Khách hàng thép dẹt chờ giá chào mới sang Thổ Nhĩ Kỳ
Tuần trước, các đơn đặt mua thép cán dẹt tại Thổ Nhĩ Kỳ giảm xuống nhưng giới thương nhân cho biết khách hàng đã sẳn sàng đặt mua thép sản xuất tháng 06 và tháng 07. Hiện họ đang chờ các nhà nhập khẩu chào giá để nhận biết xu hướng thị trường trước khi đặt mua các sản xuất tháng 08.
HRC tháng 08 hiện được các nhà sản xuất nội địa chào bán với giá 770-800 USD/tấn, còn giá chào từ Nga là 740-755 USD/tấn cfr. Hồi đầu tháng 05, các nhà sản xuất trong nước bán loại nguyên liệu này với giá 740-770 USD/tấn, còn giá chào cuối tháng 04 từ các nhà cung cấp Nga là 690-710 USD/tấn cfr.
Các nhà sản xuất Thổ Nhĩ Kỳ đã điều chỉnh các đơn đặt mua vào tuần trước với giá 770-790 USD/tấn.
Giá chào bán từ các nhà sản xuất nội địa cao hơn cho thấy nhiều khả năng khách hàng sẽ quay sang dùng hàng nhập khẩu, một thương nhân trong khu vực nói. Các nhà tái xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ và các nhà sản xuất thép ống đang được chính phủ nước này miễn thuế nhập khẩu HRC 9% do đó các nhà sản xuất nội địa nên tránh việc tăng giá quá cao, một thương nhân nói.
Xuất khẩu tháng 03 của Mỹ đạt đỉnh 1 triệu tấn
Xuất khẩu của Mỹ trong tháng 03 đạt 1 triệu tấn, trong gần một năm nay đây là lần đầu tiên khối lượng xuất khẩu tăng vọt diễn ra tại nước này.
Tổng xuất khẩu trong tháng 03 đạt 1,03 triệu tấn, tăng 19% so với 863.000 tấn sản lượng xuất khẩu tháng 02. Thời điểm cuối mà xuất khẩu đạt đỉnh 1 triệu tấn là vào tháng 04 năm 2010 cũng chốt ở con số 1,03 triệu tấn.
Mỹ xuất khẩu sang hai thị trường Canada và Mexico với sản lượng lần lượt là 546.00 tấn và 233.000 tấn, tăng 13% và 10%.
Sản lượng xuất khẩu của Mỹ sang Đài Loan trong tháng 03 là 53.800 tấn, tăng gần như một nửa so với con số 21.400 tấn tháng 02.
Trong đó, tổng sản lượng xuất khẩu thép tấm trong tháng 03 đạt 107.300 tấn, thép tấm mạ kẽm nhúng nóng là 103.000 tấn còn thép kết loại nặng đạt 80.300 tấn.
Giá phôi Ấn Độ dao động với biên độ hẹp, nhu cầu yếu
Giá phôi thanh từ các nhà sản xuất tuyến hai tiếp tục dao động quanh ngưỡng 200-400 Rs/tấn (4-9 USD/tấn) trong 02 tuần qua tại thị trường nội địa Ấn Độ trong khi sức mua chưa thể bật tăng trở lại. Các nhà sản xuất tuyến hai hiện đang bán phôi 100x100mm với giá 29.500-31.500 Rs/tấn (657-701 USD/tấn) xuất xưởng.
“Thị trường rất khó đoán vì giá lên-xuống hàng ngày dù chỉ là với biên độ hẹp,” dẫn lời một thương nhân Gujarat cho hay. “Các nhà sản xuất đang nỗ lực điều chỉnh giá phù hợp với cả người mua hàng lẫn nhà cung cấp,” người này nói thêm.
Sự bất ổn trên thị trường khiến giới thương nhân hạn chế gom hàng dự trữ. “Hầu hết chỉ muốn mua với số lượng nhỏ vì rất khó để dự đoán xu hướng giá,” một nhà sản xuất ở Mumbai nói.
