Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 18/5/2017

Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục chào bán thép cây tới Mỹ sau khi bị áp thuế chống bán phá giá, ngoại trừ Habas

Dù bị áp thuế chống bán phá giá nhưng các nhà máy thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ vẫn tiếp tục chào bán tới thị trường Mỹ, ngoại trừ nhà máy Habas bị áp thuế chống bán phá giá/đối kháng 21.60% (mức thuế trước 8.76%) dường như sẽ rút khỏi thị trường.

Trong suốt quá trình điều tra, nhiều nguồn tin Thổ Nhĩ Kỳ tin rằng thuế dưới 10% sẽ không cản được các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục xuất khẩu. Do đó, các nhà máy Icdas và những nhà máy khác vẫn chào bán sau khi bị áp thuế 9.42% và 8.8%, không đổi so với trước. Hai nhà xuất khẩu khác là Kaptan and Diler cũng sẽ tiếp tục chào bán thép.

Theo nhận định của các nhà máy, mức thuế cuối cùng chỉ cao hơn thuế sơ bộ 1%. Trong khi đó, những nhà xuất khẩu này không chịu đàm phán với khách hàng ngoài nước vì đang tập trung vào thị trường nội địa sau khi chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ cho biết nguồn cung trong nước đang thiếu hụt.

Một thương nhân cho biết, giá chào tới Mỹ ít nhất ở mức 465-470 USD/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ để phù hợp với giá trong nước. Tuy nhiên, Platts cho rằng giá chào này sẽ không được người mua chấp nhận. Một thương nhân cho rằng nếu giá bán tới Mỹ thấp hơn giá trong nước thì sẽ tiếp tục bị chống bán phá giá, có thể tới 30%.

Một nhà máy cho biết đã nhận đủ đơn hàng tháng 6 và đnag chào bán tại mức 440 USD/tấn FOB Marmara trọng lượng thực tế, giao tháng 7. Người mua vẫn kháng cự vì cho rằng quá sớm để đặt hàng tháng 7. Tại Đông Nam Châu Âu, một thương nhân ước tính mức giá 440 USD/tấn FOB không được chấp nhận vì giá bán khu vực chỉ 435 Euro/tấn (485 USD/tấn) tại xưởng.

 Tuy nhiên, thương nhân Châu Âu cho rằng có thể đặt mua tại mức 430 USD/tấn FOB cho lô hàng giao cuối tháng 6. Giá có thể giảm cho các đơn hàng 8.000-10.000 tấn. Một thương nhân khác cho biết Thổ Nhĩ Kỳ có thể chốt giá 430-440 USD/tấn FOB tới Châu Âu, Châu Á, Dubai, Châu Phi và Yemen.

Platts vẫn duy trì giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ ổn định tại mức 435.5 USD/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ.

HRC Châu Á tăng theo giá nội địa Trung Quốc

Các nhà máy Trung Quốc ra sức tăng giá chào bán HRC trong ngày thứ tư do giá giao ngay và giao kỳ hạn nội địa Trung Quốc tăng trong khi vài khách hàng ngoài nước cũng tăng giá chào mua. Platts tăng giá HRC SS400 dày 3mm lên 7.5 USD/tấn, đạt mức 424-426 USD/tấn.

Tại thị trường Thượng Hải ngày thứ tư, giá HRC Q235 5.5mm ở mức 3.150-3.170 NDT/tấn (457-460 USD/tấn) xuất xưởng đã tính thuế, tăng 90 NDT/tấn so với thứ ba. Tại sàn sàn SHFE, giá chốt hợp đồng giao tháng 10/2017 đạt mức 3.037 NDT/tấn, tăng 121 NDT/tấn.

Các nhà máy lớn tăng giá chào thêm 5-10 USD/tấn lên mức 425-440 USD/tấn FOB Trung Quốc sau khi thấy giá giao ngay và kỳ hạn nội địa Trung Quốc đều tăng. Họ chưa muốn đàm phán giá, dù là đơn hàng lớn.

