Giá xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ ổn định trong bối cảnh thị trường im ắng
Giá xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ ổn định tuần này do người mua và bán vẫn ở yên vị trí của mình trong bối cảnh xu hướng giá ngắn hạn chưa rõ ràng. Giá chào bán ở mức 600-615 USD/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ. Một nhà máy lớn chào bán 595 USD/tấn FOB Marmara. Cùng thời điểm, giá chào mua 580-590 USD/tấn FOB.
Thị trường chờ đợi các đơn hàng phế mới sau giai đoạn im ắng. Vài nguồn tin chờ biết các thông tin chi tiết và thời gian chính thức Mỹ áp dụng thuế nhập khẩu 25%.
Theo một thương nhân, tác động ngắn hạn của chính sách thuế quan có thể không nhiều thiệt hại như dự báo ban đầu. Dự báo giá thép cây nội địa tăng ít nhất 20-30 USD/tấn mỗi tháng sau khi chính sách Trump có hiệu lực.
Một nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ ước tính xuất khẩu thép cây tới Mỹ cho tới nay đạt tổng cộng 200.000 tấn so với mức 670.000 tấn toàn năm 2017. Hoạt động xuất khẩu suy yếu trong tháng trước nhưng khối lượng cao trước đó buộc các nhà máy phải điều chỉnh.
Vấn đề là Mexico. Họ muốn bán sang Mỹ do lợi nhuận cao nhất và được miễn thuế. Điều này cho thấy Thổ Nhĩ Kỳ khó cạnh tranh hơn với chính sách thuế quan cộng với thuế AD/CV hiện tại 8.68-21.6% so với mức 20% thuế AD áp dụng cho Mexico.
NSSMC vẫn duy trì giá thép dầm hình H nội địa
Nippon Steel & Sumitomo Metal Corp (NSSMC) sẽ duy trì giá thép dầm hình H hợp đồng tháng 3 để chờ cho mức tăng mới được thị trường chấp nhận. Chi nhánh của NSSMC là Nippon Steel & Sumikin Shapes cũng giữ giá cho tháng 3.
NSSMC không công bố giá niêm yết nhưng giá hiện tại cho thép dầm hình H cỡ lớn ở Tokyo là 83.000-84.000 Yên/tấn (779-789 USD/tấn), không đổi so với tháng trước. NSSMC đã tăng tổng cộng 8.000 Yên/tấn kể từ tháng 12.
Một nhà phân phối Tokyo cho hay mức tăng mới vẫn chưa được thị trường chấp nhận. Các nhà máy đã tăng mạnh giá hồi tháng 12-tháng 2 nhưng giá thị trường hiện chỉ tăng 5.000 Yên/tấn.
NSSMC cho biết tiêu thụ thép dầm hình H dự báo ổn định nên cung và cầu sẽ cân bằng. Vẫn là mùa tiêu thụ thấp điểm ở Nhật nhưng tiêu thụ thép dầm H tăng sẽ đến nhanh hơn trong năm nay.
Các nhà máy sẽ giữ nguồn cung ổn định để các nhà phân phối có thể chấp nhận giá tăng mới.
Tồn kho thép dầm hình H của tập đoàn Tokiwakai thuộc NSSMC cuối tháng 2 đạt tổng cộng 196.100 tấn, tăng 6.2% so với tháng 1 nhưng giảm 1.8% so với cùng kỳ năm ngoái. Một thương nhân ở Tokyo cho hay tồn kho đã tăng từ cuối tháng 1 nhưng tiêu thụ dự báo tăng.
Kyoei Steel tăng giá thép cây tháng 4
Kyoei Steel cho biết sẽ tăng giá thép cây tháng 4 thêm 3.000 yên/tấn (28 USD/tấn) do chi phí thay đổi từ năm tài chính tính từ tháng 4.
Nhà máy Kyoei cho hay giá thép cây nội địa đang tăng nhưng không nhanh bằng giá thế giới hay các loại khác ở Nhật. Chi phí đầu vào như điện cực, hợp kim, tẩy gỉ và phí vận tải tăng từ tháng 4 là lý do cần tăng giá.
Một thương nhân Tokyo cho rằng các nhà máy mini đã có ý định tăng giá từ tháng 4 nhưng mức này chưa đủ và sẽ tiếp tục tăng để bảo toàn lợi nhuận. Tiêu thụ thép xây dựng suy yếu trong tháng 4-tháng 6 dựa vào công trình xây dựng bị trì trệ. Tồn kho cần phải giảm để giá mới được chấp nhận vì vậy các nhà máy cần giới hạn cung để thắt chặt thị trường.
Kanto Steel cho biết sẽ ngưng chào bán trong giai đoạn 12-23/3 trong khi xem xét giá nguyên liệu thô và chi phí đầu vào.
