Giá thép cuộn không gỉ Châu Á tăng thêm do niken lên giá
Giá giao dịch của CRC không gỉ loại 304 2B dày 2mm xuất xứ từ Đài Loan và Hàn Quốc hôm thứ sáu tiếp tục tăng thêm 3.000-3.100 USD/tấn CFR các cảng lớn ở Đông Nam Á và Đông Á, từ mức giá 2.700-2.800 USD/tấn CFR của tuần trước đó, sau khi niken tăng lên hơn 20.000 USD/tấn.
Các giao dịch CRC xuất xứ từ Hàn Quốc và Đài Loan tuần trước được thực hiện với giá khoảng 3.050 USD/tấn CFR Hong Kong. Lượng giao dịch trong tuần qua gia tăng vì giá thép tại thị trường Trung Quốc lên tương đương khoảng 3.000 USD/tấn, khiến hàng nhập khẩu hấp dẫn hơn đối với người mua Trung Quốc.
Nhưng một nhà xuất khẩu ở Seoul cho biết ông không thể chốt được bất kỳ hợp đồng nào trong tuần trước do nhiều khách hàng không muốn mua vì họ cho rằng giá liên tục tăng.
Chào giá CRC Hàn Quốc tuần trước nghe nói tầm 3.050-3.200 USD/tấn CFR Trung Quốc, Hong Kong và Đông Nam Á. Còn chào giá của CRC Đài Loan là 3.050 USD/tấn CFR Hong Kong nhưng do một vài nhà máy Đài Loan không chào bán nên một số thương nhân cũng không chào mời CRC Đài Loan. Chào giá ở tuần lễ kết thúc ngày 09/5 trong khoảng 2.780-2.870 USD/tấn CFR.
Chào giá trên thị trường thưa thớt từ hai tuần trước do nhiều nhà máy đã ngưng chào hàng sau khi niken tăng giá. Giá giao dịch chính thức bằng tiền mặt của niken trên sàn LME tăng lên hơn 21.000 USD/tấn, đây là mức cao của 26 tháng vào đầu tuần trước nhưng sau đó được điều chỉnh và giảm còn 18.745-18.750 USD/tấn vào ngày thứ Năm.
Giá giao ngay của quặng sắt chọc thủng mức hỗ trợ 100 USD/dmt
Giá quặng sắt giao ngay lần đầu tiên trong 20 tháng đã chọc thủng mốc 100 USD/dmt vào ngày thứ Sáu trong bối cảnh nguồn cung tiếp tục dồi dào và nhu cầu tiêu thụ thép chậm chạp. Hôm thứ Sáu, IODEX 62% Fe được định giá tại 99,75 USD/dmt CFR miền bắc Trung Quốc, giảm 3% tức 3 USD/dmt so với tuần trước đó.
Trước đó, các nguồn tin thị trường đã cho 100 USD/dmt là mức hỗ trợ nhưng giá đặt mua, chào giá đều thấp hơn và các giao dịch trong ngày thứ sáu đã chứng kiến đợt giảm 3,5 USD/dmt tới dưới mức hỗ trợ trên.
Với việc chào bán các lô hàng giao ngay gần như là mỗi ngày từ các nhà khai thác mỏ của Australia và Brazil nên nhiều nhà máy không vội thu mua. “Khối lượng nguồn cung ngay giờ đây quá lớn trong khi lực cầu không thể theo kịp. Mỗi ngày thị trường đều chìm ngập với các chào giá mua và bán, người mua biết là họ không cần phải mua gấp nếu không muốn mua bởi vì có quá nhiều nguồn hàng xung quanh họ”, một thương nhân ở Bắc Kinh nói.
Sự tĩnh lặng này càng tăng thêm khi nhu cầu tiêu thụ thép sụt giảm, và mối lo ngại sản lượng thép Trung Quốc gia tăng sẽ gây khó cho giá thép.
Nhiều nhà máy lớn của Trung Quốc đã duy trì giá xuất xưởng tháng 05 cho tháng 06 nhưng thị trường giao ngay vẫn còn suy yếu vì tồn kho tại các nhà máy tăng và doanh số thấp.
Giá quặng sắt rẻ hơn tại các cảng Trung Quốc cũng khiến nhu cầu cho quặng nhập khẩu sụt giảm do các nhà máy muốn mua những lô nhỏ với thời gian giao hàng ngắn hơn, thay vì phải cam kết mua lô lớn trong lúc thị trường bất ổn.
Quặng chrome nhập khẩu vào Trung Quốc giảm giá do lực mua chậm
Giá giao ngay của quặng chrome xuất xứ từ Nam Phi (48-52% Cr) được chốt tại 81-82 cents/lb CIF Trung Quốc, giảm từ mức 82-83 cents/lb CIF của tuần trước đó, do chào giá giảm vì nhu cầu tiêu thụ chậm lại. Không có giao dịch nào được xác nhận nhưng theo các nguồn tin cho biết mức giá có thể giao dịch thì thấp hơn khoảng giá này.
Platts định giá cho giá giao ngay của ferrochrome hàm lượng cacbon cao xuất xứ từ Ấn Độ (58-60% Cr) vào thứ sáu tuần trước duy trì tại 83-84 cents/lb CIF Trung Quốc trong khi thiếu các chỉ số giá.
