Các nhà phân phối Nhật Bản vật lộn với giá thép tấm
Thị trường bán lẻ thép tấm dày loại thương phẩm của Nhật Bản đang bị quấy rối bởi một lượng hàng nhập khẩu ồ ạt tiếp tục cản trở các đại lý trong việc đạt được mức giá cao hơn đã bị trì hoãn lâu. Nhu cầu thép tấm ở thị trường giao ngay không đủ sôi động để hỗ trợ cho việc tăng giá.
Giá trên thị trường hiện nay cho thép tấm loại SS dày 19mm (1.524 x 3.480mm) ở Tokyo vào khoảng 84.000-86.000 Yên/tấn (785-803 USD/tấn) trong khi thép tấm loại không phải thương phẩm (thép tấm không đạt thông số kỹ thuật của Tiêu chuẩn công nghiệp Nhật Bản) cỡ 81.000-83.000 Yên/tấn. Giá của hai loại thép này đều không thay đổi nhiều kể từ cuối năm ngoái.
“Nhìn chung, nhu cầu thép tấm cao nhưng hầu hết đều là những khách hàng có hợp đồng lâu dài chẳng hạn như các nhà máy đóng tàu và sản xuất máy móc công nghiệp. Nhu cầu thị trường giao ngay đang tăng một cách chậm chạp, mà như vậy thì chắc chắn là không đủ sôi động để hậu thuẫn mức giá cao hơn”, một nhà phân phối ở Tokyo nói.
Một nhà phân phối khác nhấn mạnh rằng ưu tiên của các nhà máy trong nước hiện nay là dành cho người mua lâu dài, chứ không phải thị trường giao ngay, vì vậy các đại lý đang đặt mua hàng nhập khẩu để tích trữ. “Nhưng thép nhập khẩu gia tăng đang làm mất cân bằng cung cầu trên thị trường giao ngay và điều này đang làm cản trở giá tăng”.
Nhật Bản đã nhập khẩu 246.770 tấn thép tấm từ tháng 04 đến tháng 07, tăng 78% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, thép nhập khẩu từ Hàn Quốc tăng 22% so với năm trước lên 155.688 tấn, còn từ Trung Quốc vượt lên 73.858 tấn so với con số chỉ có 269 triệu tấn của cùng kỳ năm 2013.
“Các khách hàng Nhật Bản đã đặt mua thép nhập khẩu để đảm bảo có đủ hàng hòng bù đắp sự thiếu hụt nguồn cung từ các nhà máy trong nước, điều này đã làm tăng tổng lượng tồn kho trên thị trường. Thép tấm dự trữ tại các xưởng gia công hồi cuối tháng 07 là 411.403 tấn, tăng 18% so với năm ngoái, theo Zenkoku Atsuita Shearing Kogyo Kumiai, một nhóm của các xưởng gia công thép tấm.
“Nhưng đồng Yên mất giá nhanh trong tháng 09 vì vậy các hợp đồng nhập khẩu có lẽ sẽ giảm”. Hôm thứ Ba, tỷ giá dao động quanh mức 1 USD đổi được 107 Yên, giảm từ mức trung bình 103,97 Yên/ USD của tháng 08.
Giá thép cây Mỹ vẫn bình ổn nhờ nguồn cung thắt chặt
Quyết định không chống bán phá giá thép cây Thổ Nhĩ Kỳ nhập khẩu tuần qua đã đi ngược lại với mong muốn tăng giá chào bán trong bán của các nhà máy Mỹ, tuy nhiên, nguồn cung tại Northeast và Midwest vẫn chặt đủ để hỗ trợ giá.
Một nhà phân phối tại Northeast Mỹ cho biết có một nhà máy đã không giữ phí vận chuyển ngang bằng với đối thủ nữa và cũng đang gặp khó khăn trong việc cung đủ thép cho khách, yêu cầu người mua cắt giảm khối lượng đơn hàng.
Giá thép cây đang bình ổn tại mức 660 USD/tấn xuất xưởng . Thép cây Midwest theo Platts cũng ở nguyên tại mức 660-670 USD/tấn xuất xưởng.
Thêm hai nhà máy Trung Quốc giảm giá tháng 10 cho HRC
Hôm thứ Ba, hai nhà máy miền bắc Trung Quốc Anshan Iron & Steel (Angang) và Baotou Iron & Steel (Baogang) đã thông báo sẽ giảm giá xuất xưởng tháng 10 cho HRC xuống lần lượt 200 NDT/tấn (33 USD/tấn) và 180 NDT/tấn để phù hợp với đà giảm mạnh của giá trên thị trường nội địa gần đây.
