Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 18/12/2013

Giá thép cây miền bắc Trung Quốc vẫn dậm chân tại chỗ do thiếu lực hỗ trợ từ thị trường

Thị trường thép cây miền bắc Trung Quốc hôm thứ Ba vẫn chìm trong không khí ảm đạm. Giá giao ngay vẫn không có dấu hiệu phục hồi do thị trường ế ẩm. Trong khi đó, giá thép cây giao kỳ hạn lại tiếp tục giảm trong phiên giao dịch thứ tư liên tiếp.

Tại thị trường Bắc Kinh, giá giao ngay của thép cây HRB400 đường kính 18-25mm xuất xưởng từ nhà máy Hebei Iron & Steel (Hegang) được chốt với giá không đổi so với thứ Hai tại 3.370-3.380 NDT/tấn (555-557 USD/tấn) có VAT 17%.

Trong suốt tuần trước, giá thép cây ở Bắc Kinh tiếp tục dao động với biên độ hẹp quanh mức 3.370-3.400 NDT/tấn giữa lúc sức mua hạn chế và triển vọng thị trường rất dè dặt. Mức giá hiện nay cũng gần chạm mức thấp của năm hồi cuối tháng 06 (3.320-3.330 NDT/tấn).

Một thương nhân đã hạ giá bán xuống 10 NDT/tấn còn 3.380 NDT/tấn, nhưng cũng không làm doanh số khá hơn.

Mặt khác, hầu hết giới kinh doanh đều tin rằng giá khó mà giảm thêm nữa. Mặc dù Hegang đã điều chỉnh giá hợp đồng tháng 12 trong thời gian ngắn nhưng các đại lý không sẵn lòng cắt giảm chào giá của họ hòng tạo áp lực lên giá hợp đồng, cho thấy giá đã gần với mức đáy.

Triển vọng thị trường không mấy sáng sủa càng làm tăng thêm sức ép lên giá. Những người tham gia thị trường tỏ ra bi quan về sự tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc trong năm tới, sau hội nghị công tác kinh tế trung ương bế mạc hôm thứ Sáu tuần trước tiếp tục nhấn mạnh tới sự cải cách và tái cấu trúc đầu tư.

Hôm thứ Ba, hợp đồng thép cây giao kỳ hạn tháng 05 trên sàn Shanghai Futures Exchange được chốt tại 3.663 NDT/tấn, giảm 0,22% so với ngày giao dịch trước đó. 

Tokyo Steel điều chỉnh giá hợp đồng tháng 01 theo kích cỡ các loại thép

 

Tokyo Steel Manufacturing đã thông báo hôm thứ Hai về việc sẽ nâng giá niêm yết tháng 01 và điều chỉnh phí phụ thu theo kích thước đối với thép dầm hình H, thép lòng máng và các loại thép tấm, khiến một số sản phẩm sẽ có giá tăng gấp đôi so với loại có kích cỡ cơ bản.

Hôm thứ hai, Tokyo Steel đã tăng giá niêm yết tháng 01 thêm 1.000-2.000 Yên/tấn (10-20 USD/tấn) đối với nhiều loại thép – để phản ánh sức tiêu thụ trong nước mạnh hơn- nhưng một số sản phẩm, còn điều chỉnh cả phí bốc dỡ đối với những loại có kích thước đặc biệt lên thêm 1.000-2.000 Yên/tấn.

Quyết định này được đưa ra sau khi xem xét chi phí sản xuất cũng như tình hình thị trường, Kiyoshi Imamura, giám đốc marketing của Tokyo Steel nói một cách đơn giản. Mặc dù nói rằng giá chỉ tăng có 1.000 Yên/tấn áp dụng cho tất cả các loại thép dầm hình H nhưng với những khoản phụ thu cao hơn thì mức tăng thực sự binh quân sẽ lên đến 2.000 Yên/tấn.

Tokyo Steel lập luận rằng việc điều chỉnh là quá chậm trễ, nhà máy này chỉ nâng giá thép dầm hình H hồi tháng 10 năm ngoái, còn thép lòng máng thì tăng trước đây là vào tháng 07/2012 nhưng thép tấm thì chưa có lần tăng giá nào cả kể từ khi Tokyo Steel bắt đầu sản xuất thép tấm vào tháng 02/2002.

