Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 16/10/2014

TANAP thắp lên tia hy vọng cho thị trường thép cuộn Thổ Nhĩ Kỳ đang trên đà suy yếu

Mặc dù giá niêm yết HRC Thổ Nhĩ Kỳ vẫn ở mức 590-600 USD/tấn xuất xưởng tuần này, tuy nhiên, vài nguồn tin cho biết các giao dịch đa phần được chốt tại mức 585-590 USD/tấn xuất xưởng với chiết khấu, do sự suy yếu mạnh của đồng Lira và tình hình căng thẳng tại Syria do quân Hồi giáo IS tiếp tục làm suy yếu tâm lý thị trường.

Dựa vào giá phế nhập khẩu giảm trong bối cảnh tỷ giá dao động và nhu cầu tiêu thụ suy yếu, một trung tâm dịch vụ cho biết: rất khó để có thể duy trì giá hiện tại trong điều kiện như thế này. Các nhà máy đang dần tăng mức chiết khấu do sức mua suy yếu.

Giá chào nhập khẩu HRC giảm, đặc biệt là giá chào từ Trung Quốc cũng gây áp lực lên thị trường HRC Thổ Nhĩ Kỳ mặc dù chất lượng thấp. Gía chào từ các nhà môi giới hiện chỉ cao hơn giá xuất xưởng 15-20 USD/tấn.

Trong khi đó, giá chào từ Nga đạt mức 560-565 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ trong khi giá chào từ Ukraina là 545 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ.

Nhu cầu tiêu thụ tại thị trường thép cuộn cán nguội Thổ Nhĩ Kỳ cũng thấp trong tuần này. Dựa trên giá CRC từ các nhà máy đã giảm 5 USD/tấn còn 675-690 USD/tấn xuất xưởng trong khi giá chào xuất khẩu là 670-680 USD/tấn xuất xưởng.

Tuy nhiên, dự án đường ống dẫn khí xuyên Anatolian (TANAP) đã thắp lên tia hy vọng cho thị trường nội địa khi có 5 công ty thép Thổ Nhĩ Kỳ giành được quyền cung cấp 950.000 tấn thép ống cho dựán, mà điều này sẽ giúp tiêu thụ HRC trên thị trường.

TANAP dự báo sẽ giúp thúc đẩy công suất sản xuất thép dẹt trong nước trong những tháng tới từ mức 53% năm ngoái.

 

 

Giá NPI Trung Quốc trượt dốc cùng với niken trên sàn LME

Giá giao ngay của NPI chất lượng cao (10-15% Ni) ở Trung Quốc sụt giảm còn 1.150-1.180 NDT/nickel unit (187-192 USD/unit) trong ngày thứ Tư, gồm phí vận chuyển và VAT 17%, từ mức 1.230-1.250 NDT/nickel unit của ba tuần trước do giá niken trên sàn London Metal Exchange lún sâu hơn.

Giá niken trên sàn LME đã trượt tới mức thấp 6 tháng hồi đầu tháng 10. Hôm 14/10, giá giao dịch chính thức bằng tiền mặt của niken chốt ở mức 16.175-16.180 USD/tấn, giảm gần 1.000 USD/tấn so với ba tuần trước.

Giá NPI cũng bị sức ép từ nguồn cung dồi dào. “Sản lượng NPI đã tăng nhẹ. Không có nhiều vấn đề với nguồn cung quặng niken”, một nhà phân tích ở Bắc Kinh cho biết. Các nhà phân tích đã dự báo sản lượng NPI Trung Quốc sẽ bị hạn chế sau khi Indonesia cấm xuất khẩu quặng niken từ tháng 01 nhưng sự sụt giảm này không đáng kể do các nhà máy tăng cường nhập khẩu quặng niken từ Philippines.

Đại diện một nhà máy thép không gỉ ở miền đông cũng nhấn mạnh rằng tồn kho NPI trên thị trường bây giờ cao. “Nguồn hàng mà các nhà sản xuất đã tích trữ trước đây khi giá niken đang tăng (vào một năm trước) bây giờ đang được bán ra thị trường”.

Quan điểm khác nhau về xu hướng giá NPI trong ngắn hạn. Một số người thì cho rằng có sự hỗ trợ cho giá NPI vì các nhà sản xuất ở Nội Mông Cổ đã bị chính quyền địa phương yêu cầu đóng cửa hoặc cắt giảm sản lượng từ cuối tháng 10 cho đến đầu tháng 11 nhằm giảm bớt ô nhiễm trong suốt hội nghị thượng đỉnh APEC diễn ra ở Bắc Kinh vào đầu tháng tới.