Vài khách hàng Hàn Quốc sẵn sàng đạt hàng tại mức 420 USD/tấn FOB nhưng các nhà máy không quan tâm giá thấp này.

Một nhà máy đã bán được hơn 10.000 tấn HRC tại mức giá 425 USD/tấn FOB Trung Quốc tới Hàn và Philippines. Nhà máy này không chịu bán dưới mức 430 USD/tấn FOB Trung Quốc.

Tuy nhiên, các khách hàng còn thận trọng và chưa sẵn sàng chào mua lúc này vì sợ giá giảm lại.

Giá chào từ các nhà máy cho thép cuộn SAE tăng lên mức 455-460 USD/tấn CFR Việt Nam, vẫn thấp hơn giá chào 520 USD/tấn từ Hàn Quốc.

Giá tấm mỏng Mỹ sụt giảm do nhu cầu tiêu thụ từ hạ nguồn suy yếu

Giá tấm mỏng Mỹ tiếp tục giảm do nhu cầu tiêu thụ hạ nguồn có dấu hiệu suy yếu. Platts giảm giá HRC hàng ngày xuống còn 600-620 USD/tấn từ mức 600-630 USD/tấn trước đó. CRC giảm còn 800-830 USD/tấn từ mức 810-840 USD/tấn xuất xưởng Midwest (Indiana).

Một trung tâm dịch vụ đã mua hơn 1.500 tấn HRC tại mức giá 580 USD/tấn xuất xưởng. Các nhà máy khác mua tại mức 580-590 USD/tấn nhưng đơn hàng chỉ 500 tấn. Ông nghĩ rằng giá sẽ giảm thêm 20 USD/tấn vì tiêu thụ từ ngành sản xuất xe hơi yếu hơn. Giá CRC và thép mạ cũng đồng thời giảm.

Một nhà máy cho biết nhận được nhiều đơn hàng hơn khi bán CRC tại mức giá 780 USD/tấn thay vì trên 800 USD/tấn trong mấy tuần gần đây.

Các thương nhân và các trung tâm dịch vụ đều nghĩ rằng giá HRC nhập khẩu sẽ giảm, và giá chào các lô hàng nhỏ ở tầm 570-580 USD/tấn ở Houston. Giá chào từ Thổ Nhĩ Kỳ không cạnh tranh.

Platts giảm giá HRC nhập khẩu xuống còn 540-550 USD/tấn CIF Houston từ mức 540-560 USD/tấn.

Giá HRC Trung Quốc tăng theo giá giao kỳ hạn

Giá HRC giao ngay Thượng Hải bật tăng ngày hôm qua nhờ giao dịch tốt và giá giao kỳ hạn tăng. Platts tăng giá HRC Q235 5.5mm thêm 90 NDT/tấn, đạt mức 3.150-3.170 NDT/tấn (457-460 USD/tấn) xuất xưởng đã tính 17% VAT. Tại sàn giao kỳ hạn SHFE, giá chốt hợp đồng tháng 10 tăng 121 NDT/tấn, đạt mức 3.037 NDT/tấn.

Một thương nhân cho biết đang cố gắng tăng giá để thử nghiệm phản ứng thị trường thế nào, và nhận thấy lượng đơn đặt hàng tăng.

Một thương nhân Thượng Hải cho biết hàng tồn kho vẫn thấp hơn năm ngoái, củng cố niềm tin thị trường và dẫn dắt giá tăng.

Một thương nhân miền Đông Trung Quốc tin rằng các đơn đặt hàng cộng với giá giao kỳ hạn tăng sẽ giúp niềm tin thị trường cải thiện.

Shougang giảm giá HRC, CRC vì sức mua thấp

Nhà máy Shougang Trung Quốc cắt giảm giá xuất xưởng HRC xuống 100 NDT/tấn (14.52 USD/tấn) trong ngày hôm qua.

