Các nhà nhập khẩu cuộn trơn Trung Quốc tránh xa những bất ổn
Chào giá xuất khẩu cuộn trơn Trung Quốc ổn định trong tuần qua. Các nhà nhập khẩu ở những thị trường truyền thống Đông Nam Á tiếp tục lánh xa, trong bối cảnh giá bất ổn. Hôm 15/4, Platts định giá cuộn trơn SAE1008 đường kính 6.5mm của Trung Quốc giảm 3 USD/tấn so với tuần trước còn 352-362 USD/tấn.
Hôm thứ Tư, Jiujiang Wire Rod đã nâng giá xuất khẩu cuộn trơn chứa bo lên thêm 40 NDT/tấn (6 USD/tấn) sau khi nhà máy hạ giá vào hai tuần trước xuống tổng cộng 250 NDT/tấn. Nhưng các đại lý xuất khẩu của nhà máy vẫn giữ thái độ chờ xem và chưa tăng chào giá. Hầu hết các nhà máy Trung Quốc khác vẫn duy trì chào giá tuần này và các nhà nhập khẩu ở nước ngoài không bị thu hút bởi chào giá thấp hơn trước đó của Jiujiang.
Một thương nhân ở miền đông cho biết công ty ông sẽ giữ nguyên chào giá bởi vì nó cao hơn so với mức mục tiêu của người mua. Chào giá của ông không đổi từ tuần trước và nằm ở mức 377-378 USD/tấn FOB trong khi khách hàng Việt Nam lại đưa ra giá chỉ có 380 USD/tấn CFR (phí vận chuyển 12-14 USD/tấn).
Một nhà máy quy mô nhỏ hơn vẫn chào bán cuộn trơn với giá khoảng 370 USD/tấn FOB vào tuần trước. Một thương nhân ở miền bắc nghe nói một lô hàng gần đây được đặt mua với giá 380 USD/tấn CFR ở Việt Nam.
Một giao dịch cuộn trơn chứa cr nghe nói được ký kết với giá 373 USD/tấn CFR Philippines (phí vận chuyển khoảng 27 USD/tấn) trong tuần trước nhưng một số người mua lại nhắm đến mức giá 370 USD/tấn CFR.
Tại Thượng Hải, cuộn trơn Q195 đường kính 6.5mm tăng 15 NDT/tấn lên 2.300-2.320 NDT/tấn gồm 17% VAT, sau khi quặng sắt và phôi thanh phục hồi vào đầu tuần này. Tuy nhiên, giá phôi thanh ở tỉnh Hà Bắc lại giảm 10 NDT/tấn vào ngày thứ Tư do những quan ngại về giá quặng sắt.
Các nhà máy thép cán dẹt Mỹ giữ nguyên phí phụ thu và vận tải
Gía thép cán dẹt Mỹ dường như vẫn tương đối bình ổn trong thời gian ngắn tới do thiếu động lực hỗ trợ và các nhà máy sẵn sàng đàm phán phí phụ thu và phí vận chuyển để thu hút người mua.
Một nhà máy hiện tại chào bán tại mức 445 USD/tấn xuất xưởng cho đơn hàng 100 tấn HRC và giá 440 USD/tấn có thể đạt được cho đơn hàng 500 tấn. Đối với các đơn hàng CRC, giá 580 USD/tấn có thể dễ dàng đạt được.
Chiến thuật giữ phí vận tải và phụ thu không đổi là phương pháp phổ biến của các nhà máy muốn giữ giá xuất xưởng bình ổn khi thị trường chậm chạp.
Gía HRC giao ngay hiện đạt mức 450 USD/tấn xuất xưởng và CRC có thể đạt mức thấp 560 USD/tấn từ vài nhà máy.
Thị trường dường như không có tín hiệu khả quan trong thời gian ngắn tới nhưng tại thị trường Houston, giá đang suy yếu do vài nhà máy quyết định giảm giá theo thép nhập khẩu.
Platts cũng giảm giá HRC xuống còn 445-455 USD/tấn từ mức 445-460 USD/tấn trong khi CRC vẫn ở mức 570-590 USD/tấn xuất xưởng Midwest.
Giá ferrochrome Trung Quốc giảm nhẹ do nguồn cung cải thiện
Giá giao ngay trong nước của ferrochrome 50% Cr hôm thứ Tư thấp hơn một chút và còn 6.400-6.600 NDT/tấn (tương đương 78.6-81.1 cents/lb) gồm 17% VAT và phí vận chuyển- so với 6.450-6.600 NDT/tấn của một tuần trước do nguồn cung đã bớt khan hiếm.