Kyoei không tiết lộ giá niên yết nhưng giá hiện tại cho thép cây cỡ cơ bản ở Osaka tầm 66.000-67.000 yên/tấn (620-629 USD/tấn) và ở Tokyo ở mức 70.000-71.000 Yên/tấn (657-667 USD/tấn), không đổi so với tháng trước.
Bộ đất đai, cơ sở hạ tầng và giao thông (MLIT) dự báo tiêu thụ thép thanh nhỏ từ ngành xây dựng trong tháng 4 sẽ giảm 9% so với cùng kỳ năm ngoái và 12.5% so với tháng 3 xuống 560.000 tấn.
Giá thép cây nội địa Thổ Nhĩ Kỳ tăng, xuất khẩu vẫn chậm
Giá thép cây nội địa Thổ Nhĩ Kỳ tính theo đồng Lira tăng nhờ đồng tiền này suy yếu trong khi giá tính theo đồng dolla vẫn không đổi. Tiêu thụ trong nước mạnh và giá phế cũng tăng, nhưng xuất khẩu tiếp tục hạn chế ở mức giá chào hiện tại.
Nhà máy Izmir Demir Celik (IDC) tăng giá niêm yết thép cây thêm 25 Lira/tấn (6.40 USD/tấn), tăng lần thứ hai trong 1 tuần.
Giá của công ty cho loại 12-32mm tăng lên 2.825 Lira/tấn xuất xưởng còn loại 10mm tăng lên 2.840 Lira/tấn xuất xưởng trong khi loại 8mm đạt 2.855 Lira/tấn xuất xưởng. Giá trên đã tính VAT 18%.
Vài nhà máy khác như Kardemir, Bastug Metalurj vẫn chưa bán lại. Họ cũng dự báo sẽ tăng giá bán trong vài ngày tới.
Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ vẫn duy trì giá chào xuất khẩu trên mức 600 USD/tấn FOB nhờ tiêu thụ và giá trong nước mạnh. Tuy nhiên, các khách hàng xuất khẩu từ chối giá chào này và yêu cầu chiết khấu.
Một nhà máy cho biết, thị trường nội địa mạnh nhưng thị trường xuất khẩu im ắng. Dù vậy, dự báo giá không dưới 590 USD/tấn FOB trong ngắn hạn do giá phế vẫn mạnh.
Trong khi đó, vài nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ tăng giá thu mua phế DKP trong khi giá nhập khẩu phế mạnh và đồng Lira giảm.
Nhà máy Clakoglu bắt đầu mua phế DKP ở mức 1.500 lira/tấn (385 USD/tấn) trong khi nhà máy Asil Celik tăng giá mua phế thêm 60 Lira/tấn (15.40 USD/tấn ) lên 1.480 lira/tấn (380 USD/tấn).
Kardemir tăng giá gang thỏi, giá nhập khẩu cũng tăng
Nhà máy Kardemir tăng giá gang thỏi dựa vào chi phí nguyên liệu thô tăng và giá chào nhập khẩu tăng.
Kardemir tăng giá gang đúc thêm 60 Lira/tấn (15 USD/tấn) lên 1.635-1.670 Lira/tấn (420-430 USD/tấn) xuất xưởng trong khi giá gang luyện thép tăng cùng mức lên 1.550-1.585 Lira/tấn (398-408 USD/tấn) xuất xưởng.
Giá xuất khẩu gang thỏi CIS cũng tăng lên 632.50 USD/tấn FOB Biển Đen trong mấy ngày gần đây.
Khối lượng gang thỏi nhập khẩu vào Thổ Nhĩ Kỳ tăng mạnh trong tháng đầu năm. Nhập khẩu tháng 1 tăng gấp 3 so với cùng kỳ năm ngoái lên 182.578 tấn và tăng 112% so với tháng 12/2017.
Thổ Nhĩ Kỳ cũng nhập khẩu 9.075 tấn gang thỏi từ Braxin trong tháng đó, trong khi nhập khẩu từ Nam Phi đạt tổng cộng 9.000 tấn.
Giá HRC Mỹ ổn định trong bối cảnh nguồn cung hạn chế
Giá HRC Mỹ tiếp tục ổn định hôm thứ năm trong bối cảnh không có nhiều chào giá giao ngay.
Một trung tâm dịch vụ cho hay giá HRC giao ngay tầm 840-850 USD/tấn nhưng dự báo các nhà máy sẽ mở cửa nhận đơn hàng tháng 5 ở mức 900 USD/tấn.
Tổng thống Trump đã ký vào chính sách mới áp dụng 25% thuế quan cho thép nhập khẩu kể từ 23/3. Trong khi Nhà Trắng trước đó đã thảo luận về phạm vi áp thuế là tất cả cá các nước thì hiện tại Canada và Mexico được miễn thuế. Tổng thống Trump có nói rằng đang làm việc với Úc về thỏa thuận miễn thuế và các nước khác, khiến thị trường bất ổn.