Trong khi đó, các nhà sản xuất tuyến một như Steel Authority of India (Sail) và Rashtriya Ispat Nigam Ltd (RINL) đã giữ nguyên giá phôi không đổi trong tháng 05 này. Dù Sail chưa công bố giá phôi nhưng RINL vẫn chào bán phôi 125x125mm tại Visakhapatnam thuộc Andhra Pradesh ở phía nam Ấn Độ với giá 35.200 Rs/tấn đã bao gồm thuế tiêu thụ đặc biệt 10,3% nhưng chưa tính VAT. Mức giá này được áp dụng kể từ ngày 01/02.
Hầu hết các nhà sản xuất cho rằng nhu cầu sẽ tăng trong vài tuần tới vì khả năng các nhà cán lại đã dùng gần hết phôi dự trữ nên sẽ sớm quay lại thị trường. “Sau khi tạm ngưng thu mua trong 03-04 tháng qua, hầu hết các nhà cán lại còn phôi dự trữ không nhiều nên chúng tôi dự đoán nhu cầu sẽ cải thiện trong thời gian tới. Đồng thời giá cũng sẽ hướng lên cùng với nhu cầu,” một nhà sản xuất ở Chennai nói.
Giá thanh vằn Iran tiếp tục tăng
Giá thanh vằn tại thị trường nội địa Iran tiếp tục theo xu hướng tăng của tuần rồi. Trong giao dịch gần đây tại sàn Mercantile Exchange (IME) trực thuộc Iran, 36.000 tấn thép thanh vằn từ nhà sản xuất Khorasan Steel được giao dịch với giá 7,85 triệu IRR/tấn (654 USD/tấn), xuất xưởng, tăng 1,2% so với các giao dịch trước đó.
Đà tăng này có thể tiếp tục trong hai tuần tới, theo lời một nhà tham gia thị trường. Đồng tiền ở Iran suy yếu hơn so với USD tuần trước và hiện các nhà sản xuất cán lại phải trả 7,1 triệu IRR/ tấn (676 USD/tấn) thuế nhập khẩu phôi từ các cảng ơ khu vực phía bắc Iran. Mức thuế này đã tăng 7% so với mức của hai tuần trước đó. Tuy nhiên, hầu hết thương nhân phôi vẫn duy trì cho giá không tăng lên nữa.
Tại thị trường tự do ở Tehran và các thành phố lớn khác trong nước. Thép cây A3 dày 12mm được chào bán với giá dao động từ 8,35 triệu IRR/tấn đến 8,6 triệu IRR/tấn (717 USD/tấn). So với hai tuần trước giá đã tăng 2-3%.
Một thương nhân khẳng định, lượng tiêu thụ từ người dùng cuối cùng vẫn còn ở mức thấp đồng thời mức giá tăng hiện tại có thể đi xuống do chi phí sản xuất tăng cao cộng với tiền tệ Iran suy yếu.
Thị trường thép thanh thương phẩm tăng mạnh tại Thổ Nhĩ Kỳ
Giá thép thanh thương phẩm nội địa Thổ Nhĩ Kỳ được cho là đã tăng lên 1.280-1.290 TRL /tấn (807-814 USD/tấn) xuất xưởng, từ mức giá 1.190 TRL/tấn cuối tháng 04, chưa tính thuế VAT 18%. Giới thương nhân cho biết nhu cầu tại thị trường nội địa tăng mạnh kể từ đầu tháng này.
Giá chào xuất khẩu từ Thổ Nhĩ Kỳ đối với thép thanh thương phẩm hiện đang ở khoảng 750-770 USD/tấn fob. Dù các nhà sản xuất đã nỗ lực chạm mức giá 770 USD/tấn fob vào đầu tháng 05 nhưng các giao dịch hiện tại chỉ 750 USD/tấn fob mà thôi. Khách hàng từ Các Nước Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất và từ Bắc Phi đang tiến hành đặt mua thép từ Thổ Nhĩ Kỳ. Tuy nhiên, họ chưa thỏa thuận được giá cả với các nhà cung cấp.