Do đơn hàng thấp nên nhà máy này quyết định giảm giá để kích cầu. Sau khi cắt giảm, giá chào HRC Q235 5.75mm còn 3.570 NDT/tấn chưa thuế. Đồng thời, nhà máy này cũng giảm giá CRC xuống 200 NDT/tấn cho lô hàng giao tháng 6.

Nhà máy này cho biết họ giảm giá vì nhu cầu tiêu thụ không tốt, và giá niêm yết của họ cao hơn giá thị trường giao ngay.

Một thương nhân Thượng Hải cho rằng quyết định của Shougang chỉ đơn giản là theo xu hướng thị trường. Tình hình thị trường lúc này không tốt như thời gian gần đây.

Giá HRC Ấn Độ ổn định do nhu cầu tiêu thụ im ắng

Giá HRC Ấn Độ ổn định do nhu cầu tiêu thụ im ắng. Giá HRC IS 2062 dày 3mm xuất xưởng Mumbai vẫn ổn định ở mức 35.500-36.500 Rupees/tấn (553-569 USD/tấn) đã tính phí vận chuyển.

Nhu cầu tiêu thụ HRC  từ các ngành sản xuất ống thép vẫn yếu, đặc biệt là các dự án xây dựng đường ống nước. Bên cạnh đó, hoạt động xây dựng cũng trì trệ dẫn tới tiêu thụ giảm.

Sức mua suy yếu trước khi thị trường bước vào mùa mưa tháng 6-9 đang khiến các nguồn tin thị trường chán nản, vì nhu cầu tiêu thụ vào thời điểm này các năm trước thường tăng do các nhà xây dựng tăng tốc để tránh bị gián đoạn trong mùa mưa. Các nhà máy có xu hướng giữ giá ổn định, mong muốn kiếm chác được bất cứ đơn hàng nào. Dự báo giá sẽ bình ổn hết tháng 5 này.

Tuy nhiên, giá giảm lại khiến người mua nghiêng về xu hướng chờ đợi giá giảm nữa và hoãn giao dịch, càng làm cho sức mua suy yếu hơn.

Trong khi đó, các chống bán phá giá cho HRC nhập khẩu từ 6 nước dường như đã hạn chế được một nửa lượng HRC xuất khẩu vào Ấn Độ. Tuy nhiên, sức mua lại không cải thiện.

Thị trường thép dây Châu Á ổn định nhờ giá nội địa Trung Quốc tăng

Giá thép dây Châu Á ngày hôm qua ổn định so với tuần trước. Mặc dù sức mua chậm nhưng các nhà xuất khẩu Trung Quốc không giảm giá vì giá trong nước tăng. Platts tăng giá thép dây dạng lưới 6.5mm lên 4 USD/tấn so với tuần trước, đạt mức 425 USD/tấn FOB.

Tại thị trường Thượng Hải, giá giao ngay thép dây Q195 6.5mm ở mức 3.550 NDT/tấn (515 USD/tấn) xuất xưởng đã có thuế, tăng 190 NDT/tấn so với tuần trước. Giá tăng mạnh nhờ các nhà máy tăng giá xuất xưởng và được hậu thuẫn bởi giá kỳ hạn tăng.

Tại sàn SHFE ngày hôm qua, hợp đồng thép cây giao tháng 10 chốt ở mức 3.110 NDT/tấn, tăng 111 NDT/tấn, tương đương 3.7% so với hôm thứ ba.

Các nhà xuất khẩu lớn chào bán thép dây Q195 6.5mm ở mức 430-440 USD/tấn FOB, tăng nhẹ hơn trong nước do đơn hàng thấp. Tuy nhiên, có một nhà máy lớn ngưng chào bán vì nhận thấy giá thị trường tăng nhanh.

Bên cạnh đó, cũng có một nhà máy nữa ngưng chào bán, nhưng do đã nhận đủ đơn hàng. Giá giao dịch được đồn đoán ở mức 430 USD/tấn FOB. Một thương nhân khác cho rằng, người mua chủ yếu là các khách hàng trong nước phục vụ cho việc bán khống của họ.