Tuy nhiên, ông này cũng nói rằng sự ảnh hưởng của việc cắt giảm sản lượng ở Nội Mông Cổ sẽ không đáng kể do đây không phải là nơi có sản lượng lớn như các tỉnh Sơn Đông và Giang Tô. Giá NPI có lẽ sẽ giảm sâu hơn do giá kim loại niken không tăng, trong khi các nhà máy thép không gỉ có khả năng sẽ tiếp tục gây sức ép lên giá NPI do sức mua và giá thép không gỉ suy yếu.

 

Giá FeCr Trung Quốc giảm do các nhà máy thép không gỉ trả giá thấp hơn

 

Giá giao ngay trong nước của ferrochrome hàm lượng cacbon cao xuất xứ Trung Quốc (50% Cr) là 6.200-6.400 NDT/tấn (tương đương 76-79 cents/lb) trong ngày thứ tư, giảm từ mức 6.250-6.400 NDT/tấn của một tuần trước, sau khi các nhà sản xuất thép không gỉ chủ chốt hạ giá mua tháng 10 của họ xuống. Tuần trước, Shanxi Taigang Stainless Steel đã giảm giá mua xuống 50 NDT/tấn so với tháng 09 còn 6.150 NDT/tấn, còn Baosteel và Jiuquan Iron & Steel cũng đều giảm giá tháng 10 xuống 50 NDT/tấn còn 6.400 NDT/tấn.

Giá giao ngay cũng bị sức ép từ sự lao dốc của giá quặng chrome, ngoài ra sức mua cũng như giá trên thị trường thép không gỉ đều suy yếu, điều này đã khiến một số nhà sản xuất thép cắt giảm sản lượng.

Tuy nhiên, giá có lẽ sẽ được sự hậu thuẫn từ khả năng cắt giảm sản lượng ở trong nước do sự rớt giá mới đây nhất trong giá đặt mua hoặc sẽ “gậm nhắm” thêm vào biên lợi nhuận hoặc làm sâu hơn khoản lỗ của các nhà cung cấp ferrochrome. “Hoạt động sản xuất thậm chí đã trở nên khó khăn hơn sau khi giảm 50 NDT/tấn. Nhiều nhà cung cấp nguyên liệu không thể chịu đựng được nữa khi giá mua cứ liên tục giảm”, đại diện một nhà máy ở miền trung cho biết.

Cho dù nguồn cung bị hạn chế nhưng sẽ chỉ rõ ràng vào khoảng cuối tháng 10 khi mùa khô ở miền nam nước này đến gần. Các nhà sản xuất ở miền nam phụ thuộc vào thủy điện sẽ phải đối mặt với giá điện cao hơn khi mùa khô bắt đầu thường vào khoảng cuối tháng 10 và hầu hết sẽ đóng cửa hay giảm bớt sản lượng trong suốt thời gian này.

Giá giao ngay cũng được cho là sẽ theo xu hướng giá đặt mua tháng 11 và dự báo giá mua tháng sau hoặc không đổi hoặc sẽ thấp hơn so với tháng này.  

Taigang tiếp tục duy trì giá thép cuộn không gỉ trong nước

Shanxi Taigang Stainless Steel đã duy trì giá bán tháng 10 ở trong nước cho thép cuộn không gỉ, đây là tháng thứ 5 liên tiếp nhà máy này giữ giá không đổi.

Theo đó, giá niêm yết tháng 10 của Taigang cho thép cuộn/tấm cán nóng và thép cuộn/tấm cán nguội loại 304 3-12mm vẫn duy trì lần lượt tại 18.900 NDT/tấn (3.076 USD/tấn) và 19.900 NDT/tấn. Còn cuộn/tấm cán nguội loại 430 2B 2mm vẫn không đổi so với tháng trước và giữ ở mức 10.700 NDT/tấn.

Taigang đã và đang giữ giá thép không gỉ trong nước không đổi suốt vài tháng qua mặc dù giá niken dao động đã khiến giá thép cuộn không gỉ loại 304 giao ngay ở trong nước thấp hơn 4-6% so với tháng trước tới mức thấp 5 tháng trong tuần này.

