Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 17/11/2014

Trung Quốc: Giá nhập khẩu quặng chrome tăng nhẹ

Platts định giá giao ngay cho quặng chrome xuất xứ Nam Phi (48-52% Cr) là 78-80 cents/lb CIF Trung Quốc trong ngày thứ sáu tuần trước so với 77-80 cents/lb CIF của một tuần trước đó trong bối cảnh tâm lý cải thiện trên thị trường.

Các giao dịch được nghe nói ở mức 79 cents/lb CIF trong tuần trước, với nhiều người chốt giá có thể giao dịch trong khoảng 78-80 cents/lb CIF. Chào giá 77 cents/lb CIF không còn nghe nói hồi tuần trước nữa; ngoài ra hầu hết mọi người đều thấy các nhà cung cấp sẽ sẵn lòng giảm giá tới mức này.

Tâm lý trên thị trường đã cải thiện sau khi sản lượng ở Nội Mông Cổ sụt giảm và các nhà sản xuất thép không gỉ lớn trong nước giữ giá mua ferrochrome tháng 11 ổn định. “Khách hàng dự báo giá sẽ không giảm thêm nữa nên đã quay lại thị trường để mua hàng giao tháng 12”, đại diện một nhà sản xuất ở Nam Phi cho biết.

Đa số các nhà quan sát đều dự báo giá ferrochrome trong nước và nhập khẩu của Trung Quốc sẽ vẫn duy trì ổn định trong thời gian ngắn. Nhưng bất cứ sự tăng giá nào cũng sẽ không thể vì nhu cầu và giá trên thị trường thép không gỉ nội địa vẫn còn suy yếu. Bất kỳ đà tăng nào tới giá ferrochrome cũng có thể sẽ bị hạn chế bởi thanh khoản eo hẹp hơn tại hầu hết các công ty của Trung Quốc vào cuối năm.

Giá giao ngay của ferrochrome hàm lượng cacbon cao (58-60% Cr) từ Ấn Độ được chốt ở mức 82-84 cents/lb CIF Trung Quốc trong ngày thứ sáu, không đổi so với tuần trước đó do chào giá và giao dịch thưa thớt trên thị trường. Các nhà cung cấp Ấn Độ đã hạn chế nguyên liệu giao ngay để chào bán ra thị trường do nguồn cung giảm.

Giá giao ngay trong nước của ferrochrome hàm lượng cacbon cao (50% Cr) từ Trung Quốc được chốt tại 6.200-6.400 NDT/tấn (tương đương 76-79 cents/lb) hôm thứ Tư, không đổi so với tuần trước đó.

 

Giá CRC không gỉ Châu Á đi ngang trên thị trường trầm lắng

Platts định giá CRC không gỉ cho Đài Loan và Hàn Quốc loại 304 2B dày 2mm là 2.350-2.450 USD/tấn CFR tại các cảng Đông Á và Đông Nam Á hồi thứ sáu tuần trước, không đổi so với giá của tuần trước đó trong bối cảnh giao dịch trầm lắng.

Không có giao dịch nào được xác nhận do khách hàng tiếp tục từ chối mua. Chào giá từ Hàn Quốc và Đài Loan vẫn không đổi so với tuần trước đó, lần lượt là 2.400-2.450 USD/tấn CFR và 2.400-2.600 USD/tấn CFR. Một chào giá cho CRC Đài Loan được nghe nói là 2.300 USD/tấn CFR Đông Nam Á nhưng mức giá này không được đưa vào định giá vì chào giá này không phổ biến và thông số kỹ thuật cũng không rõ.

Các thương nhân cho biết suy đoán giá của người mua quanh mức 2.300-2.350 USD/tấn CFR, nhưng mức giá thấp nhất mà người bán sẵn sàng cung cấp là 2.350 USD/tấn CFR. Hầu hết các nguồn tin đều không thấy mức giá 2.300 USD/tấn CFR có thể giao dịch. “Các khách hàng Trung Quốc muốn giá 2.300 USD/tấn CFR nhưng nhiều nhà cung cấp sẽ không giảm giá tới mức này. Nếu giá niken giảm sâu hơn thì có lẽ sẽ chạm tới mức này”, một thương nhân ở Hong Kong nói.