Các chào mua từ ngoài nước giảm sau khi xu hướng thị trường bất ổn. Giá chào mua đạt mức 410-420 USD/tấn FOB. Hầu hết các nhà máy đều đồng tình rằng không ai chốt giá trên nữa, trừ phi muốn bán khống. Tuy nhiên, các thương nhân sẽ không chấp nhận rủi ro để bán khống trong bối cảnh thị trường chưa rõ ràng.

Nhà máy Jiujiang Wire Co Hà Bắc tăng giá niêm yết thép dây hàng tuần thêm 100 NDT/tấn (7 USD/tấn), đạt mức 3.200 NDT/tấn xuất xưởng đã tính thuế.

NSSMC tăng giá hợp đồng thép dầm tháng 5

Nhà máy Nippon Steel & Sumitomo Metal Corp (NSSMC) quyết định tăng giá các hợp đồng thép dầm tháng 5 (thép được sản xuất vào tháng 6) thêm 2.000 Yên/tấn (18 USD/tấn) để cải thiện lợi nhuận.

Phát ngôn viên nhà máy cho biết đã dự tính tăng 5.000 Yên/tấn cho tất cả các mặt hàng. Mức tăng này chỉ là một phần trong kế hoạch. Tính từ cuối tháng 10 đến nay thì công ty đã tăng thêm 23.000 Yên/tấn cho thép dầm, tuy nhiên, lợi nhuận vẫn còn thấp.

Công ty này dự định sẽ tăng tiếp trong vài tháng tới. Đây là nhà máy lớn nhất Nhật Bản và có vai trò lãnh đạo tại thị trường thép dầm hình H.

NSSMC không công bố giá niêm yết, nhưng giá thị trường hiện tại cho thép dầm hình H cỡ lớn là 75.000-76.000 Yên/tấn (666-675 USD/tấn), không đổi so với tháng trước, và tăng 7.000 Yên/tấn so với tháng 10.

Một thương nhân thép xây dựng ở Tokyo cho biết, nhu cầu tiêu thụ thép dầm hình H trong giai đoạn tháng 4-6 thường suy yếu vì lý do mùa thấp điểm, chủ yếu vì các dự án xây dựng cộng đồng Q1 vẫn chưa được khởi công.

Tuy nhiên, sự sụt giảm năm nay không nhiều bằng những năm ngoái và hàng tồn vẫn ở mức thấp, quá trìn giao hàng tới người mua diễn ra suôn sẻ.

Hàng tồn tại các nhà phân phối nội địa của tập đoàn Tokiwakai thuộc NSSMC đạt mức 196.600 tấn vào cuối tháng 4, không đổi so với cùng kỳ năm ngoái nhưng giảm 2.4% so với tháng 3. Lượng thép dầm hình H giao từng ngày trong tháng 4 đạt mức 40.000 tấn, tăng 2.8% so với tháng 3.

Trong khi đó, chi nhánh của công ty, nhà máy  Nippon Steel & Sumikin Shapes ở Wakayama, tây Nhật Bản cũng sẽ giữ giá các hợp đồng tháng 5. Nhà máy này vận hành lò cao để sản xuất thép dầm, và sự suy yếu của giá phế gần đây đã giúp nhà máy kiếm lời.

Định giá HRC EU

Platts vẫn duy trì giá HRC Tây Bắc Âu tại mức 525-530 Euro/tấn (581.11-590.69 USD/tấn) xuất xưởng Ruhr trong ngày hôm qua.

Các khách hàng Đức và Benelux cho biết giá giao dịch hiện tại là 525-530 Euro/tấn xuất xưởng Ruhr, nhưng giá vẫn còn gặp áp lực.

Một nhà máy Tây Âu chào bán giá 530-540 Euro/tấn trong khi giá nhập khẩu ở mức 480-490 Euro/tấn CIF Antwerp, chủ yếu là từ Ấn Độ còn Nga đã rút khỏi thị trường. Tuy nhiên, đồng dolla giảm có thể giúp giá nhập khẩu thu hút hơn.