“Phí phụ thu theo kích thước thực tế trên thị trường đã thay đổi và một số loại thép của Tokyo Steel có giá thấp hơn thị trường nên chúng tôi có thể hiểu được sự thay đổi này”, một nhà phân phối ở Tokyo nói.

Nhưng nhiều nhà quan sát thị trường khác nhận thấy một lý do sâu xa hơn đó là nhằm mục đích bù đắp lại chi phí phế liệu, và nhấn mạnh rằng giá tăng được áp dụng cho các sản phẩm mà khách hàng đặt mua thường xuyên hơn. “Tokyo Steel hiện đang bù đắp cho chi phí giá phế đầu vào cao hơn nhưng nếu thông báo một cách công khai với lý do này thì khi giá phế giảm, các khách hàng sẽ phàn nàn đòi nhà máy hạ giá bán xuống theo. Vì vậy việc nâng giá dựa vào phí phụ thu theo kích thước là cách để giữ cho giá được bền vững hơn sau khi tăng”, ông nói.

Platts ghi nhận rằng kể từ tháng 08, Tokyo Steel đã tăng giá mua phế H2 thêm 8.500 Yên/tấn tại xưởng Utsunomiya, thuộc phía bắc Tokyo. Thép dầm hình H SS400 cỡ cơ bản có giá bán tháng 01 tầm 80.000 Yên/tấn – chỉ tăng 6.000 Yên/tấn so với tháng 08.

Nhưng những người khác tỏ ra thẳng thừng hơn. “Đây là một việc làm liều lĩnh. Việc nâng giá toàn bộ có lẽ sẽ vấp phải sự phản đối trên thị trường nhưng nếu thay đổi phí phụ thu theo kích thước có thể sẽ được chấp nhận nhiều hơn”.

 

Gerdau NA cắt giảm chiết khấu thép dầm

Nhà máy Gerdau Long Steel North America đã thực hiện một phương pháp tiến cận theo 2 hướng để tăng giá thép dầm bao gồm tăng giá giao cơ bản và cắt giảm chiết khấu.

Nhà máy này đã tăng giá giao cơ bản thêm 30 USD/tấn đồng thời cắt giảm chiết khấu cho mặt hàng này.

Trong ngày 10/12, nhà máy Gerdau đã thông báo tăng giá thép dầm thêm 10 USD/tấn với các đơn hàng mwois được đặt vào ngày 13/12. Gía tăng này được nối tiếp theo sau thông báo tăng giá 20 USD/tấn vào ngày 4/11. Trong thnags 11 và 12, Nucor không có thông báo nâng giá và SDI vẫn giữ giá nhưng thêm phí bảo hiểm 20 USD/tấn.

Giá niêm yết đối với các mặt hàng thép hình cỡ trung từ Nucor và SDI là 756 USD/tấn. Platts vẫn giữ giá thép dầm khổ rộng Midwest tại mức 730-750 USD/tấn xuất xưởng. 

Thị trường thép ống Thổ Nhĩ Kỳ suy yếu cả trong lẫn ngoài do tiêu thụ trì trệ

Giá ống hàn trong nước lẫn xuất khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ đều đã giảm 10 USD/tấn kể từ cuối tháng 11 do tiêu thụ trì trệ.

 “ Các đầu tư xây dựng  kiến trúc hạ tầng đã rơi vào mùa thấp điểm cộng với nhu cầu tiêu thụ cả trong lẫn ngoài nước đều trì trệ trong mùa đông khắc nghiệt đã khiến thị trường trở nên trầm lắng. Tuy nhiên, do chi phí sản xuất gia tăng dựa vào giá nguyên liệu thô tăng đã gây áp lực lên giá chào bán và dự báo giá thép ống hàn sẽ tăng trở lại trong Năm Mới, đặc biệt sau tháng 2”, một thương nhân nhận dịnh.