Như vậy tính đến nay đã có 5 nhà máy hàng đầu trong nước ra thông báo điều chỉnh giảm giá HRC tháng 10. Ba nhà máy khác gồm có Baosteel, Wuhan Iron & Steel (Wugang) và Hebei Iron & Steel (Hegang). Những điều chỉnh giảm này đã được dự đoán sau khi Baosteel công bố giảm giá đầu tiên xuống 100 NDT/tấn vào thứ Tư tuần trước.
Theo các thông báo này, giá xuất xưởng tháng 10 của Angang cho HRC Q235 5.5mm hiện nay thấp hơn 200 NDT/tấn còn 3.310 NDT/tấn trong khi giá của Baogang cho HRC loại tương tự giảm 180 NDT/tấn xuống 3.460 NDT/tấn.
Wugang và Hegang, đã công bố giá tháng 10 của họ vào cuối ngày thứ Hai, và sẽ giảm giá HRC Q235 5.5mm xuống lần lượt 100 NDT/tấn và 200 NDT/tấn còn 3.290 NDT/tấn và 3.300 NDT/tấn. Giá bán của Wugang, Baosteel và Angang là chưa bao gồm VAT 17%, trong khi giá của Hegang và Baogang là đã có thuế.
“Chúng tôi đã giảm giá HRC xuất xưởng do chênh lệch lớn với giá giao ngay”, theo nguồn tin từ Wugang xác nhận hôm thứ Ba. Tháng trước, Wugang đã đi ngược xu hướng này và tăng giá xuất xưởng HRC tháng 09 lên 20 NDT/tấn, nhằm nỗ lực để nâng đỡ thị trường giao ngay. Nhưng giá giao ngay HRC ở Thượng Hải đã sụt giảm 350 NDT/tấn kể từ thông báo đó của công ty.
Triển vọng giá cho HRC trong nước vào những ngày còn lại của tháng 09 vẫn còn u ám mặc dù có sự phục hồi mạnh trong ngày đầu tuần. Các nhà máy và cả thương nhân đều tin rằng việc tăng giá tại các đại lý sẽ rất ngắn ngủi. Nguyên nhân là do sức mua trực tiếp trì trệ, giá HRC có thể giảm thêm một lần nữa sau khi có đợt gọi là sự điều chỉnh giá.
Hôm thứ Ba, Platts tăng định giá cho HRC Q235 5.5mm lên 3.010-3.040 NDT/tấn, tăng 10 NDT/tấn so với thứ hai.
Thị trường thép cuộn Mỹ ít giao dịch do SNA đã ngưng nhận đơn hàng
Thị trường thép cuộn Mỹ vẫn trầm lắng trong ngày hôm qua do ai cũng đang đổ dồn hướng tập trung vào việc thu mua tại nhà máy Gallatin Steel của Nucor cũng như Severstal hoàn thành chuyển nhượng lại một nhà máy ở Bắc Mỹ.
Platts vẫn duy trì giá HRC và CRC lần lượt tại mức 660-670 USD/tấn và 780-790 USD/tấn xuất xưởng Midwest (Indiana).
Việc thu mua lại nhà máy Gallatin Steel của Nucor đã tạo hiệu ứng tích cực củng cố tâm lý thị trường. Vài nguồn tin cho rằng Nucor sẽ sử dụng nhà máy mới này để sản xuất thép mạ và cán nguội.
Thêm vào đó, người mua cũng tò mò liệu việc mua lại AK Steel của nhà máy Severstal Dearborn sẽ tác động thế nào tới thị trường. Nhìn chung, thị trường ngày qua đã trôi qua trong im ắng.
Một nhà máy mini ở Midwest hiện không còn HRC có sẵn nhưng CRC thì vẫn còn để giao hàng trong tuần 27/10. Một trung tâm dịch vụ đã chào mua HRC tới một nhà máy và nhận được giá chào bán là 670 USD/tấn xuất xưởng giao tuần 20/10.
Một trung tâm khác cho biết không thấy nhà máy nào bán HRC giao nhanh và nghi ngờ rằng giá HRC xuất xưởng của các nhà máy vẫn ở mức 665-670 USD/tấn và có thể giảm nhẹ đối với các đơn hàng lớn.