Một nhà kinh doanh ở miền trung Đài Loan cho biết công ty bà giữ chào giá không đổi trong hai tuần qua mặc dù sức mua chậm. “Thị trường trầm lắng bất kể giá mà các nhà cung cấp chào bán. Đây là giai đoạn khó khăn cho các nhà cung cấp bán ra. Nếu chúng tôi yết giá thấp hơn thì có lẽ sẽ mất tiền”.

Giá giao dịch chính thức bằng tiền mặt của niken trên sàn London Metal Exchange dao động từ 15.050-15.550 USD/tấn trong tuần qua trước khi chốt ở mức 15.510-15.525 USD/tấn hôm 13/11, tăng khoảng 250 USD/tấn so với 1 tuần trước đó. 

Ống đúc miền đông Trung Quốc ổn định do giá thép tròn đặc không đổi 

Giá giao ngay của ống đúc ở Thượng Hải ổn định trong tuần trước nhờ nguồn cung thép tròn đặc tương đối hạn chế ở tỉnh Sơn Đông đã hỗ trợ cho giá.

Các nhà máy thép ở Sơn Đông, một khu vực chuyên cung cấp thép tròn đặc và ống đúc, đã giảm hay ngừng sản xuất kể từ khoảng ngày 06/11 để giảm ô nhiễm trong suốt thời gian diễn ra Hội nghị APEC ở Bắc Kinh và điều này tạo ra nguồn cung thép tròn đặc tạm thời bị hạn chế trong tuần trước.

Giá ống đúc giao ngay loại 20# 219x6mm (GB/T 8163) được sản xuất từ các nhà máy ở miền đông Trung Quốc là 3.600 NDT/tấn (588 USD/tấn) gồm VAT 17% ở Thượng Hải trong ngày thứ sáu, không đổi so với tuần trước.

Mức tồn kho thấp và giá thép tròn đặc ổn định là hai yếu tố chính hậu thuẫn cho giá ống thép ở thời điểm này. Nhưng nhu cầu đã bắt đầu thu hẹp lại khi mùa đông đến vào tháng này. Do đó, những ảnh hưởng của việc hạn chế sản xuất tại các nhà máy ở Sơn Đông trong hội nghị APEC không đáng kể, do hầu hết các nhà máy thép ống không bắt chước tăng giá xuất xưởng của họ.

Một vài nhà sản xuất ở miền đông Trung Quốc hôm 11/11 cho biết họ sẽ nâng giá thép tròn đặc 20# lên thêm 100 NDT/tấn cho thời gian từ ngày 11-20/11. Giá của thép tròn đặc 20# 50-130mm được sản xuất từ Zenith Steel Group và Changqiang Iron & Steel- hai nhà sản xuất ở tỉnh Giang Tô- đã tăng lên lần lượt 3.120 NDT/tấn và 3.070 NDT/tấn xuất xưởng gồm VAT.

Giá của thép tròn tương tự được cung cấp bởi Huaigang Special Steel ở Giang Tô tăng thêm 100 NDT/tấn lên 3.100 NDT/tấn. Trong khi đó, Weifang Special Steel ở Sơn Đông hôm 07/11 nâng giá thêm 30 NDT/tấn lên 2.780 NDT/tấn cho giữa tháng 11 gồm VAT. 

Xuất khẩu phôi thanh Nhật Bản cạnh tranh ở Đông Nam Á do đồng Yên suy yếu

Sức mua nhập khẩu phôi thanh vẫn còn thưa thớt ở Đông Nam Á trong tuần trước do giá phế và tâm lý suy yếu. Trong khi đó, sự mạnh lên của đôla Mỹ đã làm hạn chế quan tâm thu mua từ phía các nhà nhập khẩu, hay nói cách khác các nhà cung cấp của Nhật có tính cạnh tranh nhờ được hỗ trợ bởi sự suy yếu của đồng Yên.

Một lô phôi thanh Nhật Bản 6.000 tấn tuần trước nghe nói được chào giá 465 USD/tấn CFR Thái Lan để giao tháng 01. Hôm thứ Sáu, một nhà kinh doanh người Thái cho biết phôi thanh của Nhật được chào giá 460 USD/tấn CFR nhưng một người khác cho hay mức giá thấp hơn là có thể do các thương nhân mời mọc ở mức giá này.