Cùng ngày, chào giá trên thị trường không đổi sau khi Shanxi Taigang Stainless Steel duy trì giá mua tháng 04 ở mức 6.250 NDT/tấn vào ngày đầu tuần. Nhưng giá có thể giao dịch thì thấp hơn mức nêu trên một chút.
Nguồn cung không còn hạn chế như 1 hay 2 tháng trước nữa. Sản xuất khôi phục và tăng cường hoạt động ở những tỉnh phía tây nam như Tứ Xuyên và Quý Châu do nguồn điện dồi dào khi khu vực này bước vào mùa mưa, trong khi mức nhập khẩu vẫn còn cao.
Giá có lẽ sẽ bị sức ép do sản lượng ở miền nam được dự báo sẽ tăng thêm bởi vì giá điện sẽ giảm vào cuối tháng này khi bớt áp lực về giá điện.
Tuy nhiên, những người mua giao ngay sẽ vẫn cần phải trả giá cao hơn một chút như cỡ 6.600 NDT/tấn để có được hàng giao ngay vì các nhà sản xuất đang tập trung vào cung cấp cho những hợp đồng dài hạn và giữ mức tồn kho thấp. “Chúng tôi nghe nói một vài nhà cung cấp có nhiều đơn hàng trong tay và vẫn chưa hoàn tất việc giao những hợp đồng tháng 03”, đại diện một nhà máy cho biết.
Song nhu cầu thép không gỉ vẫn chưa có tiến triển gì, các nhà máy vẫn đang sản xuất bình thường và thu mua ferrochrome như mọi khi. Một vài nhà máy nhỏ đang gặp khó khăn về sản xuất. Nhưng điều này sẽ không ảnh hưởng đến tổng sản lượng thép không gỉ của cả nước do các nhà máy lớn đang hoạt động rất suôn sẻ.
NSSMC một lần nữa duy trì giá thép dầm hình H cho tháng 04
Nippon Steel & Sumitomo Metal Corp thông báo hôm thứ Tư rằng công ty sẽ duy trì giá thép dầm hình H trong nước cho những hợp đồng tháng 04 (sản xuất tháng 05), vì cho rằng tình hình thị trường hiện tại không thuận lợi để nâng giá. Công ty đã duy trì giá không đổi trong 15 tháng liên tiếp.
NSSMC không tiết lộ giá niêm yết của mình nhưng giá trên thị trường hiện nay cho thép dầm hình H SS400 cỡ lớn ở Tokyo là khoảng 78. 000-79.000 Yên/tấn (650-658 USD/tấn), không đổi từ một tháng trước nhưng lại thấp hơn 1.000 Yên/tấn so với tháng 01.
Thép dầm hình H tồn kho tại các công ty con của NSSMC vào cuối tháng 03 không đổi so với cuối tháng 02 còn 217.800 tấn, nhưng tỷ lệ tồn kho lại giảm còn 2,66 tháng từ 2,69 tháng của tháng 02.
Tuy nhiên, NSSMC cho rằng mức tồn kho đủ là khoảng 2 tháng và mức hiện tại vẫn còn quá cao. “Nhưng lĩnh vực xây dựng không phải nhà ở như nhà kho, nhà máy và văn phòng có vẻ như đang gia tăng về nhu cầu và chúng tôi kỳ vọng sẽ có sự phục hồi”, phát ngôn viên NSSMC cho biết, thêm vào đó việc vận chuyển tới khách hàng trong tháng này sẽ tăng.
Đơn đặt hàng thép dầm hình H trong tháng 02 đạt 292.000 tấn, giảm 3,4% so với tháng 01 và 8,8% so với năm ngoái, theo Liên đoàn sắt thép Nhật Bản. NSSMC ước tính nhu cầu thép dầm hình H trong năm tài chính 2015 sẽ đạt khoảng 3,6 triệu tấn, không đổi so với năm ngoái.
Nhà cán lại Nippon Steel & Sumikin Shapes thuộc NSSMC ở Wakayama, cũng sẽ duy trì giá thép dầm hình H cho những hợp đồng tháng 04.
Định giá phôi thanh CIS
Platts định giá phôi thanh CIS tại mức 365 USD/tấn FOB Biển Đen trong ngày thứ tư, tăng 1 USD/tấn so với ngày trước đó.