Các nhà máy thép cây/phôi thanh Thổ Nhĩ Kỳ đối mặt với áp lực chi phí đầu vào tăng
Do các nhà máy CIS đã hạ giá chào bán phôi thanh tới Thổ Nhĩ Kỳ xuống 5-10 USD/tấn trong tuần qua để cạnh tranh với giá nhập khẩu rẻ từ Trung Quốc, người mua Thổ Nhĩ Kỳ đã chuyển hướng sang hàng nhập khẩu. Trong khi đó, chi phí đầu vào tiếp tục tăng dựa vào sự suy yếu của đồng Lira trong bối cảnh sức mua thấp đã gia tăng áp lực lên các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ.
Giá chào phôi thanh từ các nhà máy nội địa vẫn ở mức 530-540 USD/tấn xuất xưởng trong khi giá chào nhập khẩu từ CIS hiện tại là 515-525 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ tùy thuộc vào cảng nhập khẩu. Gía chào phôi thanh Trung Quốc cũng vẫn rẻ hơn tại mức 500-505 USD/tấn CFR.
Mặc dù các nhà máy vẫn chưa nhận được nhiều đơn đặt hàng phôi thanh từ thị trường nội địa kể từ đầu tháng 9 do đồng dolla tăng kéo chi phí sản xuất tăng theo, các nguồn tin cho rằng giá sẽ không giảm nữa trong thời gian tới. Thay vào đó, có thể giá sẽ nhích thêm một ít.
Nhà máy Kardemir Thổ Nhĩ Kỳ đã ngưng nhận đơn hàng thép cây vào ngày 16/9 sau khi nhận được các đơn hàng có tổng khối lượng 30.000 tấn. Các nguồn tin dự báo Kardemir sẽ trở lại nhận đơn hàng với giá cao hơn trong những ngày tới dựa vào phí đầu vào tăng.
Giá chào thép cây 12-32mm hiện tại từ các nhà máy trong nước là 577-587 USD/tấn chưa tính VAT 18% trong khi giá chào xuất khẩu là 570-580 USD/tấn FOB. Tuy nhiên, các đơn hàng xuất khẩu phần lớn được chốt tại mức 570-575 USD/tấn do nhu cầu tiêu thụ thấp và thị trường cho rằng giá sẽ giảm nữa về mức 560 USD/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ.
Giá trong nước của HRC Ấn Độ giảm do hàng nhập khẩu rẻ hơn
Giá HRC tại thị trường nội địa Ấn Độ vẫn suy yếu trong tuần này giữa bối cảnh sức ép gia tăng từ HRC Trung Quốc với giá thấp hơn.
Giá giao dịch cho HRC loại IS 2062 A/B dày từ 3mm trở lên được thực hiện ở mức 34.500-35.500 rupees/tấn (565-597 USD/tấn) xuất xưởng, không đổi so với tuần trước. Mức giá này tương đương 526-555 USD/tấn CFR Mumbai (với thuế suất nhập khẩu 7.5%).
Một nhà tích trữ ở Andhra Pradesh, miền nam Ấn Độ đã mua khoảng 400 tấn HRC với độ dày khác nhau suốt tuần qua từ các nhà máy trong nước. Ông này đã mua khoảng 160 tấn HRC dày từ 5mm trở lên với giá 42.000 rupees/tấn gồm phí vận chuyển (32.340 rupees/tấn xuất xưởng). Ông đã mua thêm 240 tấn HRC loại dày 4mm với giá 45.000 rupees/tấn gồm phí vận chuyển (34.650 rupees/tấn) tới Visakhapatnam.
Nhà tích trữ này dự đoán nhu cầu trong nước sẽ giảm nhẹ trong những tuần tới. Vì hầu hết người mua Ấn Độ đều đã mua tích trữ thêm HRC trong suốt hai tuần qua cho mùa lễ hội sắp tới.
Một thương nhân khác ở Mumbai nói rằng ông đã thực hiện mua HRC với khối lượng không đáng kể từ các nhà máy trong nước để giao ngay tới các khách hàng của ông trong hai tuần tới. Đồng thời, ông cũng đang theo dõi để mua một khối lượng HRC lớn hơn từ người bán Trung Quốc. Ông đang nhận được chào giá cho HRC loại thương phẩm SS400 dày từ 3mm trở lên xuất xứ Trung Quốc khoảng 515-520 USD/tấn CFR Mumbai (480-485 USD/tấn FOB Trung Quốc). Tuy nhiên, ông đang đặt mục tiêu sẽ đặt mua với giá 500-510 USD/tấn CFR Mumbai.
