Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 17/02/2014

 


Quặng chrome nhập khẩu vào Trung Quốc tăng giá

Giá giao ngay của quặng chrome Nam Phi (48-52% Cr) nhập khẩu vào Trung Quốc hôm thứ sáu tuần trước được chốt tại 84-85 cents/lb CIF Trung Quốc, tăng từ 83-84 cents/lb CIF của tuần trước đó, sau khi một giao dịch được chốt ở mức này và có nhiều ý kiến về giá lên cao hơn từ những người mua Trung Quốc.

Tuần trước, một nhà sản xuất thép Trung Quốc đã mua 5.000 tấn quặng chrome giao vào cuối tháng 03 từ một nhà sản xuất Nam Phi với giá 84-85 cents/lb CIF cảng miền đông Trung Quốc. Không có giao dịch nào khác được nghe nói nhưng nhiều người thấy mức giá này có thể giao dịch được.

Một thương nhân ở miền bắc Trung Quốc đã nhận được các chào giá quặng chrome là 84-85 cents/lb CIF trong tuần trước và tin rằng mức giá này có thể được các khách  hàng ở đây chấp nhận. “Hiện nay, mức giá 83 cents/lb là rất khó để đạt được vì nó quá thấp so với giá trong nước”, bà nói. Bà này đã không chốt được hợp đồng quặng chrome nào trong tuần trước vì các khách hàng của bà không mấy quan tâm đến hàng nhập khẩu.

Thứ tư tuần trước, giá giao ngay trong nước của ferrochrome hàm lượng cacbon cao (50% Cr) tại Trung Quốc khoảng 6.750-6.900 NDT/tấn tương đương 84-86 cents/lb.

Đến thứ sáu, giá giao ngay của ferrochrome hàm lượng cacbon cao xuất xứ Ấn Độ (58-60% Cr) được chốt với giá không đổi so với tuần trước đó tại 84-86 cents/lb CIF Trung Quốc. Không có hợp đồng nào được xác nhận. Các chào giá tuần trước nghe nói khoảng 85-87 cents/lb CIF, nhưng hầu hết các nguồn tin đều chốt mức giá có thể giao dịch là từ 84-86 cents/lb CIF.

Một số nhà quan sát trong ngành đã dự đoán giá nhập khẩu sẽ tăng sau Tết, sau khi các thỏa thuận hợp đồng chuẩn tại Châu Âu và Nhật Bản trong quý I có giá cao hơn. Đông thời nguyên liệu cũng lên giá sau Tết khi các nhà sản xuất thép Trung Quốc bắt đầu thu mua trở lại khiến nhu cầu gia tăng.

 

 

 

Giá quặng sắt phục hồi nhờ nhu cầu tiêu thụ tăng trở lại

Giá quặng sắt nhập khẩu trong tuần trước tăng nhờ số liệu kinh tế lạc quan và một số người mua đang tìm nguồn hàng để bổ sung. Tuy nhiên, một số người nghi ngờ về sự phục hồi này liệu có được kéo dài khi mà thị trường thép thường hay biến động.

Thứ sáu tuần trước, IODEX 62% Fe được chốt tại 123,5 USD/dmt CFR miền bắc Trung Quốc, tăng 3,25 USD/dmt (2,7%) so với tuần trước đó.

Một số người cho biết họ đang ưu tiên dùng quặng sắt nhập khẩu do các nhà sản xuất thép sẽ không giảm sản lượng trước tháng 03 và tháng 04, đây là giai đoạn tiêu thụ thép cao điểm khi mà thời tiết ở Trung Quốc ngày càng ấm hơn.

Quặng sắt nhập khẩu của Trung Quốc trong tháng 01 đã đạt mức kỷ lục 86,83 triệu tấn, tăng 33% so với cùng kỳ năm ngoái. Các nguồn tin nhấn mạnh về sự xuất hiện trở lại của người mua giao ngay sau khi thị trường có nhiều tin tức tích cực.

Tuy nhiên, một số người bày tỏ sự nghi ngờ về xu hướng tăng giá do hàng tồn kho ở các cảng Trung Quốc đã tăng lên hơn 100 triệu tấn nhưng giá lại rẻ hơn. Một nhà máy ở miền trung cho biết một số khách hàng đã trì hoãn việc mua hàng giao ngay do họ thấy rằng có thể mua được quặng với giá rẻ hơn tại các bến cảng.

Một thương nhân khác ở Bắc Kinh nói rằng giá thép suy yếu đang làm hạn chế nhu cầu tiêu thụ do nhiều nhà máy còn nghi ngờ về các cam kết giao ngay trừ phi ngành thép có sự phục hồi ổn định.

 

Thị trường toàn cầu suy yếu trong khi FED tiếp tục cắt giảm chương trình nới lỏng định lượng

Thị trường thép thành phẩm toàn cầu hầu như suy yếu trong tuần qua ngoại trừ Trung Quốc vẫn im ắng sau kỳ Lễ Tết Nguyên Đán. Gía nguyên liệu thô cũng tiếp tục giảm với tốc độ nhanh hơn cả giá thép.

Mối lo ngại về việc tháo chạy vốn tại các thị trường mới nổi đnag bùng lên sau khi Chủ Tịch mới của Cục Dự Trữ Liên Bang, Bà  Janet Yellen thông báo rằng ngân hàng sẽ tìm cách cắt giảm chương trinh  nới lỏng định lượng do nền kinh tế Mỹ tiếp tục hồi phục.

Các nhà sản xuất phế Thổ Nhĩ Kỳ và Ấn Độ đã hiện tại đã nhìn thấy khả năng thu mua phế liệu và tăng công suất sản xuất thép thô đã bị cắt giảm trước đó do tỷ giá hối đoái và phát biểu tương tự của Fed gây ra những lo ngại về việc tháo chạy vốn nghiêm trọng khỏi các thị trường mới nổi.