Hồi cuối tháng 09, đối thủ cạnh tranh Baosteel cũng đã giảm giá bán tháng 10 ở trong nước cho thép cuộn không gỉ loại 300-series xuống 300 NDT/tấn do giá niken cùng với thép không gỉ giao ngay trên thị trường xuống thấp hơn.

Trước đó, Taigang đã khăng khăng rằng nhu cầu trên thị trường nội địa ổn định đối với công ty.

Không thể liên lạc để có thêm lời bình luận của đại diện Taigang.  

NSSMC sẽ tiếp tục giữ giá thép dầm hình H trong nước 

Nippon Steel & Sumitomo Metal Corp (NSSMC) đã quyết định sẽ duy trì giá thép dầm hình H ở trong nước cho những hợp đồng tháng 10. NSSMC đã và đang giữ giá thép dầm hình H sau đợt nâng giá lên 1.000 Yên/ tấn (9,3 USD/tấn) cho những hợp đồng tháng 01.

NSSMC không tiết lộ giá niêm yết của công ty nhưng các nguồn tin xác nhận giá trên thị trường hiện nay của thép dầm hình H cỡ lớn ở Tokyo là khoảng 82.000-83.000 Yên/ tấn (765-808 USD/tấn), tăng 1.000 Yên/ tấn so với tháng 09.

Trong một thông báo, nhà sản xuất thép lớn nhất Nhật Bản cho biết hoạt động kinh doanh trên thị trường thép dầm hình H đã cải thiện hồi tháng trước và nhiều nhà sản xuất lớn cũng đang thương lượng cho nguồn hàng cung cấp vào mùa hè tới. Nhu cầu thép dầm sẽ vẫn ổn định thêm một thời gian. “Nhưng vẫn còn một số điều không chắc chắn, chẳng hạn như chi phí tăng là hệ quả của đồng nội tệ suy yếu, vì vậy chúng tôi dự định sẽ dành thêm một tháng nữa để theo dõi thị trường và xác định sự ảnh hưởng. Sau đó chúng tôi sẽ bắt đầu tăng giá bán của mình”, phát ngôn viên NSSMC cho biết.

Công ty con của NSSMC là Nippon Steel & Sumikin Shapes nằm ở Wakayama, phía tây Nhật Bản, cũng sẽ giữ giá thép dầm hình H tháng 10 không đổi.

NSSMC thông báo hôm thứ Tư rằng trữ lượng thép dầm hình H tại các nhà tích trữ hồi cuối tháng 09 đã tăng 2.500 tấn tương đương 1,2% so với cuối tháng 08 lên 213.000 tấn.

Tổng lượng thép dầm hình H tồn kho hồi tháng trước tăng nhưng tỷ lệ hàng tồn lại giảm còn 2,28 tháng từ mức 2,45 của cuối tháng 08. “Tỷ lệ tồn kho đang khôi phục nhưng vẫn còn trên 2 tháng, đây là mức mà chúng tôi cho là đủ đáp ứng nhu cầu”, bà trao đổi với Platts.

Các đơn đặt hàng thép dầm hình H trong tháng 08 đạt 268.000 tấn, giảm 24% so với tháng 07 và 16% so với năm ngoái, theo Liên đoàn sắt thép Nhật Bản. “Nhu cầu thép dầm hình H đã chạm đáy hồi tháng 08. Nên chắc chắn là bây giờ cao hơn”, một nhà phân phối ở Tokyo nói. 

Giá phế khối lượng nhỏ Mỹ xuất khẩu sang Đài Loan bình ổn, phế khối lượng lớn trầm lắng

Giá phế khối lượng nhỏ xuất khẩu từ Mỹ sang Đài Loan vẫn bình ổn trong tuần này tại mức 300 USD/tấn CFR Đài Loan trong khi thị trường phế khối lượng lớn đi vào ngõ cụt.

Sau khi giảm 50 USD/tấn so với đầu tháng 9, giá phế khối lượng nhỏ tới Đài Loan đã bình ổn trong tuần trước và tiếp tục duy trì ổn định trong tuần này. Thị trường phế khối lượng lớn vẫn trầm lắng do các nhà máy Châu Á không sẵn sàng mua tại mức giá chào 350 USD/tấn CFR. Các nhà máy Hàn Quốc đặt mục tiêu mua tại mức giá dưới 340 USD/tấn CFR.

