hàng từ quá trình đổi tiền sẽ dẫn tới việc chi tiêu công nhiều hơn trong các dự án cơ sở hạ tầng và sản xuất khác nhau. Điều này sẽ làm tăng nhu cầu tiêu thụ thép”, đại diện một nhà máy ở Mumbai cho hay.
Việc đổi tiền của New Delhi được bắt đầu hồi tháng 11 năm ngoái đã giúp cho các ngân hàng thu gom nhiều cọc tiền giấy mệnh giá 500 Rupees và 1.000 Rupees không được báo cáo đang được cất giữ bởi người dân. Các nhà máy thép đang hy vọng vận may này sẽ dẫn đến chi tiêu công nhiều hơn.
Tuy nhiên, điều này sẽ không ảnh hưởng tới nhu cầu thép thực tế trong ít nhất 6 tháng. Các nhà máy sẽ bị sức ép để kiềm lại bất cứ việc tăng giá thêm nào trừ phi nhu cầu cải thiện.

Định giá phôi thanh CIS

Platts định giá xuất khẩu phôi thanh CIS hàng ngày ở mức 380usd/tấn FOB Biển Đen thứ Tư, ổn định trong ngày.
Giá chào bán từ các nhà máy CIS vẫn trong khoảng 385-400usd/tấn FOB Biển Đen. Một thương nhân Ai Cập đưa ra mức giá chấp nhận được đối với thị trường của mình tại mức 410usd/tấn CFR Ai Cập, tương đương 385-390usd/tấn FOB Biển Đen, nhưng ghi nhận chào bán tại mức 400usd/tấn FOB Biển Đen. Các nhà sản xuất được cho là đang duy trì vững chắc giá chào vì như phế nhập khẩu vào Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục tăng.
Một thương nhân ở Ukraina nghe được một chào giá địa phương chốt ở mức 390usd/tấn FOB, dự đoán mức giá cao hơn trong những ngày tới do giá phế mạnh lên. Các nguồn tin khác cũng trong tâm trạng dự đoán giá phôi thanh mạnh lên tương tự.
 

Hàng tồn kho của người mua ở mức thấp thúc đẩy niềm tin trên thị trường tấm mỏng Mỹ

Người mua và người bán trên thị trường thép tấm mỏng của Mỹ được khích lệ bởi dữ liệu hàng tồn kho thấp, nghĩ rằng một thị trường thắt chặt có thể giúp hỗ trợ giá, vốn đang có dấu hiệu suy yếu.
Viện Trung tâm Dịch vụ Sắt thép MSCI báo cáo rằng các trung tâm dịch vụ của Mỹ hiện có nguồn cung 2,0 tháng cho thép cuộn dẹp mỏng vào cuối tháng Một, giảm từ mức 2,7 tháng hồi Mười Hai và bằng với mức thấp nhất gần đây thấy vào tháng 06/2016.
Một nguồn tin trung tâm dịch vụ cho biết đã có nhiều lô hàng giao trong tháng Một, và mặc dù các lô hàng đã chậm lại trong tháng Hai, ông dự đoán kinh doanh sẽ tăng trong vài tuần tới với nhu cầu tiêu thụ tăng theo mùa dự kiến, và thêm rằng giá sẽ tăng trong quý II.
Nguồn tin trung tâm dịch vụ này cho biết đã không cần thiết để mua trong thời gian gần đây. Ông nhìn thấy cuộn cán nóng tại mức 620usd/st, nhưng không chắc về thép cuộn cán nguội. Một nhà máy báo giá ông 860usd/st, mức quá cao. "Tôi không biết ai đã mua ở mức đó," ông nói.
Một nguồn trung tâm dịch vụ khác cho biết đã nhìn thấy giá tấm mỏng trượt giảm một chút, nhưng với những tin tức hàng tồn kho của trung tâm dịch vụ và xu hướng tăng có thể có trong giá phế liệu tháng Ba, có thể thấy các nhà máy đang cố gắng tăng trở lại kể từ mức giảm xuống tháng Một và có thể tăng hơn 10usd/st.
"Tôi nghĩ rằng bạn có thể thấy giá giao ngay suy yếu một chút ở đây nhưng tôi không nghĩ rằng nó sẽ kéo dài," ông nói. "Tất cả mọi thứ quá ổn định. Niềm tin kinh doanh thì rất mạnh mẽ. "
Nguồn tin trung tâm dịch vụ thứ hai này cho biết ông đã được báo giá 800usd/st cho tấm mạ kẽm. Trước khi ông nhận được mức giá này, ông đã không ấn tượng với giá CRC ấn tượng và HDG ở mức 840usd/st. Ông nói ông không cần phải mua thép tấm mạ kẽm trong tương lai gần - ngoài một số đơn đặt hàng nhỏ để lấp đầy khoảng trống - và ông gần đây đã đặt mua thép nhập khẩu.
"Thị trường đã bắt đầu trượt giảm hai tuần trước và giảm mạnh trong tuần trước," một nguồn tin nhà máy cho biết về đơn đặt hàng với quy mô lớn. Ông nói rằng ông sẽ bán tấm mạ kẽm tại mức 820-830usd/st cho đơn hàng nhỏ hơn.
Hàng tồn kho thấp và nhu cầu tiêu thụ mạnh mẽ dự kiến trong tháng Ba và tháng Tư có thể đủ để chuyển hướng quỹ đạo giá, nguồn tin nhà máy cho biết, các nhà máy và thậm chí có thể cố gắng để tăng giá.
Một nguồn tin nhà máy cho biết ông đã không bán bất kỳ đơn hàng HRC nào dưới 620usd/st, và nói rằng ông không thấy lý do nào để nhận đơn hàng dưới 600usd/st. Ông cho biết có lẽ chỉ có một nhà máy bán dưới 600usd/st. Giao dịch giao ngay đang trong phạm vi 620-640usd/st cho HRC và 820-840usd/st cho đơn đặt hàng nhỏ của CRC.
Nguồn tin nhà máy thứ hai cho biết ông đã không có bất kỳ đơn đặt hàng lớn nào gần đây, nhưng các đặt mua, đặc biệt là đặt mua hợp đồng, đang duy trì ổn định.
Định giá HRC và CRC hàng của Platts vẫn không đổi hôm thứ Tư tại mức 620-630usd/st và 820-840usd/st, tương ứng. Cả hai định giá chuẩn hóa theo cơ sở xuất xưởng Midwest (Indiana).
 