Chào giá cho phôi thanh Nhật Bản vận chuyển cuối tháng 12 và tháng 01 được nghe nói là 52.000 Yên/tấn CFR Hàn Quốc, tương đương 448 USD/tấn CFR. “Giá phôi thanh Nhật Bản đã giảm chỉ bởi vì đồng Yên rất suy yếu”, một thương nhân Hàn Quốc cho biết hôm thứ Sáu. Ông nói rằng các nhà xuất khẩu Nhật Bản đang bán với giá tính bằng đôla Mỹ-nếu đổi từ Yên sang thì tương đương khoảng 473 USD/tấn CFR vào cỡ hai tuần trước.

Với chào giá 445-450 USD/tấn CFR Hàn Quốc từ Trung Quốc, thì phôi thanh của nước này đã mất tính cạnh tranh. Người mua Hàn Quốc đang đặt mua phôi thanh của Trung Quốc với giá thấp hơn 10 USD/tấn.

Tuần trước, phôi thanh Trung Quốc được chào giá 445-448 USD/tấn CFR Philippines, nhưng các nhà nhập khẩu đưa ra giá mua chỉ có 440 USD/tấn CFR. “Bây giờ là thị trường của người mua. Họ đang có thời gian thuận lợi để đặt hàng”.

Chào giá phôi thanh Trung Quốc phổ biến ở mức 450-460 USD/tấn CFR Indonesia. “Đồng rupiah đang giảm. Chúng tôi sợ không có ai mua”, một nhà cán lại Indonesia cho biết. Ông nói rằng nhu cầu thép cây rất ít và ông đang tìm nguồn cung cấp phôi thanh được sản xuất trong nước.

Do phôi thanh Trung Quốc được khai man thành thép thanh vuông chứa hợp kim nên người mua phải đối mặt với rủi ro nếu như chính sách xuất khẩu cho thép chứa nguyên tố bo thay đổi vào đầu năm tới. Các thương nhân cho biết người mua phôi thanh không chấp nhận. Các hợp đồng của Trung Quốc quy định rằng người mua phải chịu một nửa chi phí nếu có bất kỳ sự gỡ bỏ giảm giá xuất khẩu nào.

Hôm thứ Sáu, Platts định giá phôi thanh nhập khẩu của Đông Á giảm còn 450-465 USD/tấn CFR từ 460-470 USD/tấn của tuần trước. 

Thép cây miền bắc Trung Quốc lại giảm trong lúc sức mua trì trệ 

Giá thép cây ở miền bắc Trung Quốc sụt giảm trong ngày thứ Sáu, do một số đại lý phải sử dụng đến việc giảm giá để kích cầu. Điều này đánh dấu sự chấm hết của đà phục hồi nhẹ hồi thứ năm tuần trước, ngày đầu tiên khi giao dịch thép trở lại ở trong và quanh thủ đô sau khi kết thúc Hội nghị APEC.

Hôm thứ Sáu, giá giao ngay của thép cây HRB400 đường kính 18-25mm được chốt ở mức 2.690-2.700 NDT/tấn trọng lượng thực tế (439-440 USD/tấn) gồm VAT 17%, giảm 20 NDT/tấn (3 USD/tấn) so với ngày trước đó. Mức giảm này đã san bằng mức tăng tương tự từng đạt được hồi thứ Năm tuần trước.

Đà tăng hồi thứ năm chỉ đạt được trong thời gian ngắn ngủi bởi vì thiếu sự hỗ trợ từ nhu cầu trực tiếp. Hôm thứ Sáu, một vài đại lý thậm chí còn hạ chào giá lần thứ hai do sức mua không đủ mạnh.

Thép cây tồn kho tích trữ tại các đại lý tăng mạnh sau hội nghị APEC. Theo nhà cung cấp thông tin Mysteel ở Thượng Hải, thép cây tồn kho ở thị trường Bắc Kinh giảm 31.300 tấn tức 13,7% so với tuần trước còn 259.700 tấn vào ngày 14/11.