Một thương nhân Mỹ mô tả khoảng cách 50 USD/tấn giữa giá phế khối lượng nhỏ và khối lượng lớn hiện tại là quá lớn so với mức 20-25 USD/tấn thường lệ.

Nhu cầu tiêu thụ phế tại Châu Á thấp cộng với giá chào mua thấp nên doanh số bán tới Châu Á không cao.  

Platts vẫn duy trì giá xuất khẩu bình ổn tại mức 280 USD/tấn FAS cảng LA.

Trung Quốc: Thị trường thép tấm suy yếu, ngành đóng tàu vẫn còn u ám 

Khối lượng tàu mới được giao bởi các nhà máy đóng tàu Trung Quốc trong 9 tháng đầu năm nay giảm 15% so với năm ngoái đạt 26,06 triệu DWT, theo số liệu từ Bộ Công nghiệp và Công nghệ thông tin (MIIT). Tuy nhiên, đơn hàng còn tồn đọng của các nhà máy đóng tàu vào cuối tháng 09 chiếm khoảng 154,71 triệu dwt, tăng 36% so với năm ngoái và cũng cao hơn 18% so với cuối năm 2013.

9 tháng đầu năm nay, các đơn hàng mới mà nhà máy đóng tàu nhận được tăng 38% so với năm trước tương đương 52,49 triệu dwt.

Việc giao tàu mới sụt giảm trong năm nay được phản ánh thông qua nhu cầu dành cho thép tấm đóng tàu trì trệ. Giá thép tấm trong nước gần đây đã bình ổn chỉ bởi vì sự phục hồi của giá HRC đã giúp cải thiện tâm lý thị trường.

Không có tín hiệu nào cho thấy sự cải thiện từ những khách hàng tiêu dùng trực tiếp, giá thép tấm sẽ bắt đầu dao động ở mức thấp một lần nữa vào cuối tháng này. Hôm thứ Tư, thép tấm Q235 14-20mm được giao dịch phổ biến ở mức 2.930-2.960 NDT/tấn (478-483 USD/tấn) gồm VAT 17% ở Thượng Hải, giảm 20 NDT/tấn so với cuối tháng 09.

Theo các nguồn tin thị trường, thép tấm tồn kho tại 31 thành phố lớn đạt tổng cộng 1,1 triệu tấn hôm 10/10, giảm 1,24% so với tuần trước đó và vẫn còn thấp hơn 34% so với cùng kỳ năm ngoái.

Một thương nhân khác ở Thượng Hải cho biết thêm rằng mặc dù chiến dịch của Hà Bắc nhằm cải thiện chất lượng không khí cho Hội nghị thượng đỉnh APEC vào tháng tới ở Bắc Kinh có lẽ sẽ làm giảm bớt sản lượng thép nhưng không rõ là sẽ giảm được bao nhiêu. Quan trọng hơn là nhu cầu trực tiếp bị ảnh hưởng ra sao khi các công trình xây dựng cũng sẽ ngưng hoạt động. Nhìn chung, nhu cầu hiện tại không đủ mạnh để đẩy giá thép tấm đi lên. 

Sức mua co cụm do nỗ lực giảm hàng tồn

Người mua thép cuộn Mỹ đang  nỗ lực hết sức để cắt giảm hàng tồn trước thời điểm cuối năm, gây áp lực giảm giá lên thị trường.

Một thương nhân cho biết giá chào bán HRC hiện tại từ các thương nhân Midwest là 630-640 USD/tấn . Một trong các nhà cung cấp cho thương nhân này cho biết giá 640 USD/tấn là giá tốt nhất mà họ có thể cung cấp mặc dù Ông nghi ngờ rằng giá chào bán còn có thể giảm nhẹ nữa.

Tuy nhiên, trớ trêu thay là có vài người mua trong nước vẫn nhập khẩu mặc dù vẫn còn hàng trước các thông tin chống bán phá giá.

Một người mua tại Nam Mỹ cho biết giá  HRC đối với các lô hàng trên 2.000 tấn là 620 USD/tấn, với giá các lô hàng khối lượng nhỏ hơn là 630-640 USD/tấn. Ông cho biết thị trường đang gặp áp lực và dự báo doanh số bán hàng sẽ còn thấp do áp lực từ thị trường thế giới. 