Nguồn cung tháng 5 từ các nhà máy CIS vẫn có sẵn. Gía chào bán vẫn cao, đạt mức 380 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ và 390-395 USD/tấn CFR Bắc Phi. Một thương nhân cho biết giá 375 USD/tấn CFR hiện không có sẵn, ít nhất cũng phải là 380 USD/tấn CFR, tương đương mức 368 USD/tấn FOB. Một đơn hàng đã được chốt tại mức 365 USD/tấn FOB. Một nhà cán lại Thổ Nhĩ Kỳ cho biết một đơn hàng được chốt tại mức 375 USD/tấn CFR Aliaga, tương đương mức 362-363 USD/tấn FOB.
Platts định giá thép cây tại mức 365 USD/tấn FOB.
Gía phôi thanh tiếp tục tăng tại Thổ Nhĩ Kỳ cùng với giá phế
Gía phôi thanh nội địa và nhập khẩu vào Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục tăng cùng với giá phế nhập khẩu tăng trong mấy tuần gần đây mặc dù nhu cầu tiêu thụ vẫn thấp.
Gía chào phôi thanh từ CIS hiện tại đạt mức 380-390 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ tùy thuộc vào cảng nhập khẩu, tăng 5-10 USD/tấn so với tuần trước trong khi vài khách hàng Thổ Nhĩ Kỳ bắt đầu đặt mua phôi thanh CIS kể từ cuối tuần qua trong khi nguồn cung phôi thanh trong nước thiếu hụt.
Gía chào phôi thanh trong nước dao động khoảng 400-410 USD/tấn xuất xưởng trong mấy ngày qua. Nhà máy Kardemir dự báo sẽ bán lại phôi thanh trong tuần tới với giá cao hơn và có thể giúp nguồn cung tăng nhẹ trở lại.
Công ty này đã ngưng bán phôi thanh vào cuối tháng 3 sau khi nhận được 60.000 tấn trong 2 ngày trong khi phôi thanh Thổ Nhĩ Kỳ thiếu hụt. Gía bán phôi thanh chuẩn đạt mức 380-385 USD/tấn xuất xưởng.
Trong khi đó, phế HMS 1&2 nhập khẩu đạt mức 263-268 USD/tấn CFR kể từ tuần qua trong khi phế HMS từ xác tàu thuyền vỡ hiện được chào bán tới các nhà máy thép tây Thổ Nhĩ Kỳ (Ege Celik, Ozkanlar, IDC và Habas) tại mức 265 USD/tấn, tăng 5 USD/tấn so với tuần trước.
Mặc dù giá phế và phôi thanh tăng, các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ vẫn đang đối mặt với các khó khăn tiêu thụ trì trệ. Gía chào thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ vẫn ở mức 435-440 USD/tấn FOB trong ngày thứ tư.
Giá HRC Ấn Độ bình ổn; triển vọng nhu cầu ổn định
Giá HRC ở Ấn Độ vẫn không đổi, nhiều người đầy hy vọng về nhu cầu sắp tới sẽ ổn định vì năm tài chính mới vừa bắt đầu. Chào giá HRC IS 2062 A/B dày từ 3mm trở lên tiếp tục phổ biến khoảng 30.500-32.000 rupees/tấn (489-513 USD/tấn) xuất xưởng tuần này.
Nhu cầu yếu ớt hồi tháng 03 do người mua không muốn tích trữ thêm hàng khi sắp chốt sổ sách cho năm tài chính 2014, một thương nhân ở Mumbai giải thích. Ông hy vọng đơn đặt hàng sẽ nhiều hơn trong tháng này.
Các nhà sản xuất trong nước cũng giảm bớt sức ép từ thép nhập khẩu giá rẻ do chào giá nhập khẩu hiện cũng không giảm thêm. Các nhà nhập khẩu cho biết chào giá HRC loại thương phẩm S400 dày từ 3mm trở lên tuần này tiếp tục dao động quanh mức 365-375 USD/tấn FOB (400-410 USD/tấn CFR hay 24.975-25.595 rupees/tấn). Khoảng 20.000 tấn HRC của Trung Quốc được bán tới nhiều thương nhân Mumbai khác nhau trong tuần đầu tiên của tháng 04 có giá 395 USD/tấn CFR.