Cho đến cuối tháng 05 này, nhu cầu thép thanh thương phẩm tại thị trường nội địa có thể chậm lại và thị trường xuất khẩu cũng roi vào thế tương tự do giá tăng phi mã trong những tuần vừa rồi. Điều này có thể khiến khách hàng thận trọng hơn với quyết định đặt mua.
Thị trường thép tấm Italy tiếp cận bước ngoặc mới
Giá thép tấm tiêu chuẩn hàng hóa tại thị trường nội địa Italy giảm nhẹ so với hai tuần trước do nhu cầu thấp, tuy nhiên có thể hồi phục nhẹ trong vài tuần tới do các nhà sản xuất nỗ lực đẩy mạnh nhu cầu tái tích trữ hàng tồn.
Nhất là khi các nhà sản xuất cán lại hiện đang chào bán thép tấm tiêu chuẩn hàng hóa loại S235 với giá 600-630 EUR/tấn (855-898 USD/tấn), xuất xưởng, giảm 50-90 EUR/tấn so với mức giá cao hơn quý I mà nhà sản xuất đặt ra. Các nhà sản xuất dự tính thông báo tăng nhẹ 10-20 EUR/tấn đối với thép tấm hàng hóa trước khi hoạt động tái tích trữ hàng tồn xảy ra.
“ thị trường vẫn chờ lực mua từ các nhà đầu cơ hồi phục, cho tới thời điểm này lực cầu vẫn chưa có dấu hiệu chuyển biến gì, tuy nhiên, lượng tồn của người mua thấp đồng nghĩa với chúng tôi đang tiến gần tới một bước ngặc mới trên thị trường thép tấm”, một thương nhân cho hay.
Sự tăng trưởng mạnh mẽ của đồng USD so với EUR khả năng hỗ trợ nỗ lực động thái nâng giá nhẹ của các nhà sản xuất vì việc nhập khẩu từ CIS và Ấn Độ ít có tính cạnh tranh hơn.
Nhu cầu cuộn trơn Thổ Nhĩ Kỳ tăng mạnh
Giá xuất khẩu cuộn trơn Thổ Nhĩ Kỳ đã tiến về vùng 730-770 USD/tấn từ 700-710 cuối tháng 04. Nhu cầu tại thị trường nội địa cũng như xuất khẩu đều tăng mạnh và hầu hết các nhà sản xuất đã chốt lời đối với các đơn đặt mua tháng 05 và tháng 06.
Trong vài tuần tới, một số nhà máy sẽ cắt giảm sản xuất nhằm đảm bảo kế hoạch bảo trì nhà xưởng. Như vậy, điều này có thể sẽ ảnh hưởng đến nguồn cung do đó giá có thể sẽ được đẩy lên cao trong vài tuần tới.
“Thị trường cuộn trơn hoạt động rất tốt kể từ đầu năm này và đã lấn lướt cả thị trường thép cây. 02 năm trước, doanh số bán cuộn trơn không cao,” dẫn lời một nhà sản xuất nội địa cho hay. Các nhà sản xuất cũng cho rằng Mỹ và Châu Phi và thậm chí cả Châu Âu đang nhắm đến nhập khẩu thép cuộn trơn của Thổ Nhĩ Kỳ trong năm này.
Giá chào phế đang tăng lên cộng với nguồn cung phôi tại thị trường nội địa hạn hẹp đã hỗ trợ cho thị trường thép dài. Giá chào phôi tuần trước đã hướng đến mức 665-670 USD/tấn từ mức giá đầu tuần là 660 USD/tấn. Các nguồn thị trường dự đoán yếu tố này có thể đấy giá thép cây nhích lên mức mới.
Giá thép không gỉ Châu Á hướng theo chiều giảm của niken
Tuần trước, giá thép không gỉ Châu Á trở yếu sau khi niken giảm mạnh 3.000 USD/tấn. Thép tấm cán nguội không gỉ 304 của Đông Á xuất sang Trung Quốc đã về ngưỡng 3.450-3.550 USD/tấn cfr, giảm 50-100 USD/tấn từ mức giá trước đó là 3.550-3.600 USD/tấn.