Platts vẫn duy trì giá HRC và CRC lần lượt tịa mức 645-655 USD/tấn và 770-780 USD/tấn xuất xưởng Midwest.

Các nhà máy Nhật Bản chốt giá thép tấm đóng tàu từ tháng 04 đến tháng 09 

Các nhà máy thép liên hợp của Nhật và nhà máy đóng tàu trong nước cuối cùng đã thống nhất mức giá cho thép tấm đóng tàu từ tháng 04 đến tháng 09 (sẽ được sản xuất từ nửa năm trước đó). “Các nhà máy đóng tàu muốn giá được cắt giảm. Họ đang nhận được nhiều đơn đặt hàng đóng tàu hơn nhưng giá bán không tăng và tình hình tài chính không hồi phục”, đại diện Hiệp hội các nhà xuất khẩu tàu biển Nhật Bản cho biết.

Một thương nhân ở Tokyo cho biết các nhà máy liên hợp ban đầu đặt mục tiêu sẽ tăng thêm 5.000 Yên/tấn (46,6 USD/tấn) cho giá thép tấm đóng tàu từ tháng 04 đến tháng 09, vì cho rằng giá thép tấm của những hợp đồng dài hạn đã thấp hơn nhiều so với mức trên thị trường. Giá hợp đồng dài hạn phổ biến vẫn còn dưới 70.000 Yên/tấn (653 USD/tấn), một mức giá quá thấp đối với các nhà sản xuất thép.

Giá trên thị trường hiện nay của thép tấm loại SS400 dày 16-25mm, 1.524-3.048mm ở Tokyo là 84.000-86.000 Yên/tấn (784-802 USD/tấn).

“Chúng tôi nghe nói các nhà máy rất tích cực trong việc tăng giá nhưng các nhà máy đóng tàu cũng đang giữ thế chủ động. Họ cũng muốn được mua với giá giảm tương tự như các nhà sản xuất ô tô đã đạt được khi mua thép tấm làm ô tô”. Toyota Motor và Nippon Steel & Sumitomo Metal Corp (NSSMC) hồi tháng 08 đã thống nhất giảm 3.000 Yên/tấn cho thép tấm chế tạo ô tô từ tháng 04 đến tháng 09.

Đại diện JSEA cho biết các nhà máy đóng tàu đang nhận được nhiều đơn đặt hàng bởi vì Yên Nhật suy yếu hơn cho phép nhà máy trong nước có giá bán cạnh tranh hơn với những hợp đồng tính bằng đôla Mỹ. Tuy nhiên, các nhà máy cũng đang phải đối mặt với chi phí cao hơn và sẽ tiếp tục yêu cầu nhà cung cấp thép giảm giá cho nửa năm tới.

Phát ngôn viên của NSSMC cho biết giá quặng sắt và than đã giảm nhưng các chi phí khác như điện và nhiên liệu thì đang tăng do đồng Yên mất giá nên chỉ với hai yếu tố giảm thì không đủ bù đắp cho cái khác. “Về cơ bản chúng tôi dự kiến sẽ bù đắp chi phí cao hơn bằng cách tăng giá bán”. 

Erdemir tiếp tục cắt giảm giá mua phế

Nhà máy Erdemir tiếp tục giảm giá mua phế DKP trong nước xuống 20 TRY/tấn (9 USD/tấn) kể từ ngày 15/10, còn 815 TRY/tấn (360 USD/tấn) so đồng Lira suy yếu và giá phế nhập khẩu giảm trong mấy tuần qua.

Nhà máy Colaglu và Asil Celik đã giảm giá mua phế xuống 20 TRY/tấn (9 USD/tấn) trong ngày 11/10, còn 760 TRY/tấn (336 USD/tấn) và 780 TRY/tấn (345 USD/tấn) trong khi giá mua phế của nhà máy Kardemir là 850 TRY/tấn (375 USD/tấn) kể từ ngày 2/10.

Giá thu mua phế tàu theo đồng dolla của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ cũng giảm 5 USD/tấn trong ngày hôm qua. Gía phế nóng chảy từ xác tàu thuyền vỡ hiện được chào bán tới các nhà máy Tây Thổ Nhĩ Kỳ (IDC, Ege Celik và Ozkanlar) tại mức 345 USD/tấn trong khi gái mua phế tàu của Habas cũng giảm 5 USD/tấn, còn 350 USD/tấn.