Tuy nhiên, các nhà nhập khẩu cho biết khối lượng nhập khẩu HRC Trung Quốc đã giảm trong hai tháng qua. Một nhà nhập khẩu Mumbai cho biết tiêu chuẩn chất lượng theo yêu cầu của chính phủ hiện đang được theo dõi sát sao và lô thép nhập khẩu nào không tuân thủ có thể bị cơ quan Hải quan từ chối và để nằm chờ ngoài cảng nhiều ngày.
Người mua rất thận trọng trong giao dịch với các nhà xuất khẩu Trung Quốc, những người mà có thể không có được giấy chứng nhận liên quan từ Cục Tiêu chuẩn Ấn Độ cho thép của họ. Thay vào đó, các loại thép tương tự từ Nhật Bản và Hàn Quốc hiện được ưa chuộng hơn, vì hầu hết các nhà máy đều có giấy chứng nhận BIS.
Một thương nhân ở Mumbai nghe nói tuần này có khoảng 30.000 tấn HRC của Nhật được giao dịch với giá 420 USD/tấn CFR, trong khi khoảng 25.000 tấn thép của Hàn Quốc được bán với giá 432 USD/tấn CFR, cả hai đều giao vào tháng 06.
Định giá HRC EU
Platts vẫn duy trì giá HRC Tây Bắc Âu bình ổn tại mức 407.50 Euro/tấn xuất xưởng Ruhr.
Gía tại Benelux đạt mức 400-410 Euro/tấn nhưng tại Đức là 405-410 Euro/tấn và 410-415 Euro/tấn. Platts cũng duy trì giá bình ổn.
Trong khi đó, giá chào từ Trung Quốc đạt mức 380-385 Euro/tấn CIF Antwerp nhưng không thu hút do thời gian giao hàng kéo dài.
Các thương nhân thép cây Mỹ hoãn đơn hàng do dự báo giá giảm
Gía chào thép cây vào Mỹ khá bình ổn kể từ giữa tháng 2, nhưng các thương nhân Mỹ tiếp tục dự thầu tại mức giá thấp hơn tới Thổ Nhĩ Kỳ và Nhật Bản.
Các thương nhân cho biết giá chào thép cây Thổ Nhĩ Kỳ và Nhật Bản hiện có sẵn tại mức 455-460 USD/tấn CFR Houston và còn thấp hơn đối với các đơn hàng lớn. Platts giảm giá thép cây hàng ngày xuống mức 452-463 USD/tấn CIF Houston trong ngày thứ tư, giảm từ mức 457-468 USD/tấn trong ngày thứ 3.
Một đơn hàng thép cây nhập khẩu từ Thổ Nhĩ Kỳ được chốt tại mức 453 USD/tấn CFR Houston. Một nhà phân phối cho biết giá chào nhập khẩu đã tăng 11-17 USD/tấn, vượt mức 485 USD/tấn giao bằng xe tải cuối tháng 5 đầu tháng 6.
Một thương nhân cho biết không trả quá mức 453 USD/tấn CFR Houston vào lúc này. Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ chào bán tại mức 450 USD/tấn CFR Houston hoặc cao hơn hoặc thấp hơn.
Mỹ đã nhập khẩu 285.957 tấn thép cây trong tháng 3 và 85.060 tấn trong tháng 4. Mặc dù vậy, các thương nhân trong nước không quá lo lắng về vấn đề nguồn cung do tiêu thụ thép cây vẫn khá tốt.
Một thương nhân khác cho biết một nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đang chào bán tại mức 447-448 USD/tấn CFR cảng Vịnh nhưng không sẵn sàng giảm giá nữa do nguy cơ chống bán phá giá. Trong khi đó, các thương nhân khác cho rằng giá phế có thể giảm, gây áp lực cho giá thép cây.
Do tỷ giá, Nhật Bản đã trở thành nguồn cung thu hút hơn. Gía chào thép cây Nhật Bản đạt mức 21.75 USD/tạ (479 USD/tấn) trong khi giá chào từ Thổ Nhĩ Kỳ gần mốc 22.25-22.5 USD/tạ (491-496 USD/tấn) giao bằng xe tải.
Giá HRC Thượng Hải đảo chiều sau hai ngày phục hồi
Thị trường HRC giao ngay ở Thượng Hải trở nên “èo uột” sau hai ngày phục hồi, do nhu cầu thực tế suy yếu đúng như những gì mà nhiều người đã dự báo. Các thương nhân tiếp tục giữ quan điểm bi quan về tương lai sắp tới.