Sức mua trì trệ trong bối cảnh các yếu tố mùa vụ được cho là sẽ gây sức ép lên giá một cách rộng rãi. Thời tiết lạnh giá đã làm ngưng hầu hết việc xây dựng ở một số khu vực của miền bắc, khiến một vài nhà máy ở đây bắt đầu vận chuyển thép tới những nơi ấm áp hơn như miền đông và nam.

Việc vận chuyển bổ sung từ miền bắc và những suy đoán lượng thép tăng thêm đã làm suy yếu giá ở miền đông. Cụ thể, thép cây HRB400 đường kính 18-25mm ở Thượng Hải được chốt ở mức 2.870-2.900 NDT/tấn trọng lượng lý thuyết và VAT 17%, giảm 25 NDT/tấn so với tuần trước. 

Các nhà máy thép cây Nga giảm giá do sức mua suy yếu

Các nhà máy thép cây Nga đang đối mặt với khả năng tiếp tục giảm giá trong tháng này dựa trên nhu cầu tiêu thụ suy yếu cả trong nước và thị trường xuất khẩu. Vài nguồn tin cho hay giá đã giảm 500-510 Rub/tấn (10.6-10.8 USD/tấn), và giá có thể còn giảm nữa.

Kể từ đầu tháng 11, giá xuất khẩu thép cây đã giảm hơn nữa. Gía phế bán theo FOB Biển Đen đã giảm từ mức 2929 USD/tấn trong tháng 11 xuống mức 270 USD/tấn trong ngày 13/11.  Cũng trong 10 ngày này, giá phôi thanh Biển Đen giảm từ mức 460 USD/tấn xuống mức 444 USD/tấn. Kể từ đầu tháng 9, giá phế và phôi thanh đã giảm 80 USD/tấn và 70 USD/tấn từ mức 350 USD/tấn và 515 USD/tấn FOB Biển Đen.

Giá bán thép cây phổ biến từ các nhà phân phối cũng giảm. Tại thị trường Maxcova, giá thép cây có sẵn tại mức 24.500-24.800 Rub/tấn (519-525 USD/tấn) xuất xưởng đã tính VAT 18%, giảm 400 Rub/tấn từ mức cách đây 10 ngày.

Mặc dù giá thép cây sản xuất tháng 11 vẫn không đổi, giá thép cây 12mm và 14mm giao tại Maxcova đạt mức 25.100 Rub/tấn (533 USD/tấn) và 24.700 Rub/tấn (524 USD/tấn), tuy nhiên, những mức giá này dường như không thực tế. Nhiều nhà máy lớn đã giảm giá thép cây 12mm xuống mức 24.200-24.800 Rub/tấn (514-526 USD/tấn) và 14mm xuống mức 23.800-24.400 Rub/tấn (505-518 USD/tấn). Nếu chưa tính VAT, giá sẽ đạt mức 20.510-21.020 Rub/tấn (436-447 USD/tấn) và 20.170-10.680 Rub/tấn (429-440 Platts giảm giá thép cây nội địa Nga xuống mức 20.430-20.750 Rub/tấn (434-440 USD/tấn) CPT Maxcova từ mức 21.000-21.270 Rub/tấn (505-512 USD/tấn)- mức tỷ giá ngày 27/10.

Posco có thể giảm khối lượng xuất khẩu HRC tới Nhật Bản 

Posco, nhà xuất khẩu HRC lớn nhất của Hàn Quốc tới Nhật Bản, có lẽ sẽ giảm khối lượng xuất khẩu tới nước này do tỷ giá hối đoái bất lợi.

Đại diện bán hàng tại chi nhánh Osaka của Posco Nhật Bản không có lời bình luận nhưng một thương nhân ở miền tây Nhật Bản cho biết “gã khổng lồ” của Hàn Quốc luôn đặt mục tiêu giá của các đối thủ cạnh tranh liên hợp Nhật Bản trước khi thiết lập giá xuất khẩu.

“Nhưng Yên Nhật đang suy yếu vì vậy lợi nhuận của Posco tính bằng Won sụt giảm”.

