Giá thép cây miền bắc Trung Quốc vẫn dậm chân tại chỗ do thiếu lực hỗ trợ từ thị trường
Thị trường thép cây miền bắc Trung Quốc hôm thứ Ba vẫn chìm trong không khí ảm đạm. Giá giao ngay vẫn không có dấu hiệu phục hồi do thị trường ế ẩm. Trong khi đó, giá thép cây giao kỳ hạn lại tiếp tục giảm trong phiên giao dịch thứ tư liên tiếp.
Tại thị trường Bắc Kinh, giá giao ngay của thép cây HRB400 đường kính 18-25mm xuất xưởng từ nhà máy Hebei Iron & Steel (Hegang) được chốt với giá không đổi so với thứ Hai tại 3.370-3.380 NDT/tấn (555-557 USD/tấn) có VAT 17%.
Trong suốt tuần trước, giá thép cây ở Bắc Kinh tiếp tục dao động với biên độ hẹp quanh mức 3.370-3.400 NDT/tấn giữa lúc sức mua hạn chế và triển vọng thị trường rất dè dặt. Mức giá hiện nay cũng gần chạm mức thấp của năm hồi cuối tháng 06 (3.320-3.330 NDT/tấn).
Một thương nhân đã hạ giá bán xuống 10 NDT/tấn còn 3.380 NDT/tấn, nhưng cũng không làm doanh số khá hơn.
Mặt khác, hầu hết giới kinh doanh đều tin rằng giá khó mà giảm thêm nữa. Mặc dù Hegang đã điều chỉnh giá hợp đồng tháng 12 trong thời gian ngắn nhưng các đại lý không sẵn lòng cắt giảm chào giá của họ hòng tạo áp lực lên giá hợp đồng, cho thấy giá đã gần với mức đáy.
Triển vọng thị trường không mấy sáng sủa càng làm tăng thêm sức ép lên giá. Những người tham gia thị trường tỏ ra bi quan về sự tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc trong năm tới, sau hội nghị công tác kinh tế trung ương bế mạc hôm thứ Sáu tuần trước tiếp tục nhấn mạnh tới sự cải cách và tái cấu trúc đầu tư.
Hôm thứ Ba, hợp đồng thép cây giao kỳ hạn tháng 05 trên sàn Shanghai Futures Exchange được chốt tại 3.663 NDT/tấn, giảm 0,22% so với ngày giao dịch trước đó.
Tokyo Steel điều chỉnh giá hợp đồng tháng 01 theo kích cỡ các loại thép
Tokyo Steel Manufacturing đã thông báo hôm thứ Hai về việc sẽ nâng giá niêm yết tháng 01 và điều chỉnh phí phụ thu theo kích thước đối với thép dầm hình H, thép lòng máng và các loại thép tấm, khiến một số sản phẩm sẽ có giá tăng gấp đôi so với loại có kích cỡ cơ bản.
Hôm thứ hai, Tokyo Steel đã tăng giá niêm yết tháng 01 thêm 1.000-2.000 Yên/tấn (10-20 USD/tấn) đối với nhiều loại thép – để phản ánh sức tiêu thụ trong nước mạnh hơn- nhưng một số sản phẩm, còn điều chỉnh cả phí bốc dỡ đối với những loại có kích thước đặc biệt lên thêm 1.000-2.000 Yên/tấn.
Quyết định này được đưa ra sau khi xem xét chi phí sản xuất cũng như tình hình thị trường, Kiyoshi Imamura, giám đốc marketing của Tokyo Steel nói một cách đơn giản. Mặc dù nói rằng giá chỉ tăng có 1.000 Yên/tấn áp dụng cho tất cả các loại thép dầm hình H nhưng với những khoản phụ thu cao hơn thì mức tăng thực sự binh quân sẽ lên đến 2.000 Yên/tấn.
Tokyo Steel lập luận rằng việc điều chỉnh là quá chậm trễ, nhà máy này chỉ nâng giá thép dầm hình H hồi tháng 10 năm ngoái, còn thép lòng máng thì tăng trước đây là vào tháng 07/2012 nhưng thép tấm thì chưa có lần tăng giá nào cả kể từ khi Tokyo Steel bắt đầu sản xuất thép tấm vào tháng 02/2002.
“Phí phụ thu theo kích thước thực tế trên thị trường đã thay đổi và một số loại thép của Tokyo Steel có giá thấp hơn thị trường nên chúng tôi có thể hiểu được sự thay đổi này”, một nhà phân phối ở Tokyo nói.