Các chào bán từ Đài Loan tuần trước cũng giảm xuống còn 3.500-3.550 USD/tấn từ mức 3.600-3.650 USD/tấn của tuần trước đó. Giá chào từ Hàn Quốc cũng được điều chỉnh từ 3.600-3.650 USD/tấn xuống còn 3.550-3.600 USD/tấn.
Tương tự, các nhà cung cấp Nhật Bản cũng điều chỉnh giá chào giảm xuống còn 3.900-3.950 USD/tấn, thấp hơn 100 USD/tấn so với mức giá 4.000-4.050 USD/tấn hồi giữa tháng 04, nhưng khách hàng không mặn mà với các chào bán từ Nhật vì cho rằng mức giá hiện vẫn còn khá cao.
Các nhà sản xuất cũng như giới thương nhân đã điều chỉnh giá bán từ tuần trước do giá niken yếu đi. Giá niken giao ngay tại sàn giao dịch kim loại London hôm 12/05 được chốt ở mức 23.955 23.960 USD/tấn, giảm khoảng 2.800 USD/tấn so với một tuần trước đó.
Giao dịch chậm là do giá niken hướng xuống và khách hàng chỉ đặt mua khi họ thực sự có nhu cầu về loại nguyên liệu này.
Giới thị trường đưa ra nhiều nhận trái chiều nhau. Một số cho rằng giá hiện tại đã chạm đáy do niken có thể sẽ dịch chuyển trở lại mức 24.000 USD/tấn trong ngắn hạn. Nhưng một số khác nhận định nhu cầu suy yếu sẽ gây áp lực cho giá giảm xuống thấp hơn nữa. “Nếu nhu cầu vẫn duy trì yếu như mức hiện tại thì giá chắc chắn sẽ giảm xuống. Hoạt động giao dịch hiện rất tệ,” một thương nhân Trung Quốc cho hay.
Assofermet :Giá phế Italy có thể tăng trong thời gian tới
Theo nguồn tin từ Assofermet, hiệp hội thương mại kim loại ở Italya cho biết giá phế được dự báo hướng lên trong vài tuần tới ít nhất 10-20 EUR/tấn.
Giá cả hai loại phế E8 và E40 sẽ tăng nhưng với lý do khác nhau. Phế E8 tăng là do khả năng thiếu hụt nguồn cung, trong khi phế E40 hướng lên là do nhu cầu tiêu thụ mạnh. “Chúng tôi nghĩ giá phế sẽ tiếp tục tăng nhưng không phải là ở tất cả các mặt hàng phế, điển hình là giá phế dày E3 sẽ không tăng lên”, một nhà phân tích của Assofermet nói.
Theo Assofermet, nhu cầu phế tại Italy tăng mạnh trong tháng 05 do các nhà sản xuất nội địa tăng công suất hoạt động. Tại Thổ Nhĩ Kỳ, người mua dường như quay lại thị trường khiến giá nhích lên.
Tại Italy ,phế E3 có giá giao dịch mới nhất dao động quanh mức 290-300 EUR/tấn (413-427 USD/tấn), phế E40 có giá 340-350 EUR/tấn còn E8 chốt ở 360 EUR/tấn. Tất cả mức giá trên được giao tới nhà máy.
Thổ Nhĩ Kỳ nâng giá thu mua phế nội địa
Các nhà sản xuất thép Thổ Nhĩ Kỳ đã nâng giá thu mua phế nội địa nhằm phù hợp với xu hướng tăng của giá thép thành phẩm và sự mạnh lên của đồng USD. Các nhà sản xuất cho biết mức điều chỉnh tăng gần đây nhất là 20-40 TRY/tấn (13-25 USD/tấn).
Nhà sản xuất Colakoglu đã điều chỉnh giá thu mua phế liệu tháo dỡ từ ô tô lên 690 TRY/tấn (436 USD/tấn) từ mức giá trước đó là 660 TRY/tấn (417 USD/tấn).