Một nguồn tin cho hay HRC giao ngay đang ở mức 580 USD/tấn trong tuần này nhưng có vài khách hàng để khách hàng chấp nhận giá. Một trung tâm dịch vụ cho hay giá đang có xu hướng di chuyển về 900 USD/tấn nhưng không chắc sẽ tăng bao nhiêu.
Chính sách thuế quan đã hỗ trợ tiêu thụ cuối tăng nhưng cũng hạn chế giao dịch vì giá cao. Với thời gian giao hàng và tiêu thụ mạnh, các nhà máy Mỹ không đàm phán về giá.
Người mua cho biết vẫn chưa thấy bất cứ giá chào nhập khẩu nào trong tuần này do các thương nhân vẫn chờ đợi chính sách thuế quan có hiệu lực.
Giá xuất khẩu HRC Trung Quốc ổn định trong bối cảnh sức mua suy yếu
Giá xuất khẩu HRC Trung Quốc phần lớn ổn định trong ngày thứ năm do các nhà máy giữ giá chào bán.
Một giao dịch chốt tuần này cho đơn hàng 5.000 tấn tấm cán nóng ở mức 605 USD/tấn CFR Việt Nam giao cuối tháng 5. Đối với loại SS400, giá chào thấp nhất vẫn ở mức 595 USD/tấn FOB Trung Quốc giao tháng 4. Giá CFR Việt Nam tầm 610 USD/tấn cho cùng loại.
Đối với loại SAE, giao dịch chậm chạp sau khi Formosa Hà Tĩnh công bố giá. Một chào giá được nghe ở mức 640 USD/tấn FOB Trung Quốc giao tháng 5. Tuy nhiên, không có giá chào mua hay giao dịch nào được nghe.
Giá HRC nội địa Trung Quốc vẫn ổn định trong bối cảnh giao dịch trầm lắng.
Giá HRC nội địa Trung Quốc tăng 10 NDT/tấn lên 3.970-3.990 NDT/tấn (628-631 USD/tấn) xuất xưởng có thuế.
Tại sàn giao kỳ hạn, hợp đồng HRC giao tháng 5 chốt tăng 6 NDT/tấn lên 3.862 NDT/tấn.
Giá xuất khẩu thép cây Trung Quốc ổn định trong bối cảnh triển vọng thị trường bất ổn
Giá xuất khẩu thép cây Trung Quốc ổn định vào hôm qua trong bối cảnh vài người bán tăng giá chào dựa vào thị trường nội địa mạnh còn người mua do dự vì xu hướng thị trường chưa rõ
Tại thị trường Bắc Kinh, giá giao ngay thép cây HRB400 đường kính 18-25mm tăng 50 NDT/tấn so với thứ tư lên 4.070-4.080 NDT/tấn (641-643 USD/tấn) xuất xưởng có thuế VAT 17%.
Vài người bán giữ giá chào bán không đổi trong khi số khác tăng giá chào sau số liệu tồn kho được công bố hôm thứ năm cho thấy đà tăng đã chậm lại kể từ tuần trước.
Nhiều nhà môi giới cho hay tồn kho thép cây tại Trung Quốc cao và số liệu 1 tuần cho thấy mức tồn kho chậm lại nhưng chưa thể thúc đẩy sự phục hồi về giá. Họ cần xem xét số liệu 1 hay 2 tuần tới và dự báo xu hướng giá sẽ rõ ràng hơn từ cuối tháng 3.
Tại Singapore, giá chào thấp nhất ở mức ổn định 570 USD/tấn CFR cho loại 10-40mm giao tháng 4 nhưng nghe đó là bán khống, tương đương 570-572 USD/tấn FOB Trung Quốc.
Một nhà chế tạo thép ở Singapore cho hay không nhận được chào giá nào ngoài bán khống. Nếu các nhà máy chào giá thì khả năng tầm 580 USD/tấn CFR, tăng 5 USD/tấn. Chào giá theo một thương nhân miền đông Trung Quốc cho rằng đã tăng 5-10 USD/tấn lên 580-590 USD/tấn CFR cho loại 10-40mm. Một nhà môi giới cho hay vẫn giữ giá chào mua ở mức 550 USD/tấn CFR.
Tại Hồng Kông, chào giá cạnh tranh nhất là thép cây 10-40mm Qatari ở mức 570 USD/tấn CFR trọng lượng thực tế giao tháng 4, không đổi so với hôm thứ tư. Các nhà môi giới cho hay giá mua vẫn ổn định ở mức 550 USD/tấn CFR.