Giá thép ống hàn diện trở cán nóng S235 2-4mm xuất xưởng hiện đạt mức 650-670 USD/tấn tại thị trường nội địa, giảm 10 USD/tấn so với tháng 11 trong khi laoij thép ống hàn điện trở cán nguội 1.2-1.5mm hiện được chào tại mức giá 740-780 USD/tấn.

Giá xuất khẩu cũng đã gaimr nhẹ với giá thép ống hàn cán nguội theo chiều dọc S235 có đường kính 48mm và dày 2mm đạt mức 700-730 USD/tấn FOB. Trong khi đó, giá xuất khẩu loại thép ống hàn cán nguội S275 cùng kích cỡ trên đạt mức 730-750 USD/tấn FOB và loại S355 là 760-780 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế. 

Giá thép cây Tây Bắc Âu tăng nhưng số lượng  giao dịch hạn chế

Trong nửa tháng qua, giá thép cây Tây Bắc Âu đã tăng tuy nhiên tình hình thị trường lại diễn ra trầm lắng do chỉ có vài giao dịch lô hàng tháng 1 được chốt trong tuần qua.

Trong vòng 5-10 ngày qua, tại Pháp, nhà máy Riva đã cố gắng để đạt được giá chào mà nó thông báo hồi cuối tháng 11. Hiện tại, giá chào từ nhà máy này đạt mức 250 Euro/tấn giá giao cơ bản. Các người mua Pháp cho hay giá chốt cũng đã đạt tới mức trên, tuy nhiên, số lượng giao dịch còn ít. Họ cũng cho biết không thể mua hàng từ Đức do giá ở đó  thậm chí còn cao hơn.

Các nhà máy Trung Bắc Đức đã tăng giá giao cơ bản lên mức 265-270 Euro/tấn  mặc dù góa giao dịch phần lớn chỉ đạt mức 260 Euro/tấn và thậm chí là 255 Euro/tấn đối với lô hàng giao tháng 1.

Tại Nam Đức, giá cả cũng đã cải thiện, tuy nhiên thấp hơn ở phía Bắc do phải cạnh tranh với hàng  nhập khẩu giá rẻ từ Ý. Gía tại Nam Đức là 250 Euro/tấn giá giao cơ bản, tương đương với chào giá nhập khẩu từ Ý vào khu vực.

Tại Hà lan, Bỉ và  Luxembourg, giá thép cây đạt mức 250-260 Euro/tấn giá giao cơ bản. Trong khi đó, đã có vài nhà nhập khẩu mua hàng Thổ Nhĩ Kỳ tại mức giá 470 Euro/tấn CIF Rotterdam giá giao thực tế.

Trong ngày 17/12, Platts tăng giá thép cây xuất xưởng Tây Bắc Âu thêm 5 Euro/tấn, đạt mức 490 Euro/tấn giá giao thực tế.  

 Tuy thị trường CRC trong nước và xuất khẩu của Trung Quốc trì trệ nhưng giá vẫn duy trì ổn định

Tuần này, giá thép cuộn cán nguội tại thị trường Trung Quốc vẫn duy trì ổn định với lượng hàng tồn gần như không thay đổi. Các thương nhân cho biết thị trường thiếu lực hỗ trợ để giá tăng do họ vẫn đang ưu tiên giữ ít hàng trong kho.

Hôm thứ Ba, CRC SPCC 1.0mm có giá 4.190-4.270 NDT/tấn (688-703 USD/tấn) gồm VAT 17% tại Thượng Hải và 4.200-4.250 tại thị trường Lecong (Quảng Đông), cả hai đều không đổi so với tuần trước.

Các thương nhân cho hay thị trường đã quá trì trệ đến nỗi thậm chí còn có suy đoán rằng những biện pháp kiểm soát ô nhiễm môi trường mặc dù có làm ảnh hưởng đến sản lượng đầu ra cũng không giúp cho niềm tin thị trường lạc quan hơn.  Baosteel đã nâng giá xuất xưởng tháng 01 đối với CRC lên chỉ có 50 NDT/tấn còn Wuhan Iron & Steel thì giữ giá CRC không đổi, các nhà sản xuất lớn khác cũng sẽ rất thận trọng trong chiến lược giá tháng 01 của họ.