Nhà sản xuất thép hợp kim Asil Celik hiện đang mua phế tháo dỡ từ ô tô với giá 755 TRY/tấn (477 USD/tấn) từ mức giá cuối tháng 04 là 740 TRY/tấn (467 USD/tấn). Còn giá thu mua mới của Cemtas ở khoảng 680 TRY/tấn (429 USD/tấn), trong khi Icdas đang chào mua với giá 640 TRY/tấn (404 USD/tấn).
TSI: Giá phế nhập khẩu vào Ấn Độ và Thổ Nhĩ Kỳ tăng nhẹ
Giá tham khảo phế nhập khẩu của Ấn Độ và Thổ Nhĩ Kỳ được TSI công bố hôm thứ Sáu tuần trước cho thấy đã nhích lên chút xíu so với giá tuần trước đó. Tuy nhiên, phế nội địa Mỹ vẫn theo xu hướng đi xuống.
Tuần trước, giá tham khảo phế nhập khẩu Thổ Nhĩ Kỳ tăng thêm 4 USD/tấn, tức 0,9% và được niêm yết ở mức 466 USD/tấn cfr Iskenderun và hiện các nhà sản xuất thép Thổ Nhĩ Kỳ vẫn tiếp tục đặt mua. Các loại phế khác nhau có độ chênh về giá khá nhiều trong tuần này, các nhà thu mua đang nhắm đến những loại phế chất lượng cao vì nguồn cung hạn hẹp.
Giá tham khảo hiện tại cao hơn 21 USD/tấn so với giá được công bố tháng trước dù cho giá chào vào cuối tuần đã dịu lại.
Giá tham khảo nhập khẩu phế tháo dỡ từ container của Ấn Độ cũng nhích nhẹ và đã thiết lập đỉnh cao mới kể từ tháng 09/2010. Nhu cầu nội địa cải thiện cộng với sự cạnh tranh từ các nhà sản xuất Thổ Nhĩ Kỳ là lý do chủ yếu đẩy giá phế leo thang.
Tại thị trường Mỹ, giá tham khảo phế vụn tiếp tục giảm thêm 3 USD/tấn long sau khi trượt mạnh vào tuần trước đó. Tồn phế tiếp tục dâng cao và giá thép tấm đang suy yếu, nhưng niềm tin được vực dậy do nhu cầu xuất khẩu mạnh.
Giá ống không hàn tại Trung Quốc ổn định
Giá ống không hàn trên toàn bộ thị trường Trung Quốc cho thấy dấu hiệu ổn định cuối tuần trước do các nhà sản xuất thép giữ giá phôi tròn không đổi không đổi cộng với hoạt động giao dịch thưa dần trên thị trường. Trên thực tế, giá khả năng duy trì ổn định trong suốt tháng 05 cho tới khi các nhà sản xuất công bố giá phôi tròn mới.
Tại Thượng Hải, ồng không hàn (GB/8163) 219x6mm từ hai tỉnh Giang Tô và Sơn Đông hôm 13/05 ổn định quanh mức 5.950-6.000 NDT/tấn (916-923 USD/tấn), gồm 17% VAT, sau khi tăng nhẹ tuần rồi.
Một thương nhân tại Thượng Hải cho hay, giá phôi tròn ổn định cản trở đà tăng giá thép ống không hàn trong suốt tuần, tuy nhiên, nguồn cung từ tỉnh Sơn Đông thắt chặt cũng ngăn chặn giá ống không hàn giảm sâu hơn nữa.
Giá thép ống không hàn tại thị trường giao ngay ít có cơ hội suy yêu trong ngắn hạn, giới quan sát thị trường nhận định. Trái lại, giá thiếu động lực để theo đà tăng do nhu cầu của người dùng trực tiếp mờ nhạt. Giá phôi tròn vẫn duy trì mức cao kể từ đầu đầu năm kéo theo giá ống không hàn mạnh khiến các nhà kinh doanh thận trọng hơn về hoạt động tái tích trữ hàng tồn trên thị trường.