Giá của HRC SPHC 1.7-22mm được sản xuất bởi các nhà máy liên hợp Nhật Bản khoảng 62.000 Yên/tấn (536 USD/tấn), gần như không đổi so với quý trước. Mức giá đó hiện nay chuyển sang Won tương đương khoảng 589.000 Won/tấn, khi ba tháng trước giá đổi từ Yên sang Won cao hơn gần 7%.

“Posco sẽ không thể lờ đi sự hao hụt này vì nó không nhỏ. Đơn hàng đặt mua trong tháng 11 sẽ được vận chuyển vào khoảng tháng 01 vì vậy chúng tôi dự đoán hàng đến sau tháng 01 sẽ giảm”.

Một nhà kinh doanh khác ở miền tây Nhật Bản cho biết khoảng 80% khối lượng HRC xuất khẩu của Posco là những khách hàng Nhật Bản có hợp đồng dài hạn vì vậy khối lượng sẽ không thay đổi đáng kể. “Nhưng đối với thị trường giao ngay, trong khi nhu cầu được cho là ổn định nhưng hiện nay không sôi động vì vậy các nhà cung cấp bị sức ép giảm giá. Posco sẽ không quan tâm đến việc cung cấp HRC ở mức giá thấp hơn vì vậy công ty sẽ chỉ giảm bớt khối lượng xuất khẩu”.

Nhật Bản đã nhập khẩu 150.848 tấn HRC trong tháng 09, tăng 12,5% so với tháng 08 và 51,5% so với năm ngoái, theo số liệu từ Liên đoàn Sắt thép Nhật Bản. Trong đó, khối lượng nhập khẩu từ Hàn Quốc đạt 91.922 tấn, tăng 22% so với tháng trước và 94% so với năm 2013. 

Thép dài EU chịu áp lực từ giá phế suy yếu

Thị trường thép dài EU đã suy yếu trong tuần này do giá phế nhập khẩu giảm từ sự suy yếu của thị trường phế thế giới.

Giá nhập khẩu phế Thổ Nhĩ Kỳ giảm gần 30 USD/tấn trong tháng 10,và 15 USD/tấn trong tuần qua. Gía phế vụn nội địa Đức đã giảm xuống mức 245-250 Euro/tấn giao tháng 11, giảm 15 Euro/tấn.

Giá phế giảm, cùng với sức mua suy yếu do các nhà môi giới cố gắng giảm hàng tồn kho trước cuối năm, đã kéo giá trong nước giảm. Tại thị trường thép cây EU, giá đã giảm 5.50 Euro/tấn kể  từ cuối tháng 10, mặc dù đã ổn định trong tuần qua. Gía tại Đức vẫn đạt mức 450 Euro/tấn đã tính phí giao hàng và tại Pháp là 440 Euro/tấn. Một nhà máy dự báo thị trường tuần này sẽ sôi động hơn nhưng vẫn ở mức rất yếu.

Giá cuộn trơn cũng giảm theo giá phế. Giá tháng 11 đạt mức 465 Euro/tấn đã tính phí giao hàng, giảm 5 Euro/tấn so với tháng trước đó.

Tại thị trường thép hình EU, giá thép hình loại 1 đã giảm trong tuần qua. Một nhà phân phối tại Hà Lan cho biết đã mua 200 tấn thép hình ở mức giá 515 Euro/tấn đã tính phí giao hàng mặc dù người mua thép hình khác tại Northeast vẫn bảo toàn giá mua ở mức 520 Euro/tấn. Platts giảm giá thép hình cỡ trung theo tuần EU xuống 2.5 Euro/tấn, còn 517.5 Euro/tấn đã tính phí giao hàng DDP EU trong tuần qua.

Giá thép thanh thương phẩm đạt mức 515 Euro/tấn đã tính phí giao hàng từ các nhà máy Tây Bắc Châu Âu trong tuần qua, giá chào từ Ý giảm 10 Euro/tấn.

Wugang tăng giá HRC nhưng lại giảm CRC cho tháng 12 

Wuhan Iron & Steel (Wugang) thông báo hôm thứ sáu rằng sẽ tăng giá xuất xưởng HRC cho tháng 12 xuống 50 NDT/tấn (8 USD/tấn), theo đó HRC Q235 5.5mm còn 3.340 NDT/tấn (545 USD/tấn) chưa có VAT 17%.