Các thương nhân không quá lo lắng về việc giá CRC bị giảm mạnh do lượng hàng tồn trên thị trường còn thấp và giá HRC gần như vẫn đang rất ổn định.

Tại thị trường xuất khẩu, chào giá CRC của Trung Quốc vẫn không đổi kể từ tuần trước sau khi tăng 5 USD/tấn hồi đầu tháng 12. Chào giá CRC SPCC 1.0mm phổ biến hôm thứ Ba khoảng  630-635 USD/tấn FOB.

Các nhà xuất khẩu mà Platts đã liên hệ đều nói rằng đa số các khách hàng của họ thấy mức giá này không hấp dẫn lắm, nhưng nhiều nhà máy vẫn đang kiên quyết giữ mức giá đó do họ không vội chốt thêm hợp đồng mới. Một thương nhân ở Thượng Hải giải thích rằng hầu hết các nhà máy lớn đã hoàn thành kế hoạch xuất khẩu CRC hàng năm của họ, ngoài ra doanh số bán trong nước hiện nay cũng không phải chịu nhiều sức ép.

Theo các nhà xuất khẩu Trung Quốc, một số nhà nhập khẩu nước ngoài vẫn trong tâm lý chờ đợi một phần là vì họ không chắc về xu hướng thị trường trong nước cộng thêm trước đây họ đã mua đủ hàng dự trữ với mức giá thấp hơn. 

Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ nỗ lực tìm cách bán thép thanh vằn sang Trung Đông- Bắc Phi

Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đang tìm cách bán thép thanh vằn giao cuối tháng 12 đầu tháng 1 sang Trung Đông và Bắc Phi với giá cả giảm đôi chút.

Mặc dù hầu hết các nhà máy đưa ra giá chào 585 USD/tấn FOB cảng Thổ Nhĩ Kỳ trong tuần qua, tuy nhiên, giá  chốt bán cho các thương nhân chỉ đạt  dưới mức 580 USD/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ với điều kiện thanh toán tiền mặt trước hoặc cho các lô hàng tháng 12 còn tồn.

Đối với các nhà tiêu thụ cuối, giá chốt được cho là ở mức 595 USD/tấn CFR Aden. Theo một nhà tích trữ hàng thì đây cũng là giá chào từ một nhà máy EAFlớn.

Sang UAE,  thị trường nhập khẩu ở đây diễn ra rất chậm do nhà máy Emirates Steel tại đây đã giữ giá niêm yết gần với giá nhập khẩu trong khi hàng tồn kho cũng vẫn còn ở mức cao, khoảng 8.000 tấn hàng đã được đặt vào cuối tuần qau đối với lô hàng giao cuối tháng 12 tại mức giá 586 USD/tấn CFR Dubai trọng lượng lý thuyết.

Các một đơn hàng được đặt tại mức giá 570 USD/tấn FOB Marmara, tuy nhiên, dường như đây là đơn hàng khối lượng lớn duy nhất đặt tại mức giá này. Do đó, trong ngày hôm qua (17/12), nhiều nhà máy đã chào mua tới các thương nhân tại giá cao hơn (thậm chí đạt mức 590 USD/tấn FOB Aliaga/Marmara) đối với lô hàng tháng 1 do giá phế vẫn cao.

Platts vẫn duy trì giá xuất khẩu thép thanh vằn Thổ Nhĩ Kỳ tại mức 580 USD/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ.

Một vài nhà cán lại Saudi đang tìm kiếm các lô hàng phôi thanh nhập khẩu khối lượng lớn cho Qúy 1/2014 từ CIS. Thêm vào đó, tại Ai Cập, giá giao dịch đã cao hơn với giá chốt một lô hàng phôi thanh  khối lượng nhỏ giao tháng 2 tại mức 535 USD/tấn CIF Alexandria và một số giá chào khác là 538 usd/tấn CIF. Platts cũng đã tăng giá phô thanh thêm 2 USD/tấn, đạt mức 505 USD/tấn FOB Biển Đen trong ngày 17/12.