Hôm 11/05, các nhà sản xuất phôi tròn lớn ở phía đông Trung Quốc bao gồm Zhongtian Iron & Steel và Changqiang Iron & Steel đều thông báo giữ giá giữa tháng 05 không đổi. Cụ thể là, phôi tròn 20# từ các nhà sản xuất trên vẫn giữ mức 5.390-5.420 NDT/tấn, gồm VAT và được thanh toán bằng tiền mặt.
Thị trường thép cuộn tây bắc Âu đã bớt căng thẳng
Áp lực từ nhập khẩu dường như đã dịu bớt đối với thị trường thép cuộn tây Bắc Âu do đồng USD đã mạnh lên so với EUR.
Mặc dù tồn thép tại cảng Antwerp còn khá nhiều nhưng giá chào nhập khẩu mới không còn tính cạnh tranh như trước. HRC Ấn Độ hiện có giá chào ở khoảng 540-550 EUR/tấn cfr, còn CRC của Trung Quốc định mức khoảng 620-630 EUR/tấn cfr áp dụng cho các hợp đồng giao tháng 09. Thị trường không có hướng đi rỏ ràng nên các nhà dự trữ quan ngại về xu hướng trong tương lai.
Các hợp đồng giao ngay thưa dần tại thị trường nội địa. Giới trong ngành cho hay HRC hiện được các nhà sản xuất nội địa bán với giá 580 EUR/tấn (825 USD/tấn) xuất xưởng. Các nhà sản xuất từ những khu vực khác của Châu Âu như Slovakia, Serbia và Hungary vẫn đang chào bán HRC với giá xuất xưởng cơ bản là 570-580 EUR/tấn, tuy nhiên một số muốn nỗ lực đạt được mục tiêu doanh số nên hạ giá chào bán xuống thấp hơn.
Xu hướng thị trường chưa có dấu hiệu rỏ ràng chừng nào mà các nhà sản suất chưa đạt được các hợp đồng với các nhà chế tạo ô tô trong nữa cuối năm này. “Nếu các nhà sản xuất chưa nhận được các hợp đồng đặt mua từ ngành ô tô thì chúng tôi không thể nhận biết được xu hướng thì trường thay đổi ra sao,” một thương nhân nói. Các nhà sản xuất thép đang nhắm đến việc nâng giá thêm 50-60 EUR/tấn đối với các hợp đồng này nhưng các nguồn thị trường nhận định mục tiêu này sẽ không thể cán đích.
Trong khi đó một nhà dự trữ trong khu vực tin rằng tồn thép đã xuống thấp nên muốn hay không thì các nhà dự trữ cũng phải tham gia trở lại thị trường trong ngắn hạn. Như vậy, các nhà sản xuất chỉ việc ngồi chờ và có thể sẽ đạt được mức giá xuất xưởng là 580-600 EUR/tấn trong quý Ba này.
Thị trường thép cây Đông Nam Á chưa hồi sức
Thị trường thép cây Đông Nam Á tiếp tục trầm lắng chỉ với vài ba giao dịch lẻ tẻ. 10 ngày trước, có khoảng 10.000 tấn thép cây trọng lượng lý thuyết được các thương nhân Singapore đặt mua từ Hàn Quốc với giá 700 USD/tấn cfr.
Thép cây Hàn Quốc hiện đang được chào bán tới các nhà nhập khẩu số lượng nhỏ (khoảng 2.000 tấn) với giá 710 USD/tấn. “Tôi cho rằng họ sẽ tiến hành đặt mua vì đồng USD đang suy yếu,” một thương nhân Singapore nói.
Các giá chào thép cây từ Thổ Nhĩ Kỳ đã được tăng lên 730-740 USD/tấn cfr vào khoảng 02 tuần trước nhưng không có hợp đồng nào được thỏa thuận. Một thương nhân khác cho biết “Thổ Nhĩ Kỳ đã rút khỏi thị trường” vì giá bán họ đưa ra quá cao.