Trong khi đó, đại diện một nhà máy ở Mumbai cho hay ông vẫn chưa nghe nói đến bất kỳ chào giá nhập khẩu nào từ người bán Trung Quốc mà dưới 500 USD/tấn FOB. Tuy nhiên, ông cho biết bây giờ chỉ mới giữa tháng và hãy còn quá sớm để nhà máy của ông thực hiện bất kỳ sự điều chỉnh giá nào.
Giá thép cây dao động ở miền bắc Trung Quốc vì phôi thanh suy yếu hơn
Giá thép cây ở miền bắc Trung Quốc sụt giảm trong ngày thứ Ba bất chấp những nỗ lực trước đó của Hebei Iron & Steel (Hegang) nhằm bình ổn thị trường. Tại thị trường bán lẻ Bắc Kinh, giá giao ngay cho thép cây HRB400 đường kính 18-25mm được chốt ở mức 2.825-2.835 NDT/tấn (460-461 USD/tấn) trọng lượng thực tế và gồm VAT 17%, giảm 50 NDT/tấn so với thứ Hai.
Hegang đã chỉ thị cho các đại lý của mình ở Bắc Kinh phải bán thép cây HRB400 đường kính 18-25mm với giá thấp nhất là 2.910 NDT/tấn trọng lượng thực tế từ ngày 10-15/9. Với thời gian áp dụng giá sàn như trên có hiệu lực và do giá phôi thanh giảm vào chiều thứ Hai nên giá thép cây giao ngay đã sụt giảm trong ngày thứ Ba khi các đại lý chọn cách tăng cường doanh số bán ra trong bối cảnh tồn kho đang dồn ứ.
Một thương nhân Bắc Kinh nói rằng ông đã dự đoán giá thép cây sẽ dao động quanh mức thấp do thị trường bất động sản suy yếu. Cục Thống kê quốc gia (NBS) tiết lộ vào cuối tuần trước rằng tăng trưởng trong đầu tư bất động sản tiếp tục chậm lại do tốc độ đầu tư trong giai đoạn 8 tháng đầu năm nay giảm 0.5 điểm phần trăm so với 7 tháng đầu năm xuống 13,2% so với năm ngoái.
Tuy nhiên, đối ngược với thị trường Bắc Kinh, giá chào bán thép cây ở Thượng Hải lại tăng khoảng 80-120 NDT/tấn kể từ thứ hai lên 2.810-2.870 NDT/tấn. Các nhà cung cấp lạc quan hơn vì giá giao kỳ hạn của thép cây cao hơn trong ngày đầu tuần cùng với tồn kho trên thị trường thấp.
Thế nhưng hợp đồng thép cây giao kỳ hạn tháng 01 trên sàn Shanghai Futures Exchange lại đảo chiều tăng gần đây và để mất 1.34% trong ngày thứ Ba, chốt phiên với giá 2.788 NDT/tấn. Theo sau đà rớt giá, sức mua giao ngay cũng suy yếu trong ngày thứ Ba ở Thượng Hải. Một thương nhân ở miền đông tin rằng sự phục hồi trong chào giá thép cây ở Thượng Hải chỉ là tạm thời vì thị trường cơ bản không đổi.
Giá phôi phiến Nga tăng, người mua kháng cự
Với sự ngưng sản xuất của các nhà máy ở Alchevsk, Ukraina, xuất khẩu phôi phiến CIS hoàn toàn nằm trong tay nước Nga. Đây dường như là lý do quan trọng nhất đằng sau nỗ lực tăng giá phôi phiến thêm 10-15 USD/tấn so với cách đây nửa tháng. Hiện tại, họ đang chào bán phôi phiến sản xuất tháng 10-11 tới Thổ Nhĩ Kỳ tại mức 510-515 USD/tấn CFR, tương đương mức 490-495 USD/tấn FOB Biển Đen.
Một vài nhà cán lại phôi phiến cho biết họ sẽ đồng ý với mức tăng 5 USD/tấn mà đưa giá lên mức 495-500 USD/tấn (475-485 USD/tấn FOB) từ mức 490-495 USD/tấn trước đó (470-480 USD/tấn) với chi phí vận chuyển tầm 15-20 USD/tấn.