Tuy nhiên, Wugang đã giảm giá xuất xưởng cho CRC Q195 1.0mm loại thương phẩm xuống 100 NDT/tấn còn 3.840 NDT/tấn chưa có VAT. Công ty đã giữ giá thép tấm và hầu hết các loại HDG không đổi cho tháng tới.

Trong khi đó, tin đồn thị trường hôm thứ Sáu cho rằng Anshan Iron & Steel có lẽ cũng đã giảm giá xuất xưởng CRC tháng 12 và giữ giá HRC không đổi, mặc dù điều này không thể được xác nhận.

Nhiều thương nhân ở Thượng Hải không tin là giá HRC giao ngay sẽ có xu hướng đi lên trong thời gian còn lại ít ỏi của năm nay, do cắt giảm sản lượng ở tỉnh Hà Bắc trong suốt hội nghị APEC ở Bắc Kinh vào tuần trước không thấm vào đâu so với sản lượng thép khổng lồ của Trung Quốc.

“Bên cạnh đó, nhiều nhà máy thép ở Hà Bắc cũng đã hoạt động hết công suất trở lại khi hội nghị kết thúc vì vậy áp lực nguồn cung sẽ một lần nữa gây sức ép lên giá giao ngay vào cuối tháng này”, một nhà kinh doanh Thượng Hải cho biết.

Tuy nhiên, trong thời gian ngắn, giá HRC sẽ ổn định ở Thượng Hải do tồn kho vẫn đang giảm trong bối cảnh việc giao hàng chậm chạp từ các nhà máy và nỗ lực của các thương nhân nhằm kích cầu. Tính đến ngày 14/11, HRC tồn kho ở Thượng Hải giảm 20.000 tấn tức 3,3% so với ngày 07/11 còn khoảng 598.000 tấn.

Hôm thứ Sáu, giá giao ngay của HRC Q235 5.5mm là 2.950-2.980 NDT/tấn (482-486 USD/tấn) xuất xưởng gồm VAT 17% ở Thượng Hải, không đổi trong ngày thứ tư liên tiếp. 

Giá chào nhập khẩu từ CIS tới Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục giảm

Các nhà máy CIS giảm giá chào phôi thanh tới Thổ Nhĩ Kỳ xuống thêm 4-5 USD/tấn vào cuối tuần qua, cùng với sự suy yếu của giá phế và nhu cầu tiêu thụ bỉnh ổn cộng với giá chào rẻ từ Trung Quốc.

Giá chào từ CIS đạt mức 455-460 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ, tùy thuộc vào cảng nhập khẩu trong khi giá chào phôi thanh Trung Quốc đạt mức 445-450 USD/tấn CFR.

Một nguồn tin cho biết một nhà máy cán lại đã mua phôi thanh Ukraina tại mức 460 USD/tấn CFR trong ngày thứ năm. Do giá nhập khẩu phế tiếp tục giảm, giá phôi thanh dường như sẽ tiếp tục giảm trong tháng này cho tới khi các điều kiện mùa đông sẽ ảnh hưởng tới điều kiện giao hàng. Các nhà máy phôi thanh Thổ Nhĩ Kỳ sẽ phải giảm giá chào hơn nữa để thu hút mối quan tâm của các khách hàng trong nước, dựa vào sự suy yếu của giá phế.

Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục giảm giá thép cây dựa vào nhu cầu tiêu thụ thép thành phẩm thấp và giá phế giảm. Gía phế đã giảm tổng cộng 150 TRY/tấn (67 USD/tấn) trong tháng qua.

Giá chào trong nước đạt mức 520-525 USD/tấn chưa tính VAT 18% trong khi giá chào xuất khẩu giảm thêm 5-10 USD/tấn trong tuần qua, đạt mức 510-515 USD/tấn FOB.

Các nhà máy thép cuộn Mỹ  lùng sục đơn hàng sau khi tăng giá

Người mua thép cuộn Mỹ cho biết các nhà máy trong nước vẫn đang trong cơn đói đơn hàng và nôn nóng chào bán sau các nỗ lực tăng giá gần đây.