Nhưng nhiều nhà quan sát thị trường khác nhận thấy một lý do sâu xa hơn đó là nhằm mục đích bù đắp lại chi phí phế liệu, và nhấn mạnh rằng giá tăng được áp dụng cho các sản phẩm mà khách hàng đặt mua thường xuyên hơn. “Tokyo Steel hiện đang bù đắp cho chi phí giá phế đầu vào cao hơn nhưng nếu thông báo một cách công khai với lý do này thì khi giá phế giảm, các khách hàng sẽ phàn nàn đòi nhà máy hạ giá bán xuống theo. Vì vậy việc nâng giá dựa vào phí phụ thu theo kích thước là cách để giữ cho giá được bền vững hơn sau khi tăng”, ông nói.
Platts ghi nhận rằng kể từ tháng 08, Tokyo Steel đã tăng giá mua phế H2 thêm 8.500 Yên/tấn tại xưởng Utsunomiya, thuộc phía bắc Tokyo. Thép dầm hình H SS400 cỡ cơ bản có giá bán tháng 01 tầm 80.000 Yên/tấn – chỉ tăng 6.000 Yên/tấn so với tháng 08.
Nhưng những người khác tỏ ra thẳng thừng hơn. “Đây là một việc làm liều lĩnh. Việc nâng giá toàn bộ có lẽ sẽ vấp phải sự phản đối trên thị trường nhưng nếu thay đổi phí phụ thu theo kích thước có thể sẽ được chấp nhận nhiều hơn”.
Tuy thị trường CRC trong nước và xuất khẩu của Trung Quốc trì trệ nhưng giá vẫn duy trì ổn định
Tuần này, giá thép cuộn cán nguội tại thị trường Trung Quốc vẫn duy trì ổn định với lượng hàng tồn gần như không thay đổi. Các thương nhân cho biết thị trường thiếu lực hỗ trợ để giá tăng do họ vẫn đang ưu tiên giữ ít hàng trong kho.
Hôm thứ Ba, CRC SPCC 1.0mm có giá 4.190-4.270 NDT/tấn (688-703 USD/tấn) gồm VAT 17% tại Thượng Hải và 4.200-4.250 tại thị trường Lecong (Quảng Đông), cả hai đều không đổi so với tuần trước.
Các thương nhân cho hay thị trường đã quá trì trệ đến nỗi thậm chí còn có suy đoán rằng những biện pháp kiểm soát ô nhiễm môi trường mặc dù có làm ảnh hưởng đến sản lượng đầu ra cũng không giúp cho niềm tin thị trường lạc quan hơn. Baosteel đã nâng giá xuất xưởng tháng 01 đối với CRC lên chỉ có 50 NDT/tấn còn Wuhan Iron & Steel thì giữ giá CRC không đổi, các nhà sản xuất lớn khác cũng sẽ rất thận trọng trong chiến lược giá tháng 01 của họ.
Các thương nhân không quá lo lắng về việc giá CRC bị giảm mạnh do lượng hàng tồn trên thị trường còn thấp và giá HRC gần như vẫn đang rất ổn định.
Tại thị trường xuất khẩu, chào giá CRC của Trung Quốc vẫn không đổi kể từ tuần trước sau khi tăng 5 USD/tấn hồi đầu tháng 12. Chào giá CRC SPCC 1.0mm phổ biến hôm thứ Ba khoảng 630-635 USD/tấn FOB.
Các nhà xuất khẩu mà Platts đã liên hệ đều nói rằng đa số các khách hàng của họ thấy mức giá này không hấp dẫn lắm, nhưng nhiều nhà máy vẫn đang kiên quyết giữ mức giá đó do họ không vội chốt thêm hợp đồng mới. Một thương nhân ở Thượng Hải giải thích rằng hầu hết các nhà máy lớn đã hoàn thành kế hoạch xuất khẩu CRC hàng năm của họ, ngoài ra doanh số bán trong nước hiện nay cũng không phải chịu nhiều sức ép.
Theo các nhà xuất khẩu Trung Quốc, một số nhà nhập khẩu nước ngoài vẫn trong tâm lý chờ đợi một phần là vì họ không chắc về xu hướng thị trường trong nước cộng thêm trước đây họ đã mua đủ hàng dự trữ với mức giá thấp hơn.