HRC Châu Á không thay đổi giá do thanh khoản yếu

Thị trường HRC khu vực Châu Á vẫn còn tĩnh lặng trong ngày thứ Tư, khi người bán tiếp tục nâng chào giá nhưng không nhận được phản hồi từ người mua. Giá giao sau đã giảm nhẹ trong bối cảnh thị trường Trung Quốc có sự điều chỉnh.
Platts định giá HRC SS400 3.0mm ở mức 495-505 USD/tấn FOB Trung Quốc, không đổi so với thứ Ba. Thị trường Thượng Hải giao ngay được định giá 3.830-3.850 NDT/tấn (558-560 USD/tấn) xuất xưởng gồm 17% VAT, giảm 20 NDT/tấn so với thứ Ba.
Chào giá cho thép cuộn SAE1006 2.0mm từ các thương nhân miền đông Trung Quốc cho thấy cao hơn 10 USD/tấn so với HRC SS400, tăng 2,5 USD/tấn so với thứ Ba. “Hiện nay, người bán muốn bán các sản phẩm với lợi nhuận cao hơn. HRC dùng sản xuất thép ống được ưa chuộng hơn so với loại thương phẩm. Điều này cũng giống với CRC”, một nguồn tin từ miền đông cho biết.
Tại thị trường nội địa, việc sản xuất HRC để làm thép ống thay vì cán lại thì hiệu quả hơn bởi vì lợi nhuận của việc cán lại hiện nay không đáng để bỏ thêm thời gian và chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất, một thương nhân ở Thượng Hải nói.
Nghe nói một giá hỏi mua cho thép loại thương phẩm là 502 USD/tấn FOB Trung Quốc từ Hàn Quốc. Nhưng không thể có thông tin cụ thể hơn.

Thép cây Châu Á không đổi khi người mua có thái độ chờ đợi

Hôm thứ Tư, giá thép cây giao ngay tại thị trường Châu Á duy trì ổn định trong ngày thứ hai liên tiếp. Các nhà xuất khẩu Trung Quốc đang duy trì chào giá nhưng người mua ở nước ngoài còn nhiều hàng tích trữ nên không thiếu nguồn cung. S&P Global Platts định giá thép cây BS500 đường kính 16-20 mm ở mức 431-433 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế, không đổi so với thứ Ba.
Tại Singapore, chào giá cho thép cây xuất xứ Trung Quốc vẫn trên 450 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết, tương đương 448 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế với phí vận chuyển 15 USD/tấn và dung sai khối lượng 3%. Khoảng cách lớn giữa chào giá Trung Quốc cao hơn với giá của người mua thấp đang khiến cho nhu cầu giảm.
Một nhà tích trữ nhỏ thừa nhận người mua ở Singapore trước đây đã mua khối lượng lớn và không cần phải mua thêm. Tin đồn thị trường cũng cho rằng các nhà xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ đã nâng chào giá lên khoảng 465 USD/tấn CFR Singapore trọng lượng lý thuyết sau khi chào giá Trung Quốc tăng vọt.
Một nhà máy xuất khẩu lớn ở miền đông Trung Quốc hôm thứ Tư đã giữ chào giá ổn định ở mức 440 USD/tấn FOB trọng lượng lý thuyết, tương đương 454 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế với dung sai khối lượng 3%. Một nhà máy khác trong khu vực này đã thử báo giá ở mức tương tự mặc dù đa phần làm dấy lên sự phản ứng của người mua. Một nhà máy khác đã kiềm lại không chào giá.
“Thật vô nghĩa để chào giá bây giờ vì không ai mua khi đối mặt với giá cao như vậy”, một thương nhân ở Thượng Hải thừa nhận, bà này đã quyết định không đưa ra bất cứ chào giá nào. Bà cho biết công ty của bà đã không chốt được bất cứ hợp đồng nào kể từ khi mở cửa kinh doanh trở lại sau Tết. 

Steel Dynamics, Gerdau tăng giá SBQ Mỹ

Gerdau Long Steel North America và Steel Dynamics Inc. sẽ tăng giá cơ sở cho tất cả các sản phẩm thanh SBQ carbon và hợp kim 30usd/st, có hiệu lực với hàng giao từ 01/04, theo thư gửi cho khách hàng trong tuần này.

Giá cơ sở tăng của Gerdau sẽ được cộng thêm phụ phí hợp kim hiện có và phụ phí nguyên liệu thô cho các sản phẩm SBQ, công ty cho biết.

Hôm thứ Hai Nucor đã tăng giá SBQ 30usd/st, có hiệu lực với hàng giao từ 13/02.