Platts định giá HRC Q235 5.5mm ở Thượng Hải là 2.360-2.380 NDT/tấn (380-384 USD/tấn) xuất xưởng gồm 17% VAT hôm thứ Tư, giảm 10 NDT/tấn so với ngày trước đó.
Đầu ngày giao dịch hôm thứ Tư, giá giao ngay đã tăng 20 NDT/tấn nhưng bắt đầu đi xuống vào buổi chiều, sau khi hợp đồng HRC ở Thượng Hải và quặng sắt trên sàn Dalian giảm.
“Nhu cầu vẫn còn suy yếu và thật khó để bán ở mức giá cao. Chúng ta có lẽ sẽ thấy mức đáy chỉ 2.200 NDT/tấn”, một thương nhân ở Thượng Hải than phiền.
HRC Q235 5.5mm được sản xuất từ Yanshan Iron & Steel có giá 2.360 NDT/tấn xuất xưởng, còn từ Rizhao Iron & Steel và Benxi Iron & Steel thì giá lần lượt là 2.370 NDT/tấn và 2.380 NDT/tấn.
Tuy Wuhan Iron & Steel vẫn chưa thông báo giá niêm yết cho tháng 05 nhưng theo một nguồn tin thân cận cho biết công ty có lẽ sẽ giảm giá, vì giá hiện nay cao hơn so với mức giao ngay.
Thép cây Bắc Âu tăng theo giá phế dù sức mua vẫn thấp
Gía thép cây Châu Âu đã tăng trở lại trong tuần này theo sau giá phế tăng 15 Euro/tấn trong tháng 4. Các nguồn tin cho biết giá phế tăng là động lực duy nhất hỗ trợ giá thép cây vào thời điểm này do nhu cầu tiêu thụ vẫn thấp.
Gía giao dịch thép cây tại Đức hiện đạt mức 440-450 Euro/tấn đã tính phí giao hàng thực tế. Trong khi đó, các nhà máy Pháp chào bán tại mức 430-440 Euro/tấn đã tính phí giao hàng thực tế. Tuy nhiên, một nhà môi giới tại Pháp cho biết đã mua thép tại mức giá ngang với giá bán trực tiếp của các nhà máy cho khách hàng tiêu thụ cuối. Tình hình Q1 năm nay đã chậm lại so với năm trước và nhu cầu tiêu thụ trong tháng này vẫn trì trệ hơn cùng kỳ năm ngoái.
Một nhà môi giới Benelux cho biết đã nhận được giá chào bán tại mức 190 Euro/tấn giao ngay (440 Euro/tấn phí giao hàng thực tế) nhưng không đặt hàng do tiêu thụ trì trệ. Platts tăng giá thép cây hàng ngày thêm 5 Euro/tấn, đạt mức 417.50 Euro/tấn xuất xưởng Tây Bắc Âu.
Shougang khuyến cáo thua lỗ nặng do giá thép đi xuống
Shougang báo cáo khoản lỗ sơ bộ 250-350 triệu NDT (40,3-56,4 triệu USD) của quý 1 so với số tiền lãi ròng 4,5 triệu tấn đạt được vào cùng kỳ năm ngoái.
Shougang cho biết quý đầu tiên thua lỗ là do sức ép từ nền kinh tế trì trệ- điều này đã dẫn đến mức tiêu thụ thép thấp- và giá thép tiếp tục giảm. Nhà máy này sản xuất khoảng 8 triệu tấn thép thô mỗi năm và chủ yếu là các sản phẩm thép dẹt.
Platts định giá HRC Q235 5.5mm ở Thượng Hải giảm 525 NDT/tấn tức 17% so với đầu năm 2015 còn 2.500 NDT/tấn gồm with 17% VAT vào cuối tháng 03.
Do thị trường thép ảm đạm nên Shougang có lẽ không phải là nhà máy duy nhất báo cáo thua lỗ trong quý 1.
Nguồn tin từ một nhà máy khác cũng dự báo công ty ông sẽ công bố lỗ cho quý 1. Nhu cầu đã cải thiện nhẹ kể từ tháng 03 nhưng không đủ mạnh để khôi phục lợi nhuận của công ty.
Ông cũng vẫn còn bi quan về triển vọng thị trường thép trong nước quý này, vấn đề nghiêm trọng về nguồn cung dư thừa sẽ khiến cho bất kỳ sự phục hồi nào của giá cũng sẽ không đáng kể và ngắn ngủi.