Giá thép cây nội địa Đông Nam Á vẫn chưa ổn định. Tại Malaysia, giá chính thức của các sản phẩm có đường kính 16-32mm hôm 13/05 là 2.180 MYR/tấn (725 USD/tấn), đối với loại có đường kính nhỏ hơn, ở khoảng 10-12mm thì có giá 2.330 MYR /tấn. “ Nhu cầu rất yếu nên các nhà sản xuất đưa ra những mức giá chào rất cạnh tranh,” một thương nhân Kuala Lumpur cho hay.
Tại Indonesia, dù giá thép cây trong những tuần gần đây khá ổn định nhưng nhu cầu không có biến chuyển tăng. “Hoạt động xây dựng rất yếu, bên cạnh đó các dự án của chính phủ cũng không thấy được thực thi” một nhà sản xuất thép trong nước nói. Thép cây tiêu chuẩn hiện đang có giá trước thuế là 6.800 IDR /tấn (796 USD/tấn), không thay đổi so với tháng 04.
Các nguồn thị trường cho hay, giá thép cây tại Indonesia không giảm xuống là bởi giá phôi vẫn duy trì ổn định. Trong những tuần gần đây, giá phôi nội địa tham khảo vẫn đứng ở mức 6.200 IDR /tấn (725 USD/tấn). “Thời hạn giao hàng nhanh hơn so với thép nhập khẩu,” một nhà cán lại nói. Phôi Hàn Quốc được chào bán sang Indonesia với giá 680 USD/tấn cfr, còn giá chào từ Nga là 670 USD/tấn cfr.
Giá CRC ở tây nam Trung Quốc suy yếu do lực mua thấp
Nhu cầu sử dụng thép cuộn cán nguội (CRC) từ giới tiêu thụ trực tiếp ở khu vực tây nam Trung Quốc giảm kể từ đầu tháng do giá CRC giao ngay hướng xuống. Giá giao dịch trên thị trường giảm khoảng 50-60 NDT/tấn (8-9 USD/tấn) so với hai tuần trước.
Tại Trùng Kháng, một trung tâm lớn chuyên sản xuất ô tô và máy móc ở khu vực tây nam Trung Quốc, CRC dày 1.0mm có giá chào 5.440 NDT/tấn (837 USD/tấn), gồm 17% VAT, vào cuối tuần trước, giảm 60 NDT/tấn so với đầu tháng 05. Tại khu vực gần thành phố Thành Đô, với cùng loại thép trên được chào bán với giá 5.400-5.450 NDT/tấn, gồm VAT, tăng 50 NDT/tấn so với đầu tháng.
Giới thương nhân cho hay, việc đóng cửa các giao dịch trong thời điểm này là rất khó khăn, trong khi lực mua từ người dùng cuối cùng không nhiều, họ chỉ mua với số lượng nhỏ đủ dùng bất chấp giá đã hướng xuống. Các nhà tham gia thị trường quan ngại, nhu cầu từ giới tiêu thụ trực tiếp sẽ thấp hơn nữa nếu như tình hình thiếu điện càng trầm trọng hơn trong thời gian tới.
Một nguồn tin thân cận từ Chang’an Auto, một nhà sản xuất ô tô chủ chốt ở Trùng Khánh cho biết hoạt động sản xuất của nó không bị tác động bởi việc hạn chế nguồn điện. Hơn hết, do nhà sản xuất này đã có nhà máy phát điện riêng nên ảnh hưởng của tình trạng thiếu điện lên Chang’an Auto trong vài tháng tới sẽ hạn chế.
Tuy nhiên, phònh kinh doanh của nhà sản xuất này đã không còn đặt quá nhiều kỳ vọng vào doanh số bán tăng trong năm nay, đặc biệt là mặt hàng xe tải.
Giá HRC ở phía nam Trung Quốc tiếp tục giảm
Giá thép cuộn cán nóng (HRC) tại thị trường nội địa miền nam Trung Quốc tiếp tục theo xu thế giảm của tuần rồi bất chấp động thái điều chỉnh nâng giá bán của nhà sản xuất Wuhan Iron & Steel (Wugang).