Chỉ số EMI của HSBC đã cho thấy tín hiệu chậm tăng trong sản lượng. Trong khi đó, chỉ số quản lý mua hàng giảm tháng  thứ hai liên tiếp từ mức 51.6 điểm tháng 12 xuống 51.4 điểm trong tháng 1. Chỉ số EMI trong tháng đầu năm 2014 chậm mức thấp nhất kể từ tháng 9 trước, và dưới mức trung bình 51.7 điểm năm 2013 .

Chỉ số tiêu thụ thép gần đây tại các thị trường mới nổi cho thấy các khó khăn về giá đối với các nhà sản xuất.  Xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ đã giảm trong cả sản lượng và giá bình quân trong năm 2013. Theo TUIK cho hay, tổng sản lượng xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ trong năm 2013 là 8.28 triệu tấn với giá trung bình 586.585 USD/tấn, giảm từ mức 8.61 triệu tấn tại giá trung bình 628.227 USD/tấn năm 2012.

Giá phế giảm đang tiếp tục gây áp lực tới các nhà sản xuất thép dài Thổ Nhĩ Kỳ và Châu Âu. Platts hạ giá nhập khẩu phế HMS 1/ 2 (80:20) của Thổ Nhĩ Kỳ xuống 8 USD/tấn trong tuần qua, đạt mức 367 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ trong ngày 7/2. Trong khi đó, giá tại Mỹ dường như giảm sâu hơn nữa, dẫn đầu là giá phế xuất khẩu với giá phế vụn giao tại Midwest giảm 17.5 USD/tấn dài trong tuần qua, còn 405 USD/tấn dài (398.6 USD/tấn).

Hiệu ứng dây chuyền cũng sắp xảy ra tại Châu Âu với dự báo giá phế Đức giảm 10-20 Euro/tấn so với tháng trước trong hki Tây Ban Nha đã giảm 15 Euro/tấn. Gía thép cây xuất xưởng Tây Bắc Châu Âu giảm 5 Euro/tân trong tuần qua, còn 480-488 Euro/tấn (656-667 USD/tấn).

Thị trường thép dẹt Châu Âu đang tìm kiếm giá tăng Qúy 2 với báo cáo tình hình thị trường Bắc Âu tương đối tĩnh do đa phần các thành viên thị trường đang chờ một xu hướng rõ ràng hơn. Platts tiếp tục giảm giá HRC Châu Âu xuống mức 450-458 Euro/tấn, giảm 3-4 Euro/tấn so với mức giá trước (615-626 Euro/tấn) trong khi CRC giảm 1 Euro/tấn, còn 534-540 Euro/tấn. Thị trường thép dẹt Mỹ cũng suy yếu dưới áp lực trở lại của nguồn cung quá mức và nhu cầu tiêu thụ suy yếu với giá HRC và CRC giảm 10-20 USD/tấn trong tuần qua. 

Baosteel giữ giá xuất khẩu thép cuộn không gỉ 

Baosteel đã giữ chào giá tháng 02 cho thép cuộn không gỉ loại 300-series bằng với giá tháng 01. Shanxi Taigang Stainless Steel được cho là cũng sẽ thực hiện tương tự đối với giá xuất khẩu thép cuộn không gỉ loại 300-series trong tuần này.

Theo quyết định của Baosteel vào cuối tuần trước, giá xuất khẩu của HRC loại 304 3mm và CRC 304 2mm lần lượt là 2.250 USD/tấn FOB và 2.450 USD/tấn FOB Trung Quốc cho hàng giao đến đầu tháng 04. “Do thị trường trước và sau Tết tương đối bình ổn”, theo nhận định của một quan chức cấp cao nhà máy.

Một nhân viên cấp cao của Taigang cho biết công ty của bà có thể sẽ giữ giá xuất khẩu ổn định. “Chúng tôi vẫn chưa đưa ra giá cuối cùng. Hiện nay, chúng tôi vẫn đang theo dõi diến biến thị trường cho những ngày sắp tới”, bà nói hồi cuối ngày thứ sáu.

Một nhà phân phối của Taigang ở miền nam Trung Quốc cho biết Taigang vẫn chưa thông báo giá xuất khẩu mới đến công ty của bà. “Nhưng hai ngày trước các quan chức Taigang đã nói rằng giá có thể sẽ không thay đổi”, bà nói.

Giá giao dịch chính thức bằng tiền mặt của niken trên sàn LME đã giảm dưới 14.000 USD/tấn trong cuối tháng 01 sau khi duy trì trên mức này trong hai tuần. Nhưng sau đó giá lại bật tăng trên 14.000 USD/tấn vào đầu tháng 02 và chốt tại 14.230-14.235 USD/tấn hôm 13/02. 

Giá thép không gỉ Châu Á tăng với các chào giá cao hơn 

Thứ sáu tuần trước, giá thép cuộn cán nguội không gỉ loại 304 2B dày 2mm xuất xứ từ khu vực Đông Á tăng từ 2.300-2.400 USD/tấn CFR của tuần trước đó lên 2.350-2.400 USD/tấn CFR các cảng Đông Á, theo các chào giá cao hơn của thép không gỉ Hàn Quốc.

Các chào giá thép cuộn Hàn Quốc nghe nói trong tuần trước khoảng 2.400-2.430 USD/tấn CFR. Các thương nhân cho biết chào giá tăng 20-50 USD/tấn so với cuối tháng 01, trong khi chào giá cuộn trơn Đài Loan thì gần như vẫn duy trì tại 2.400-2.450 USD/tấn CFR.