Các nhà máy Trung và Đông Âu có giá cạnh tranh nhất, chỉ 470 Euro/tán giao tới Nam Đức vào tháng 7, tương đương 485 Euro/tấn giao tới Ruhr, nhưng người mua sẽ không đặt hàng vì không cần nguyên liệu lúc này và lo ngại nguồn cung sẽ tăng lại.

Các nhà máy Ý chào bán ở mức 500-505 Euro/tấn xuất xưởng.

Giá xuất khẩu HDG Thổ Nhĩ Kỳ vấp phải áp lực tiêu thụ thấp

Các nhà máy HDG Thổ Nhĩ Kỳ đang vật lộn giữ giá chào trong nước và xuất khẩu trước áp lực tiêu thụ thấp và sự cạnh tranh gay gắt giữa các người bán.

Một nhà máy cho biết, nhu cầu tiêu thụ từ Châu Âu với vài thị trường chính khác đều giảm mạnh, trong khi các nhà máy tăng cạnh tranh nhau. Mùa hè là thời kỳ tiêu thụ thấp điểm. Chỉ có nhu cầu từ các nước lân cận là tốt.

Nhà máy này cho biết thêm, người bán đang cố gắng giữ giá xuất khẩu. Tuy nhiên, các nhà máy Việt Nam và Ấn Độ đang tranh giành thị phần, nhất là khu vực Châu Âu, với giá chào thấp.

Một trung tâm dịch vụ ở khu vực Marmara cho biết, nhu cầu tiêu thụ trong nước vẫn chậm chạp. Người mua chỉ mua cầm chừng. Lễ Ramadan sắp tới cộng với hè sẽ hạn chế sức mua trong khi thị trường tiếp tục đối mặt với các vấn đề khó khăn tiền mặt.

Giá chào HDG 0.5mm trong nước dưới mức 700 USD/tấn, kèm chiết khấu cho các đơn hàng lớn. Tuy nhiên, các nhà máy cho biết giá chào tuần này ngang với tuần trước, tầm 710-730 USD/tấn  trong khi HDG 1mm cũng ổn định ở mức 640-660 USD/tấn xuất xưởng. Giá chào HDG xuất khẩu thấp hơn 10-15 USD/tấn so với giá nội địa.

Trong khi đó, giá chào PPGI 9002 0.5mm cũng ổn định ở mức 800-820 USD/tấn xuất xưởng.

Định giá phôi thanh CIS

Platts tăng giá phôi thanh CIS thêm 2 USD/tấn, đạt mức 395 USD/tấn trong ngày hôm qua.

Giá chào phôi thanh từ các nhà máy CIS ở mức 400-410 USD/tấn fob Biển Đen, thanh toán theo thư tín dụng L/C. Một nhà máy Ukraina chào bán 10.000 tấn phôi thanh giao cuối tháng 6 ở mức 390 USD/tấn biển Azov thanh toán trước. Nhà máy này dường như sẽ bán được giá 385 USD/tấn FOB, bằng giá các đơn hàng trước.

Một thương nhân Châu Âu dự thầu ở mức 385-393 USD/tấn FOB tùy thuộc vào loại phôi thanh. Một thương nhân đang chờ phản hồi của nhà máy trước giá dự thầu 395 USD/tấn FOB Biển Đen của ông. Một nhà cán lại Thổ Nhĩ Kỳ nhận được chào giá ở mức 420 USD/tấn CFR Iskenderun (gần 400 USD/tấn FOB). Giá nhà máy này chào mua là 410 USD/tấn CFR (390 USD/tấn FOB).

Một đơn hàng phôi thanh dạng dây kéo từ Ukraina dược chào ở mức 400 USD/tấn FOB Biển Đen tới Algeria. Giá này được cho là quá cao theo một thương nhân Bắc Phi.

Giá chào phôi thanh Biển Đen tháng 6 không đổi so với tháng trước

Các nhà máy phôi thanh CIS duy trì giá chào lô hàng giao tháng 6 không đổi so với tháng trước. Giá mục tiêu tiếp tục trên mức 400 USD/tấn FOB Biển Đen, trong bối cảnh người mua đặt nhiều hàng hơn.