Tại thị trường Quảng Châu, HRC Q235 dày 5.5mm giao ngay hôm thứ 06 được chào bán với giá 4.930-4.950 NDT/tấn (756-759 USD/tấn), gồm 17% VAT, đã giảm 10-20 NDT/tấn (1,50-3 USD/tấn) so với mức giá của một ngày trước đó. Trong suốt tuần qua, giá đã giảm 30-50 NDT/tấn. Tại thị trường Lecong, với cùng loại thép trên được chào bán với giá 4.940 NDT/tấn, gồm VAT, giảm 40 NDT/tấn so với một tuần trước.
Giá giao ngay đi xuống bất chấp thông báo nâng giá HRC tháng 06 của nhà sản xuất Wugang hôm 12/05 khoảng 50 NDT/tấn. Trong khi đa số nhà sản xuất lớn khác trong nước, đơn cử là Baosteel sẽ giữ giá HRC tháng 06 không đổi so với tháng 05 do lực cầu suy yếu .
Nhiều thương nhân quyết định án binh bất động và tiếp tục chờ cho tới khi xu thế thị trường rõ ràng hơn nên lực mua còn thấp. Bối cảnh thị trường mờ nhạt cũng bị tác động bởi nhiều nhân tố bao gồm tình trạng thiếu điện và thắt chặt thanh khoản của chính phủ Bắc Kinh.
HRC tiêu chuẩn Q235 dày 5.5mm của nhà sản xuất Wugang được giao dịch với giá 4.420 NDT/tấn trong tháng 06. Còn giá của nhà sản xuất Baosteel là 4.592 NDT/tấn. Hai mức giá trên chưa bao gồm 17% VAT.
Posco, CSC nâng giá xuất khẩu sang Nhật
Hai nhà sản xuất thép của Hàn Quốc và Đài Loan là Posco và China Steel Corp (CSC) đã quyết định nâng giá HRC xuất khẩu sang Nhật thêm 12.000 Yên/tấn/tấn (149 USD/tấn), áp dụng cho các hợp đồng giao quý Hai.
Một thương nhân ở phía tây Nhật Bản nói một nữa HRC được nhập từ Hàn Quốc và Đài Loan sẽ gồm những loại như SS330 và SS400, có giá ở khoảng 75.000-80.000 Yên/tấn (926-988 USD/tấn–tương đương với các mức giá từ các nhà sản xuất hợp nhất Nhật Bản). Posco và CSC đã nhắm đến mức giá 70.000-75.000 Yên/tấn cho các hợp đồng giao quý Một nhưng đã phải điều chỉnh giá giảm xuống còn 65.000 Yên/tấn do nhu cầu tại Nhật Bản không tốt.
Các nhà sản xuất hợp nhất Nhật Bản đã nâng giá nội địa thêm 20.000 Yên/tấn trong tháng 4,5 và 06 nhưng thực tế chỉ đạt được mức tăng 5.000 Yên/tấn mà thôi. Họ đang kiểm soát thị trường vì muốn đạt được tối ta mức tăng như đã định do chi phí đầu vào tăng cao hơn.
Tuy nhiên, Nhu cầu thép tại Nhật đang xuống thấp kể từ sau trận động đất do các nhà chế tạo ô tô cắt giảm sản xuất. “Tồn thép đang tăng lên và giá khó có thể lên cao hơn nữa”. Công suất hoạt động tại các trung tâm dùng thép cuộn sản xuất các bộ vi xử lý đã giảm xuống mức thấp 30% do đó tồn thép được dự đoán là tiếp tục tăng thêm nữa. Công suất hoạt động tại các trung tâm dùng thép cuộn sản xuất các bộ vi xử lý của Nhật trong tháng 03 đã giảm xuống còn 67,7% từ mức trong tháng 02 là 72,5%.
Hầu hết các khách hàng Nhật Bản không muốn mua thép từ CSC hay Posco mà khi có nhu cầu họ chỉ muốn mua thép nội địa.