Một số khách hàng Châu Á tìm mua với giá 2.300 USD/tấn CFR trong tuần trước nhưng người bán không thể hạ giá xuống được. “Chênh lệch giữa giá chào bán và đặt mua rất lớn. Người mua hiện đang tìm giá thấp hơn so với mức mà các nhà máy chào bán tới các đại lý, giá này còn thấp hơn vốn của chúng tôi”, một thương nhân ở trung tây Đài Loan nói, ông này đã chào bán với giá 2.400-2.450 USD/tấn FOB Đài Loan trong tuần trước.

Một thương nhân ở Hong Kong cho rằng các nhà cung cấp Hàn Quốc và Đài Loan sẽ sẵn sàng đưa ra các khoản chiết khấu từ 20-30 USD/tấn so với chào giá của họ. Ông đã nhận được chào giá từ hai nhà cung cấp này lần lượt tại 2.400 USD/tấn CFR Hong Kong và 2.430 USD/tấn CFR trong tuần trước. “Nếu nhu cầu không cao, các nhà máy sẽ điều chỉnh lại sản lượng của họ thay vì đưa ra các khoản chiết khấu lớn”, ông nói, và nhấn mạnh rằng nguyên liệu chẳng hạn như ferrochrome đã lên giá.

Giao dịch được dự đoán là sẽ tăng lên trong những tuần tới do ngày càng có nhiều người hơn quay lại thị trường sau Tết.

Còn các chào giá CRC Nhật Bản nghe nói cỡ 2.800 USD/tấn CFR trong tuần trước. Chào giá từ Nhật cao là vì nhu cầu tiêu thụ trong nước tăng mạnh nên các nhà cung cấp không vội xuất khẩu. 

 Giá thép ống đúc miền đông Trung Quốc ổn định giữa bối cảnh thị trường ảm đạm

Giá giao ngay thép ống đúc ở thị trường bán lẻ Thượng Hải vẫn ổn định và không có tín hiệu nào cho thấy có sự phục hồi trong suốt tuần trước. Thị trường ảm đạm đã được dự báo trước bởi các thương gia khó mà quay lại giao dịch trong tháng 02 và kinh doanh sẽ chỉ trở lại bình thường sau Lễ hội đèn lồng (14/02).

Thứ sáu tuần trước, Platts định giá thép ống 20# 219x6mm (GB/T 8163) được sản xuất từ các nhà máy ở miền đông Trung Quốc tầm 4.200 NDT/tấn (693 USD/tấn) gồm VAT 17%, bằng với tuần trước đó.

Thị trường thép nhìn chung còn im ắng trong tuần trước, do nhiều công nhân vẫn chưa quay lại làm việc sau Tết. Các thương nhân đang đợi xu hướng thị trường rõ ràng hơn sau Lễ hội đèn lồng.

Tương tự, các nhà sản xuất thép tròn đặc ở miền đông Trung Quốc tiếp tục chờ đợi và phần lớn vẫn giữ giá xuất xưởng của thép tròn đặc không đổi do thị trường ảm đạm.

Hôm 11/01, Zenith Steel Group và Changqiang Iron & Steel, hai nhà máy đều ở tỉnh Giang Tô, thông báo rằng sẽ giữ giá thép tròn đặc 20# duy trì lần lượt tại 3.680 NDT/tấn (607 USD/tấn) và 3.630 NDT/tấn (600 USD/tấn) xuất xưởng gồm VAT từ ngày 11-20/02. Cùng ngày, Huaigang Special Steel tại Giang Tô cho biết cũng sẽ giữ giá xuất xưởng không đổi tại 3.740 NDT/tấn (617 USD/tấn) gồm VAT trong cùng thời gian như trên. 

Các nhà xuất khẩu Bờ Biển Đông Mỹ cắt giảm giá phế tại cảng

Các nhà xuất khẩu Bờ Biển Tây Mỹ đã hạ giá phế tại bãi xuống 15 USD/tấn dài trong ngày 14/2 trong bối cảnh giá xuất khẩu giảm cũng như tâm lý thị trường suy yếu. Platts hạ giá phế HMS Số 1 xuống mức 285-290 USD/tấn giao tại cảng Bờ Biển Đông Mỹ.

Giá xuất khẩu phế HMS 80:20  Mỹ tới Thổ Nhĩ Kỳ đã giảm từ mức 383 USD/tấn trong ngày 30/1 xuống còn 353.5 USD/tấn trong tuần qua. 

NSSMC giữ giá thép dầm hình H giao ngay 

Nippon Steel & Sumitomo Metal Corp (NSSMC) thông báo hôm thứ Năm rằng sẽ giữ giá thép dầm hình H giao ngay trong tháng 02 không đổi để đảm bảo mức giá tăng trước đây đã được thị trường hoàn toàn chấp nhận.

NSSMC không tiết lộ giá niêm yết nhưng theo các nguồn tin cho biết giá trên thị trường hiện nay của thép dầm hình H SS400 cỡ lớn khoảng 82.000-83.000 Yên/tấn (804-814 USD/tấn), tăng 1.000 Yên/tấn kể từ tháng trước.

“Sau khi các nhà phân phối đã tăng giá trước đây của NSSMC tiếp tục nâng giá bán của họ lên thêm 1.000-2.000 Yên/tấn từ giữa tháng 01 nhưng không phải tất cả động thái tăng giá của các nhà sản xuất đều được người mua chấp nhận. Vì vậy NSSMC có lẽ đang đợi cho đợt tăng giá của nhà máy được hấp thụ một cách hoàn toàn”, một nhà phân phối ở Tokyo nói.

Trước đây, NSSMC đã tăng thêm 2.000 Yên/tấn cho những hợp đồng thép dầm hình H giao ngay trong tháng 01.