Giá chào phần lớn ở mức 400-410 USD/tấn FOB. Một thương nhân Châu Âu chào mua ở mức 385-393 USD/tấn FOB. Một thương nhân khác chào mua giá 395 USD/tấn FOB và đang chờ phản hồi.  Xét về vị thế giá lên, giá dự thầu này sẽ được chấp nhận.

Vài khách hàng Thổ Nhĩ Kỳ chào mua ở mức 412-415 USD/tấn CFR Marmara/Aliaga, tương đương 395-400 USD/tấn FOB Biển Đen. Giá này được cho là khả thi đối với giao dịch từ nhà máy tới nhà máy, nhưng không đảm bảo lợi nhuận.

Nhà máy NLMK Nga chốt đơn hàng tới Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 413 USD/tấn CIF Aliaga, tương đương 400 USD/tấn FOB. Tuy nhiên, giá này không phổ biến trên thị trường, và được cho là sự đền bù của người mua tới nhà máy sau khi họ đax chốt hai đơn hàng tại mức 374 USD/tấn FOB cách đay 2 tuần tới cùng khách hàng này, ngay trước khi giá tăng lên 390 USD/tấn FOB.

Một thương nhân khác cho rằng, giá có thể giao dịch tới thị trường Thổ Nhĩ Kỳ là 4-5 USD/tấn CIF Aliaga. Ông sẽ bảo toàn giá bán 385 USD/tấn FOB, bằng với giá chốt của nhà máy Elektrostal Kurakhovo Ukraina cho lô hàng 25.000 tấn thanh toán trước hồi đầu tháng này. Nhà máy này đang chào 10.000 tấn phôi thanh giao cuối tháng 6 loại 3SP tại mức giá 390 USD/tấn FOB Biển Azov.

Platts tăng giá phôi thanh Biển Đen theo ngày thêm 2 USD/tấn, đạt mức 395 USD/tấn FOB Biển Đen.

Triển vọng giá thép cây Mỹ nhiều xáo trộn

Thị trường thép cây Mỹ nhiều xáo trộn trong bối cảnh chờ đợi chính quyền thông báo biên độ thuế chống bán phá giá cuối cùng và thuế đối kháng cho thép cây nhập khẩu Thổ Nhĩ Kỳ.

Trong ngày thứ hai, Ủy ban thương mại Mỹ thông báo biên độ thuế chống bán phá giá là 5.39-8.17% cho thép cây Thổ Nhĩ Kỳ, còn Habas bị áp thuế đối kháng 16.21%.

Thông báo trên dường như sẽ loại Habas ra khỏi thị trường Mỹ, do thuế phải chịu sau khi bị chống bán phá giá và cả đối kháng là 21.6%. Tuy nhiên, các nhà máy khác vẫn hoạt động vì thuế gần như không đổi so với thuế sơ bộ.

Nhập khẩu từ các nước gồm cả Nga, Peru và Ý có thể thu hút  hơn đối với khách hàng Mỹ, và giá cao từ các nước này sẽ hỗ trợ giá nội địa Mỹ tăng. Một nhà máy dự báo giá thép cây Mỹ sẽ tăng 20 USD/tấn trong tháng 6.

Tuy nhiên, một nhà máy khác đặt ra câu hỏi liệu rằng các nhà máy trong nước có thể duy trì được đà tăng không vì sức mua thấp.

Nhu cầu tiêu thụ thép cây trong nước Mỹ đã suy yếu mấy tuần nay. Các nhà máy sẽ dựa vào điều kiện thị trường để điều chỉnh giá. Giá thép cây Florida đang suy yếu vì hàng nhập khẩu giá rẻ.

Platts duy trì giá thép cây Southeast Mỹ tại mức 530-550 USD/tấn xuất xưởng trong ngày hôm qua, không đổi so với thứ ba.