Trong khi đó, tình hình trì trệ của thị trường HRC là lý do khiến giá phôi phiến không thể tăng mạnh Giá nguyên liệu thô, đặc biệt là quặng sắt vẫn yếu kéo theo chi phí sản xuất phôi phiến của các nhà máy tích hợp giảm. Quan trọng nhất là nhu cầu tiêu thụ HRC, nắm giữ vai trò đầu tàu của giá phôi phiến, không đủ mạnh để có thể hỗ trợ đà tăng này bền vững. Một vài nhà máy chào bán tại giá cao nhưng cuối cùng giá giao dịch lại thấp đáng kể so với mức chào bán.
Khách hàng tại Châu Âu có thể vẫn giữ nguyên giá chào mua do chi phí thu mua phôi phiến bằng đồng Euro tăng dựa trên sự suy yếu của đồng tiền này gần đây. Trong ngày 28-29/8, 1 Euro tương đương 1.32 USD, tuy nhiên, sau đó đã giảm xuống còn 1.29 USD vào giữa tháng 9. Điều này đồng nghĩa với vẫn giá bán 480 USD/tấn, giá mua bằng đồng Euro sẽ tăng thêm 10 Euro/tấn từ mức 363 Euro/tấn lên 372 Euro/tấn.
Trong cùng thời gian này, đồng Rub cũng giảm so với đồng dolla từ mức 37.06 Rub/1 USD cuối tháng 8 xuống 38.1 Euro/1 USD ngày 16/9. Do đó, các nhà máy phôi phiến Nga nên hành động thay vì lãng phí thời gian chờ đợi giá tăng được người mua chấp nhận.
Giá CRC xuất khẩu của Trung Quốc tiếp tục suy yếu
Giá xuất khẩu CRC Trung Quốc tiếp tục suy yếu trong tuần này, khi mà các nhà sản xuất đối mặt với lượng đơn đặt hàng bị thu hẹp và thị trường CRC trong nước vẫn còn ảm đạm. Mặc dù giá HRC trong nước đã có thời gian phục hồi trở lại trong vài ngày qua nhưng các thương nhân vẫn còn bi quan thị trường nội địa lẫn xuất khẩu CRC.
Hôm thứ Ba, Platts định giá xuất khẩu cho CRC SPCC 1.0mm là 561,5 USD/tấn FOB, giảm 1 USD/tấn so với tuần trước. Một thương nhân ở Thượng Hải cho biết gần đây ông đã chốt được một hợp đồng cho CRC SPCC 1.0mm với giá 558 USD/tấn FOB, thấp hơn khoảng 2 USD/tấn so với đầu tuần trước. Sức mua ở nước ngoài vẫn còn èo uột ở mức giá này, và sự phục hồi gần đây trên thị trường HRC nội địa chỉ là ngắn ngủi vì vậy hãy còn quá sớm để nói là liệu giá xuất khẩu CRC đã chạm đáy hay chưa.
Một nhà xuất khẩu khác cho biết một nhà máy ở miền bắc Trung Quốc vẫn còn giữ mức giá 565 USD/tấn FOB và nghe nói một vài hợp đồng có giá này. Tuy nhiên, ông nghe nói một vài nhà máy khác đã chào giá 560 USD/tấn FOB trong một nỗ lực nhằm thu hút đơn đặt hàng.
Các nhà xuất khẩu được Platts khảo sát đều không tin là giá xuất khẩu có thể phục hồi trong thời gian ngắn do nhu cầu trì trệ và giá trong nước thấp. Một người cho biết thêm do thị trường CRC nội địa không thể cải thiện trong những tháng tới, ngay cả khi giá xuất khẩu có phục hồi trong tương lai đi chăng nữa, thì cũng chỉ là một sự điều chỉnh thị trường và không thể kéo dài được.
Tại thị trường nội địa hôm thứ Ba, CRC SPCC 1.0mm được giao dịch phổ biến ở mức 3.850-3.970 NDT/tấn (626-647 USD/tấn) gồm VAT 17% tại Thượng Hải, giảm 10 NDT/tấn so với đầu tuần trước.
CRC tồn kho tại 23 nhà máy lớn tăng rất nhẹ vào tuần trước lên 1,45 triệu tấn, đánh dấu lần tăng đầu tiên sau 6 tuần giảm liên tiếp.