Trong khi đó, công ty con thuộc sở hữu của tập đoàn hợp nhất khổng lồ- Nippon Steel & Sumikin Shapes, ở Wakayama, miền tây Nhật Bản- cũng đã quyết định giữ giá thép dầm hình H trong tháng 02.

Mặc dù nhà sản xuất thép hình không đưa ra bình luận nào, nhưng theo một nguồn tin ở Osaka cho biết công ty sẽ giảm khối lượng đơn đặt hàng nhận được trong tháng này để tạo điều kiện tốt hơn cho các mức giá mới được chấp nhận.

NSSMC cũng thông báo hôm thứ năm rằng trữ lượng thép dầm hình H tại các nhà tích trữ thuộc NSSMC hồi cuối tháng 01 tăng 15.100 tấn tương đương 8% so với cuối tháng 12 lên 199.700 tấn, đánh dấu lần tăng thứ hai liên tiếp.

Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản dự báo nhu cầu tiêu thụ thép dầm hình H trong quý I sẽ chạm mốc 1,06 triệu tấn, tăng 7,2% so với cùng kỳ năm ngoái, nhưng lại giảm 0,1% so với quý trước.    

Thị trường cuộn trơn Mỹ trầm lắng do giá chào nhập khẩu

Các nhà máy  Trung Quốc đã ngưng chào bán cuộn trơn  sang Mỹ  sau các vụ kiện thương mại từ các nhà máy nước này cũng như người mua Mỹ vẫn do dự thu mua cuộn trơn nội địa cho tới khi họ thấy được xu hướng thị trường rõ ràng.

Hai thương nhân Mỹ cho hay họ không còn chào bán cuộn trơn xuất xứ Trung Quốc nữa và Thổ Nhĩu Kỳ sẽ là nước xuất khẩu cuộn trơn sang Mỹ.

Một người mua tạo Nam Mỹ cho hay mặc dù các thương nhân không mua hàng từ Trung Quốc, tuy nhiên, họ tin rằng vẫn còn cuộn trơn và  có thể sẽ mua lô hàng giao tháng 4. Người mua Mỹ có thể sẽ mua nhiều hàng hơn cần thiết do việc chống bán phá giá.

Các nhà máy muốn tăng giá bán thêm 25-35 USD/tấn trong tháng này nhưng người mua không quan tâm.

Trong khi đó, các nhà máy cuộn trơn có hàm lượng cacbon cao lại muốn giữ giá mặc dù giá phế giảm. Tuy nhiên, đây sẽ là thời kỳ khó khăn cho họ nếu phế tiếp tục mất giá.

Thép cây miền bắc Trung Quốc quay đầu giảm bất chấp sự can thiệp của nhà máy 

Giá thép cây ở miền bắc Trung Quốc tiếp tục suy yếu hôm thứ sáu tuần trước, do một số đại lý lớn đã bắt đầu cắt giảm giá ngay cả khi Hebei Iron & Steel (Hegang) yêu cầu mức giá sàn bán ra.

Như Platts đã đưa tin, Hegang đã yêu cầu các đại lý lớn ở Bắc Kinh giữ giá bán đối với thép cây HRB400 đường kính 18-25mm tại mức tối thiểu là 3.200 NDT/tấn tính theo trọng lượng lý thuyết (528 USD/tấn). Mức giá thực tế hiện nay sau khi đã cộng thêm 3% dung sai khối lượng được thị trường chấp nhận, vẫn cao hơn 100 NDT/tấn so với giá tính theo trọng lượng thực tế trước Tết Nguyên Đán.

Nhưng nhiều người cho biết sức mua sau Tết rất chậm và các mức giá cao hơn nhiều sau Tết đã khiến việc chốt được hợp đồng gặp khó khăn. Một đại lý ở Bắc Kinh nói với Platts rằng công ty ông đã giảm giá chào bán xuống 50 NDT/tấn đối với thép cây HRB400 còn 3.150 NDT/tấn gồm VAT 17% tính theo trọng lượng lý thuyết nhưng có thể vẫn không hấp dẫn người mua.

Một đại lý khác chỉ bán được rất ít với giá 3.200 NDT/tấn trọng lượng thực tế mặc dù đã có nhiều nỗ lực. Thị trường vẫn chưa chấp nhận mức giá mới sau khi chuyển từ trọng lượng thực tế sang lý thuyết vào thứ Hai tuần trước. Để đảm bảo bán được hàng trong bối cảnh sức mua hạn chế và hàng tồn kho đang tăng, một số thương nhân vẫn đang chào bán theo trọng lượng thực tế đến các khách hàng và một số khác còn đưa ra thêm một số khoản chiết khấu đối với giá tính theo trọng lượng lý thuyết.

Thứ sáu tuần trước, Platts định giá thép cây HRB400 đường kính18-25mm khoảng 3.200-3.250 NDT/tấn tính theo trọng lượng thực tế gồm VAT, giảm so với mức giá 3.280-3.300 NDT/tấn của ngày thứ năm tuần trước. 

Các nhà máy Nga đặt mục tiêu giá tấm cán nóng tăng tháng 3

Các nhà máy Nga đang dự định tăng giá tấm cán nóng HRC tháng 3 thêm 800-850 Rub/tấn (23-24 USD/tấn) chưa tính VAT.

Nếu các nhà máy thành công, các khách hàng tại Trung Nga sẽ phải trả 22.325—22.480 Rub/tấn (638-642 USD/tấn) đối với tấm cán nóng 2mm VÀ 21.650-21.830 Rub/tấn (618-623 USD/tấn) đối với tấm 4mm. Nếu chưa tính VAT, giá tháng 3 đạt mức 18.920-19.050 Rub/tấn (540-544 USD/tấn) đối với loại 2mm và 18.350-18.500 Rub/tấn (524-528 USD/tấn) với loại 4mm CPT Maxcova.