Một người mua thép cây Midwest Mỹ cho biết mức giá 620 USD/tấn có thể đạt được trong vài trường hợp từ các nhà máy đặc biệt đói đơn hàng và giao hàng vào tuần đầu tháng 12 và thậm chí có thể sớm hơn. Trong khi đó, mức giá 630 USD/tấn dễ dàng đạt được.

Sau thông báo tăng giá 20 USD/tấn, giá niêm yết của các nhà máy đạt mức 650-660 USD/tấn nhưng chỉ vài khách hàng chấp nhận mức giá này.

Một người mua cho biết sẽ chỉ mua khi mà hàng tồn kho giảm, nhưng không chắc có thể tìm kiếm được giá mua trước khi tăng không.

Trong khi đó, vài người mua có thanh khoản yếu và thiếu quan hệ rộng rãi có thể mua tại mức giá niêm yết hoặc gần với nó. Tuy nhiên, chỉ vài đơn hàng thì không đủ sức nâng giá lên trong thời gian ngắn.

Một người mua cho biết thực sự thị trường hiện tại không khẩn cấp và các động lực thị trường đã suy yếu do giá giảm xuống còn 630-640 USD/tấn.

Platts giữ giá HRC tại mức 635-645 USD/tấn và CRC tại mức 760-770 USD/tấn xuất xưởng Midwest Indiana. 

Các nhà xuất khẩu HDG Ấn Độ cạnh tranh với chào giá Trung Quốc rẻ hơn 

Các nhà xuất khẩu HDG từ Ấn Độ tới Mỹ đang sẵn sàng thương lượng giá trong tuần trước giữa bối cảnh nhu cầu trì trệ.

Các giao dịch thép cuộn loại thường dày 0.3 mm xuất xứ Ấn Độ phủ 90 gram kẽm trên một mét vuông vẫn duy trì trong khoảng 865-880 USD/tấn CFR Mỹ hồi tuần trước, gồm phí vận chuyển 50-60 USD/tấn cho những lô hàng giao tháng 12.

Tuy nhiên, một vài nhà xuất khẩu Ấn Độ đang sẵn lòng hạ giá xuống thấp hơn với một nỗ lực nhằm bù đắp sức mua chậm chạp. Một nhà kinh doanh ở Mumbai cho biết các nhà máy đang thực hiện chào giá ở mức thấp 840 USD/tấn CFR Mỹ cho HDG dày 0.3mm phủ 90 gram kẽm.

Đại diện một nhà máy ở Delhi cho biết ông sẽ không muốn bán với giá dưới 850 USD/tấn CFR Mỹ cho loại thép này.

Nhiều nhà xuất khẩu Ấn Độ tin rằng các nhà máy Mỹ đã tích trữ đủ hàng cho những ngày nghỉ sắp tới vào cuối năm. “Không có một tấn thép riêng rẻ nào sẽ được nhập khẩu trong những ngày nghỉ. Nếu người mua Mỹ giảm họ luôn có thể mua từ các nhà máy trong nước”, ông giải thích.

Sau kỳ nghỉ lễ cuối năm, các khách hàng ở Mỹ có thể bắt đầu đặt mua lại vào giữa tháng 01, cho những lô hàng giao tháng 04.

Các nhà xuất khẩu Ấn Độ đang chào giá thấp hơn khoảng 100 USD/tấn ở Châu Âu để cạnh tranh với chào giá rẻ hơn của Trung Quốc. Một nhà kinh doanh ở Mumbai cho biết các nhà máy Ấn Độ đang chào giá ở mức thấp 680 USD/tấn CFR Antwerp cho HDG dày 0.1mm phủ 140 gram kẽm, trong khi các chào giá Trung Quốc cho loại thép này là 580 USD/tấn.

Còn đối với thép cuộn mỏng hơn, một nhà máy ở Mumbai đang chào giá thấp 660 USD/tấn CFR Antwerp cho HDG dày 0.58mm phủ 140 gram kẽm, trong khi các nhà xuất khẩu Trung Quốc đang chào giá 640 USD/tấn CFR cho loại này.