Giá thép cuộn Châu Âu vẫn chống chọi trên thị trường

Giá thép cuộn Tây Bắc Âu vẫn bình ổn trong tuần này. Người mua có xu hướng chờ đợi thị trường trước khi đặt các lô hàng cho năm tới.

Giá HRC từ các nhà máy Tây Bắc Âu được chào bán tại mức 420-425 Euro/tấn xuất xưởng, không đổi so với tháng 9. Tuy nhiên, thị trường vẫn gặp nhiều áp lực do giá phế và quặng giảm, sức mua suy yếu. Gía HRC theo Platts vẫn cố định tại mức 422.5 Euro/tấn xuất xưởng Ruhr trong ngày hôm qua.

Một nhà tích trữ hàng hóa tin rằng áp lực giảm giá chỉ do tâm lý thị trường. Thị trường suy yếu tại Trung cộng với nền công nghiệp chậm chạp tại Đức đã gây áp lực lên thị trường.

Các thành viên thị trường dự báo tình hình thị trường sẽ tốt hơn vào tuần tới sau cuộc họp của các alnhx đạo tại sự kiện giao dịch lớn đối với các mặt hàng thép dẹt EuroBLECH ở Hannaover. Một trung tâm dịch vụ cho biết sau khi các nhà máy EuroBLECH sẽ đàm phán với ngành sản xuất xe hơi tại Đức  về việc vận chuyển thép cho năm tới.

Giá CRC tuần này đạt mức trung bình 490-510 Euro/tấn xuất xưởng. Platts giữ giá CRC bình ổn tại mức 490 Euro/tấn xuất xưởng Ruhr.

Giá HRC Ấn Độ ổn định do nhu cầu xây dựng trì trệ

Các nhà sản xuất thép Ấn Độ bắt buộc phải duy trì giá HRC trong nước vào tuần trước, do nhu cầu từ ngành xây dựng vẫn còn trì trệ, mặc dù đã kết thúc mùa mưa vào tháng trước. Vắng bóng sức mua cùng với nguồn hàng giá rẻ được nhập khẩu từ Trung Quốc, tiếp tục gây sức ép lên giá.

HRC IS 2062 loại A/B dày từ 3mm trở lên có mức giá giao dịch tiếp tục trung bình ở mức 34.500-35.500 rupees/tấn (562-578 USD/tấn) xuất xưởng, không đổi so với tuần trước. Mức giá này tương đương 523-538 USD/tấn CFR Mumbai nếu tính theo giá nhập khẩu, trong đó thuế suất nhập khẩu là 7.5% cho HRC từ hầu hết các nước.

“Nhu cầu HRC thấp bất ngờ trong tháng này do khủng hoảng tín dụng bởi vì các dự án cơ sở hạ tầng vẫn chưa bắt đầu. Hoạt động xây dựng thường cải thiện sau mùa mưa, vì đây là lúc những người làm thuê thường bắt đầu lên thành phố để làm việc.

Giá nhập khẩu của HRC xuất xứ Trung Quốc vẫn còn là một mối đe dọa đến giá HRC trong nước, mặc dù giá thép nhập khẩu từ nước này đã tăng.

Chào giá HRC loại thương phẩm SS400 xuất xứ Trung Quốc dày từ 3mm trở lên vẫn duy trì ở mức 505-510 USD/tấn FOB (tương đương 545-550 USD/tấn CFR Mumbai, hay 34.002-33.758 rupees/tấn). Mức giá này cao hơn so với chào giá 515-520 USD/tấn CFR Mumbai cho thép cuộn của Trung Quốc hồi tuần trước. “Thường thì trong suốt mùa này, chúng tôi sẽ tăng giá trong nước, nhưng năm nay không thể làm như vậy vì sức ép từ hàng nhập khẩu giá rẻ của Trung Quốc”, đại diện một nhà máy ở Mumbai cho biết. 

Giá cuộn trơn Trung Quốc tăng 

Chào giá xuất khẩu Trung Quốc cho cuộn trơn tăng cùng với đà phục hồi của quặng sắt và phôi thanh. Đà tăng cũng liên quan tới những quan ngại về sản lượng hạn chế trong suốt hội nghị Hợp tác Kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương (APEC)  sắp tới ở Bắc Kinh. Platts định giá cuộn trơn SAE1008 đường kính 6.5mm xuất xứ Trung Quốc là 420-425 USD/tấn FOB hôm 15/10, tăng 5 USD/tấn so với tuần trước.