Nếu tính bằng đồng dolla, các mức giá này sẽ tăng lần lượt 29 và 18 USD/tấn so với giá giao dịch đầu tháng và giữa tháng 2, trở về mức giá đầu tháng 12. Mặc dù đây là lần tăng đáng kể trong tháng 2, tuy nhiên, nó chỉ bù đắp lại phần lỗ do đồng Rub mất giá.

Các nhà máy tin rằng họ có thể áp dụng giá tăng do nhu cầu tiêu thụ trong nước cải thiện và nhờ vào sự tăng giá của Metinvest.

Các nhà máy hy vọng giá có thể bắt kịp với giá xuất khẩu. Hiện tại, so với giá xuất xưởng cơ bản, giá xuất khẩu tấm cán nóng cao hơn 15-25 USD/tấn.

Không có đơn hàng nào được chốt cho tháng 3. Đối với các khách hàng tại Trung Nga, giá tấm cán nóng 2mm và 4mm tháng 2 đạt mức lần lượt 21.350-21.500 Rub/tấn (609-613 USD/tấn) và 20.700-20.850 Rub/tấn (590-595 USD/tấn) đã gồm 18% VAT.

Nếu không tính thuế, giá loại 2mm và 4mm lần lượt đạt mức 18.090-18.220 Rub/tấn (516-520 USD/tấn) và 17.540-17.670 Rub/tấn (500-504 USD/tấn) CPT Maxcova.

Trong ngày 14/2,  Platts tăng giá tấm cán nóng 2-4mm Nga thêm 35 Rub/tấn (1 USD/tấn), đạt mức 17.600-18.150 Rub/tấn (502-517 USD/tấn) CPT Maxcova. Gía HRC 2-4mm  cũng tăng lên mức 17.000-17.550 Rub/tấn (485-500 USD/tấn).

Các nhà máy cũng nhắm tới mục tiêu tăng  giá tấm cán nguội 1mm tối thiểu 800 Rub/tấn (23 USD/tấn), tức 3.5% so với tháng trước, đạt mức 20.260-20.460 Rub/tấn CPT Maxcova. Hiện tại, giá giaod ịch tấm cán nguội là 19.500-19.600 Rub/tấn (556-559 USD/tấn). 

Thị trường nhập khẩu phôi thanh Đông Nam Á im ắng do phế suy yếu hơn 

Thị trường nhập khẩu phôi thanh ở Đông Nam Á trầm lắng trong tuần trước giữa bối cảnh giá phế đang đi xuống. Nhiều khách hàng không chấp nhận các chào giá hiện nay do họ muốn chờ xem liệu giá phôi thanh có giảm cùng với giá phế hay không.

Các chào giá từ Trung Quốc phổ biến khoảng 525-530 USD/tấn CFR Đông Nam Á. Mức  này bằng với giá hồi cuối tháng 01. Tuy nhiên, các chào giá bị hạn chế do thị trường Trung Quốc phục hồi rất chậm và các nhà cung cấp được kỳ vọng là sẽ hoàn toàn quay lại thị trường trong tuần này, một thương nhân Hong Kong nói.

Tại Philippines, thị trường im ắng, nghe nói không có giao dịch nào trong tuần trước. Nhiều thương nhân đang chào bán phôi thanh Hàn Quốc với giá 540 USD/tấn CFR nhưng các nhà nhập khẩu lại không mấy quan tâm. Trong khi phôi thanh Hàn Quốc trước đây được đặt mua với giá 542 USD/tấn CFR.

Các nhà cung cấp ở Hàn Quốc, Việt Nam và Malaysia vẫn đặt mục tiêu là phải bán với giá thấp nhất là 525 USD/tấn FOB nhưng giá đặt mua chỉ có 515 USD/tấn FOB.

Giá xuất khẩu phôi thanh từ Đài Loan đã rớt xuống còn 510-515 USD/tấn FOB, giảm 10 USD/tấn so với tháng trước, do NDT suy yếu, giá phế thấp cộng thêm thị trường thép cây trong nước trì trệ.

Giá xuất khẩu trên quy đổi ra khoảng 530 USD/tấn CFR Philippines. “Hiện nay rất khó để bán ở mức giá này do giá đặt mua chỉ dưới 520 USD/tấn CFR”, một thương nhân ở Đài Bắc nói. Ông nói giá phải giảm còn 500 USD/tấn FOB thì các hợp đồng xuất khẩu mới được ký kết. Phôi thanh nhập khẩu từ khối ASEAN và Hàn Quốc tới Philippines được hưởng mức thuế 0% trong khi phôi thanh từ các nước khác bị đánh thuế 3%. 

Giá xuất khẩu thép cây Nga giảm đồng thời với giá trong nước

Trong tuần qua, giá thép cây nội địa Nga đã mất 10 Euro/tấn do thiếu cầu và giá phế giảm.

Nhu cầu tiêu thụ vẫn đang trong mùa thấp điểm cộng với thời tiết xấu trì hoãn các hoạt động xây dựng và phế cũng  mất giá 10-20 Euro/tấn so với tuần trước.

Giá giao cơ bản thép cây đạt mức bình quân 220 Euro/tấn xuất xưởng, với giá chào từ các nhà máy là 220-225 Euro/tấn và người mua chào giá 210 Euro/tấn xuất xưởng. Người mua cho hay không thể đạt được giá 210-220 Euro/tấn xuất xưởng sau khi đàm phán.

Do các nhà máy cạnh tranh để duy trì lợi nhuận, họ vẫn sẵn sàng chấp nhận thanh toán trong 90 ngày để thu hút người mua.

 Tương tự, giá xuất khẩu cũng suy yếu, với người mua Algerian không quan tâm thu mua hàng trong bối cảnh giá phế giảm và hào cạnh tranh từ Thổ Nhĩ Kỳ và Ukraina.  Theo các báo cáo trước đó, nhà máy thép cây ArcelorMittal Kryviy Rih Ukraina đã xuất hàng trở lại sang Algeria trong tháng qua  sau 3 năm ngưng bán hàng trước đó với giá 560 UASD/tấn CFR Algeria.

Trong khi đó, giá từ Nam Âu đạt mức trung bình 450-455 Euro/tấn FOB.
 

Các nhà cán lại thép tấm dày Ý hoan nghênh việc tăng giá

Các nhà cán lại tấm dày Ý tỏ ra hoan nghênh các thông báo tăng giá tại Châu Âu mà tiêu biểu là nhà máy lớn của Đức, Dilinger Hutte đã thông báo tăng giá thêm 30 Euro/tấn.

Trong khi thị trường Ý vẫn tương đối yếu dựa vào  sự cạnh tranh khốc liệt giữa các nhà tích trữ hàng hóa và các nhà môi giới, giá chào bán phiir biến vẫn ở mức 500-520 Euro/tấn đối với tấm thương phẩm.

Một nhà máy lớn cho hay giá mới vẫn chưa được thông báo tại thị trường Ý, tuy nhiên, tất cả các nhà máy cán lại đang tìm cách củng cố giá mục tiêu kể từ tháng 1 năm nay. Một nguồn tin khác cho hay tình hình kinh doanh vẫn khó khăn , tuy nhiên, có ít tia hy vọng về sự cải thiện khi bán hàng cho các nhà tiêu thụ cuối trong tuần này.

Một vài nguồn tin cho hay các nhà cán lại Ý hiện đang thu mua phôi phiến tại mức giá 400-410 Euro/tấn DDP giá giao cơ bản với thép tấm thương phẩm, do đó, họ dường như sẽ không chấp nhận giá dự thầu thép tấm dưới mức 500 Euro/tấn xuất xưởng cơ bản.

Trong khi đó, giá Platts đối với phôi phiến FOB Biển Đen đã tăng 30 Euro/tấn kể từ đầu tháng 11/2013.

Giá thép tấm tiêu chuẩn hàng hóa Trung Quốc ổn định, niềm tin thị trường suy yếu 

Giá thép tấm tiêu chuẩn hàng hóa tại thị trường Trung Quốc vẫn giữ ổn định hôm thứ Sáu, trong khi đó các đại lý được khảo sát bởi Platts thì lại có tâm lý khá bi quan do giao dịch chậm lại trong tuần qua. Một số thương nhân Trung Quốc chủ yếu hiện đang dựa vào hoạt động giao dịch trên thị trường giao sau chứ không phải là sự cân bằng cung-cầu.

Hôm thứ sáu, thép tấm loại Q235 14-20mm được giao dịch phổ biến quanh mức 3.480-3.500 NDT/tấn (570-573 USD/tấn), bằng với mức giá niêm yết của Platts hôm 24/01. Một đại lý ở Thượng Hải hy vọng rằng giá sẽ tăng do giá thép cây giao kỳ hạn tăng liên tục. Nhưng ông không chắc là việc tăng giá có thể được duy trì.

Hôm thứ Tư, hợp đồng thép cây giao kỳ hàng tháng 06 trên sàn SHFE được chốt tại 3.392 NDT/tấn, 3.398 NDT/tấn hôm thứ Năm và ngày thứ Sáu có giá 3.408 NDT/tấn.

Hai nhà sản xuất thép hàng đầu, Chongqing Iron & Steel (Chonggang) và Wuhan Iron & Steel (Wugang), đều giữ giá thép tấm không đổi trong tháng 03 do nhu cầu tiêu thụ hiện nay trì trệ.

“Giao dịch chậm lại và nguồn hàng được đặt mua trước đây nay đã về đến thị trường khiến hàng tồn kho tăng lên; tuy nhiên, chúng tôi không có ý định sẽ giảm bớt đơn đặt hàng từ các nhà máy. Chúng tôi thường bắt đầu mua khi giá giao kỳ hạn tăng và bán khi giá này giảm do giá của tất cả các mặt hàng hiện nay sẽ theo thị trường giao sau một cách mật thiết, một đại lý ở Thượng Hải nói.

Một đại lý khác ở Thượng Hải cho hay công ty của ông sẽ không đặt mua thêm hàng mới từ các nhà máy trước khi xu hướng thị trường trở nên rõ ràng hơn mặc dù thép tấm trong kho đang giảm chỉ còn 700 tấn so với 3.000 tấn hồi trước Tết. 

Giá CRC Mỹ  giảm trong ngày thứ hai liên tiếp

Gía  CRC Mỹ đã giảm trong ngày thứ hai liên tiếp do giá tấm mỏng tiếp tục đà hạ, khiến các nhà máy phải cạnh tranh hơn để bán hàng.

Platts hạ giá CRC xuống mức 760-770 USD/tấn ngắn trong ngày 14/2 từ mức 765-780 USD/tấn ngắn trước đó, trong hki vẫn duy trì giá HRC tại mức 645-665 USD/tấn ngắn xuất xưởng Midwest.

Người mua cho hay có hai nhà máy tích hợp lớn tại Midwest vẫn chào bán CRC tại giá 780 USD/tấn ngắn nhưng các mức giá chào bán thấp vẫn hiện diện trong khu vực.