Các nhà máy lower-tier, phần lớn nằm ở tỉnh Hà Bắc, đã phản hồi lại nhanh nhất với sự phục hồi của giá  nguyên liệu và thị trường thép kể từ sau lễ. Một vài nhà máy đã tăng giá thép dây xuất xưởng hàng ngày ở trong nước thêm 20-30 NDT/tấn (3-5 USD/tấn) từ cuối tuần trước, như vậy giá đã tăng tổng cộng khoảng 100 NDT/tấn so với mức trước lễ.

Hôm thứ Tư, cuộn trơn Q195 đường kính 6.5mm ở Thượng Hải được chốt ở mức 2.830-2.840 NDT/tấn (462-465 USD/tấn) gồm VAT 17%, tăng 50 NDT/tấn so với tuần trước.

Jiujiang Wire Rod, một nhà cung cấp cuộn trơn lớn ở Hà Bắc và là một nhà xuất khẩu tích cực, đã tăng giá bán trong nước hàng tuần lên đáng kể 120 NDT/tấn. Một thương nhân khác ở miền đông cho biết điều này có nghĩa là công ty ông phải nâng giá xuất khẩu lên tương đương ít nhất là 441 USD/tấn FOB, so với mức giá 425 USD/tấn FOB của thứ Tư tuần trước.

Các thương nhân cũng đang chào bán cuộn trơn được sản xuất từ một nhà máy low-tier khác với giá khoảng 432-437 USD/tấn FOB, tăng từ 420 USD/tấn FOB, là mức giá sàn của ngày thứ Tư.

Tuần trước, người mua ít quan tâm đặt mua ở mức giá 425 USD/tấn FOB do nghe nói có chào giá thấp song song chỉ khoảng 425-430 USD/tấn FOB Việt Nam (trong đó phí vận chuyển cỡ 12-13 USD/tấn). Nhưng ông ám chỉ rằng trong bối cảnh hội nghị thượng đỉnh APEC, chào giá thấp hơn có khả năng sẽ biến mất.

Hiện nay, chào giá từ các nhà sản xuất lớn thậm chí còn cạnh tranh hơn, nơi giá thay đổi ít thường xuyên hơn so với những nhà máy nhỏ, với mức thấp nhất nghe nói khoảng 420-425 USD/tấn, cũng có một vài nhà máy niêm yết tầm 430-435 USD/tấn FOB.

Mặc dù giá tăng nhưng hoạt động thu mua vẫn còn chậm chạp sau lễ. Các khách hàng ở Đông Nam Á sẽ chỉ có thể chấp nhận mức giá 425 USD/tấn FOB, sau khi giá của Trung Quốc tăng. Các hợp đồng được thực hiện hồi cuối tháng 09 ở khoảng 415-420 USD/tấn FOB. 

 Giá giao dịch phôi thanh CIS chạm đáy

Các nguồn tin cho biết nhiều đơn hàng phôi thanh xuất khẩu CIS đã được chốt tại mức thấp 460-465 USD/tấn FOB Biển Đen giao tháng 11, tuy nhiên, tất cả đều đồng tình rằng thị trường đã chạm đáy và mức giá này sẽ không xuất hiện nhiều trên thị trường nữa.

Một nhà máy Ukraina cho biết đã bán phôi thanh tại mức 460 USD/tấn FOB Sri Lanka (500 USD/tấn CFR) và Thổ Nhĩ Kỳ (477 USD/tấn) CFR Aliaga trong khi nhà máy khác tại Ukraina bán tại mức 465 USD/tấn FOB. Một thương nhân cho biết giá bán từ nhà máy BMZ là 460 USD/tấn FOB Biển Đen thanh toán trước.

Trong khi phần lớn các nhà máy tiếp tục chào bán ở mức cao hơn 15-20 USD/tấn so với giá 460 USD/tấn FOB Biển Đen thì những nhà máy gặp nhiều áp lực bán hàng vẫn chỉ chào ở mức 465 USD/tấn FPB Biển Đen.

Trong khi đó, việc thiếu giá chào cạnh tranh từ Trung Quốc là một tín hiệu cho thấy giá đã chạm đáy và sẽ tăng nhẹ trong những tuần tới.

Platts định giá phôi thanh theo ngày FOB Biển Đen tại mức 470 USD/tấn FOB Biển Đen.