Một nhà sản xuất cho biết giá CRC hiện tại ở Midwest là 760 USD/tấn và có thể thấp hơn trong một số trường hợp. Các nhà máy EAF có thể buộc phải bán giá thấp để có thể cạnh tranh với hàng nhập khẩu. 

Phế toàn cầu giảm, Thổ Nhĩ kỳ giảm sâu

Giá phế tuần qua  tại Đông Nam Á tiếp tục suy yếu với việc nhà máy hàng đầu Nhật Bản Tokyo Steel đã hạ giá thu mua tất cả các loại phế xuống 500 Yên/tấn kể từ ngày 15/2 tại tất cả các công xưởng ngoại trừ Utsunomiya, kéo giá phế H2 xuống còn 34.500-36.000 Yên/tấn FOB.

Phiên đấu thầu phế của Tập đoàn Kanto Tetsugen diễn ra trong ngày 13/2 đã  thu được đơn dự thầu cao nhất tại mức giá 33.010 Yên/tấn (324 USD/tấn) FAS, giảm 2.350 Yên/tấn từ mức dự thầu cao nhất tháng trước đó. Trong khi các thương nhân đặt mục tiêu giá xuất khẩu phế H2 tại mức tối thiểu 34.000 Yên/tấn FOB, đây lại là mức giá quá cao đối với các khách hàng ngoài nước.

Tại Hàn Quốc, Hyundai Steel đang đặt mục tiêu thu mua phế H2 Nhật tại mức giá 33.000 Yên/tấn FOB, mặc dù không có đơn hàng nào được chốt tại mức này cuối tuần qua. Gía đặt mua phế H2 của Hyundai đạt mức 34.500-34.800 Yên/tấn FOB trong tuần cuối tháng 1.

Các nhà máy nhỏ ở Busan đang trả giá 330.000-340.000 Won/tấn (310-320 USD/tấn) đối với phế H2 trong ngày 14/2, tương tự hoặc giảm 5.000 Won/tấn so với tuần trước đó.

Phế HMS I/II khối lượng nhỏ (80:20) được giao  dịch tại mức 335 USD/tấn CFR Đài Loan trong tuần qua, giảm 5 USD/tấn so với tuần trước đó. Platts hạ giá phế HMS khối lượng nhỏ (80:20) Bờ Biển Tây Mỹ xuống mức 310-315 USD/tấn FAS cảng LA, với giá trung điểm hạ 2.5 USD/tấn trong ngày 13/2.

Các nguồn tin cho hay các nhà máy Hàn Quốc đang đặt mục tiêu  giá thu mua phế HMS1 khối lượng lớn tại mức 360-365 USD/tấn CFR nhưng các nhà cung cấp phế vẫn hào với giá 370 USD/tấn CFR Hàn Quốc. Trong khi  đó, các đơn hàng phế vụn từ Mỹ được bán với giá 377 USD/tấn CFR Malaysia trong tuần đầu tháng 2.

Platts hạ giá phế HMS I/II (80:20) chất lượng cao xuống 17 USD/tấn, đạt mức 350 USD/tấn CFR cảng Thổ Nhĩ Kỳ. Kể từ ngày 1/1, giá tới nay đã giảm tổng cộng 51 USD/tấn.

Các lô hàng phế cũng đã được đặt mua từ USEC, Anh và Tây Âu do các nhà cung cấp đã chuyển sang bán nhanh hàng tồn sau khi thị trường nhập khẩu Thổ nhĩ Kỳ trầm lắng suốt tháng 1. Một vài nhà nhập khẩu cho hay các nhà xuất khẩu phế Mỹ đã ghim hàng trong suốt đầu năm do họ cùng với các nhà máy thép Thổ Nhĩ Kỳ trông chờ vào sự khôi phục của nhu cầu xây dựng tại Đông Địa Trung Hải mà điều này không bao giờ thành hiện thực. Do đó, sản lượng thép Thổ Nhĩ Kỳ từ các nhà máy EAF  giảm trong tháng 1, nhập khẩu cạn kiệt và dẫn tới dư phế liệu.

Việc  giá phế sụt giảm tuần qua là điều bất thường trong mùa đông do nguồn cung tại Mỹ thắt chặt. 

Giá xuất khẩu HDG Ấn Độ không đổi do người mua phản ứng lại việc tăng giá 

Giá xuất khẩu HDG Ấn Độ vẫn giữ ổn định trong tuần trước, nhiều nhà sản xuất đã từ bỏ những nỗ lực nhằm nâng giá hồi đầu tuần trong bối cảnh gặp phải sự kháng cự từ phía người mua.

Giá giao dịch các lô hàng giao tháng 03 của thép cuộn dày 0.3mm phủ 90 gram kẽm trên một mét vuông hôm thứ Sáu vẫn duy trì tại 870-880 USD/tấn CFR Mỹ, không đổi kể từ tuần bắt đầu ngày 20/01. Mức giá này đã bao gồm phí vận chuyển khoảng 55-60  USD/tấn.

“Mặc dù chúng tôi nghe nói chào giá hiện nay từ một số nhà máy Ấn Độ khoảng 880-885 USD/tấn nhưng mức giá này vẫn chưa được chấp nhận trên thị trường”, một thương nhân ở Mumbai nói. Các khách hàng ở Mỹ sẽ phản ứng lại mức giá mới này và muốn đứng ngoài quan sát hơn là phải mua với giá cao hơn.

“Các nhà nhập khẩu có khả năng sẽ trì hoãn việc thu mua của họ nhưng các nhà máy Ấn Độ thì phải bán được hàng”, một thương nhân ở New Delhi nhận xét.

Tuy nhiên, các chào giá HDG cao hơn từ một số nhà sản xuất thép Ấn Độ vẫn được niêm yết để phản ánh giá HRC tăng ở cả thị trường trong nước và quốc tế. Như Platts đã đưa tin, tuần trước các nhà máy Ấn Độ đã nâng chào giá đối với HRC nội địa do khan hiếm  nguồn cung nguyên liệu.

Trong đó, JSW Steel và Essar Steel là hai nhà sản xuất thép đi đầu trong việc nâng giá xuất xưởng đối với những hợp đồng HRC trong tháng 02 cao hơn 1,3% so với tháng 01 lên 37.000-38.000 Rupee/tấn (594-610 USD/tấn).

“Chúng tôi sẽ tiếp tục quan sát diễn biến tâm lý thị trường nhưng không thể hạ chào giá xuất khẩu HDG xuống được. Chúng tôi không phải là tổ chức từ thiện. Nếu chúng tôi hạ giá xuống thì đồng nghĩa với việc bán dưới giá thành sản phẩm”, một nhân viên cấp cao của nhà máy thép ở Mumbai nói. 

Thương nhân mua hàng,  các nhà cán lại chờ đợi

Trong cuối tuần qua, một đơn hàng phôi thanh CIS sản xuất tháng 3 giao tháng 4 đã được kí kết với thương nhân theo điều khoản thanh toán tiền mặt 100%. Tuy nhiên, các nhà cán lại nhìn chung vẫn trầm lắng do họ đang chờ xem diễn biến giá tháng 3 sẽ như thế nào.

50.000 tấn phôi thanh sản xuất tháng 3 giao tháng 4 đã được bán tại mức giá 479 USD/tấn FOB Odessa do vài thương nhân đã đáp ứng được giá chào từ các nhà máy. Một vài đơn dự thầu sớm nhất tìm kiếm mức giá 475-476 USD/tấn FOB Odessa, tuy nhiên, giá này không được các nhà máy chấp nhận sau khi giá đã tiếp tục giảm còn 490 USD/tấn FOB cuối tuần qua.

Các thương nhân đang tìm kiếm  các lô hàng tháng 3 đến Ai Cập và Thổ Nhĩ Kỳ với  mức giá 480 USD/tấn FOB Biển Đen, tuy nhiên, vẫn chưa tìm được nhà máy nào ở CIS sẵn sàng bán tại mức giá này trong khi các nhà cán lại đang chờ xem diễn biến phế trước khi có ý định thu mua hàng.

Các vấn đề về việc giao hàng từ một số cảng biển đã kéo theo một khoản bảo hiểm đối lô hàng 15.000 tấn phôi thanh thứ  cấp  sản xuất tháng 2 giao nhanh tới một nhà cán lại  tại mức giá 480 USD/tấn FOB Yuzhne đầu tuần qua . Phôi thanh tháng 2 thường được cộng mức chiết khấu 15 USD/tấn, tuy nhiên, mức 495 USD/tấn FOB đối với phôi chất lượng cao là một thách thức đối với nhiều nhà máy lớn trong tuần qua.

Platts tăng giá phôi thanh Biển  Đen thêm 1 USD/tấn, đạt mức 487 USD/tấn FOB Biển Đen.  

Wugang giữ giá tháng 03 cho hầu hết các loại thép 

Wuhan Iron & Steel (Wugang) thông báo hôm thứ Sáu rằng sẽ giữ giá xuất xưởng của HRC, thép tấm và CRC loại tiêu chuẩn hàng hóa trong tháng 03, trong đó có CRC là tăng giá thêm 50 NDT/tấn (8 USD/tấn).

Theo đó, HRC Q235 5.5mm có giá xuất xưởng vẫn không đổi tại 3.370 NDT/tấn (556 USD/tấn), còn CRC Q195 1.0mm  thì vẫn duy trì tại 4.220 NDT/tấn, và thép tấm Q235 14-40mm có giá 3.600 NDT/tấn, các giá trên đều chưa có VAT 17%.

Wugang đã nâng giá bán tháng 03 đối với HDG MS2 lên thêm 220 NDT/tấn, HDG DX51-53 tăng thêm 100 NDT/tấn và thép cuộn mạ màu tăng 50 NDT/tấn.

Các thương nhân ở Thượng Hải và Lecong (Quảng Đông) cho biết chiến lược giá đã được dự đoán từ trước do thị trường giao ngay nhất là HRC và CRC tiêu chuẩn hàng hóa đã có thời gian tạm lắng kể từ tháng 01.

Các thương nhân giao dịch HRC nói rằng giá có lẽ đã gần với mức thấp nhưng khó mà tăng lại được ở thời điểm hiện nay do sự phục hồi của nhu cầu tiêu thụ không cao và hàng tồn kho tăng trong những ngày nghỉ Tết.

Theo các nguồn tin cho biết, HRC tồn kho tại Thượng Hải tăng đáng kể từ ngày 07-14/02, tăng 56.000 tấn lên 921.000 tấn. Một thương nhân ở Thượng Hải nói rằng do kỳ nghỉ Tết đã làm trì hoãn lượng hàng mới về và đến nay tất cả các loại thép cuộn đó đã được tung ra thị trường cùng một lúc.

Một nhà quan sát thị trường ở Thượng Hải nói rằng hầu hết các thương nhân vẫn dự định giữ hàng dự trữ ở mức thấp, một phần là để giảm những rủi ro trong bối cảnh thị trường bất ổn như hiện nay và vì họ phải đảm bảo dòng tiền mặt do tình trạng tín dụng thắt chặt.

Hôm thứ Sáu, HRC Q235 5.5mm có giá 3.410-3.440 NDT/tấn gồm VAT tại Thượng Hải, gần như không đổi so với ngày trước đó. Còn giá của loại thép này tại Lecong là 3.510-3.540 NDT/tấn, giảm 10 NDT/tấn.