Lượng giao dịch quặng chrome và ferrochrome tại Trung Quốc vẫn còn chậm do lực cầu từ các nhà máy thép không gỉ suy yếu, cộng thêm với giá trong nước giảm trong khi nguồn cung lại dồi dào. Một thương nhân ở Thượng Hải cho biết nhu cầu cho ferrochrome trong nước và nhập khẩu gần đây đều chậm hơn do các nhà máy đã bắt đầu sử dụng phế không gỉ nhiều hơn để sản xuất sau khi gang thỏi chứa niken ở trong nước lên giá.
Một vài thương nhân cũng nói rằng họ đã không nhận được đơn đặt hàng nào từ những nhà tiêu dùng Trung Quốc cho quặng nhập khẩu vào tuần trước. Giá đặt mua cho nguyên liệu nhập khẩu chỉ ở mức 80 cents/lb CIF hay thấp hơn, nhưng đây không phải là giá đặt mua chắc chắn và cũng không có nhà cung cấp nào sẵn sàng giảm tới mức này.
Thứ tư tuần trước, giá giao ngay trong nước của ferrochrome hàm lượng cacbon cao 50% Cr giảm còn 6.500-6.700 NDT/tấn (tương đương 80-82 cents/lb) gồm phí vận chuyển và VAT 17%, giảm từ mức 6.600-6.700 NDT/tấn của tuần trước đó.
Giá thép ống đúc miền đông Trung Quốc bị sức ép do thép nguyên liệu giảm
Giá giao ngay của thép ống đúc ở thành phố Thượng Hải vẫn còn suy yếu trong tuần trước giữa bối cảnh sức mua từ những nhà tiêu dùng trực tiếp rất “nghèo nàn”, khi các nhà sản xuất thép ở miền đông Trung Quốc mới đây đã hạ giá xuất xưởng của họ xuống tới 50 NDT/tấn (8 USD/tấn) cho thép tròn đặc dùng làm nguyên liệu để sản xuất thép ống đúc.
Hôm 16/5, Platts định giá thép ống 20# 219x6mm (GB/T 8163) được sản xuất từ các nhà máy ở miền đông Trung Quốc là 4.030 NDT/tấn (645 USD/tấn) gồm VAT 17% tại Thượng Hải, giảm khoảng 20 NDT/tấn so với tuần trước đó.
Tồn kho thép ống còn ít ở Thượng Hải là lực hỗ trợ chính cho giá thép hiện nay. Thêm vào đó, chỉ có một vài nhà sản xuất thép ống ở khu vực sản xuất chủ chốt của cả nước tại tỉnh Sơn Đông là hạ giá xuất xưởng xuống 20 NDT/tấn, trong khi các nhà sản xuất khác thì vẫn tiếp tục duy trì giá bán không đổi.
Theo sau xu hướng chung của thị trường thép, giá thép tròn đặc đã giảm nhiều hơn trong tuần trước khiến chi phí sản xuất thép được cắt giảm. Hôm 11/5, một vài nhà máy thép chủ chốt ở miền đông đã thông báo ý định giảm giá xuất xưởng của họ cho thép tròn đặc từ ngày 11-20/5.
Đơn cử như, Zenith Steel Group và Changqiang Iron & Steel, cả hai đều là nhà sản xuất lớn ở tỉnh Giang Tô, đã ra thông báo là sẽ giảm giá xuất xưởng cho thép tròn đặc loại 20# 50-130mm xuống 40 NDT/tấn còn lần lượt 3.410 NDT/tấn và 3.460 NDT/tấn, đã có VAT. Một nhà máy khác ở Giang Tô là Huaigang Special Steel cũng đã giảm giá xuất xưởng xuống 50 NDT/tấn còn 3.510 NDT/tấn cho thép tròn đặc 20# 16-85mm. Giá xuất xưởng của các nhà máy này trong tháng 05 đã giảm tổng cộng 100 NDT/tấn.
Giá thép cây tại miền bắc Trung Quốc lại giảm sâu thêm; giá giao kỳ hạn chạm mức thấp kỷ lục
Giá thép cây giao ngay ở miền bắc Trung Quốc tiếp tục nhích xuống thấp hơn trong ngày thứ Sáu cùng với sự bi quan của niềm tin thị trường do giá thép cây giao kỳ hạn đã chạm mức thấp kỷ lục mới.
Tại thị trường bán lẻ Bắc Kinh, thép cây HRB400 đường kính 18-25mm được sản xuất từ nhà máy Hebei Iron & Steel có giá giao ngay chốt tại 3.210-3.230 NDT/tấn (514-517 USD/tấn) khối lượng thực gồm VAT 17%, giảm 10 NDT/tấn so với ngày thứ năm tuần trước.
Tuần trước, thị trường đã chứng kiến đà giảm tổng cộng 20-30 NDT/tấn mặc dù tồn kho tại Bắc Kinh có xu hướng đi xuống, cụ thể trữ lượng đã giảm thêm 40.500 tấn tức 9% so với tuần trước đó còn 410.700 tấn, chỉ bằng một nửa so với mức cao đỉnh điểm hồi cuối tháng 02 (813.200 tấn).
Một vài thương nhân ở Bắc Kinh đang giữ giá ổn định. Vì vậy, lượng giao dịch hôm thứ sáu của họ khá thấp so với mức trung bình.
Cùng ngày, một số thương nhân khác đã giảm chào giá nên giúp doanh số bán ra gia tăng vì có mức giá thấp hơn. Nhưng điều này có thể sẽ khuyến khích thêm nhiều đại lý thực hiện tương tự nhằm thu hút được nhiều người mua.
Với triển vọng u ám, giá thép cây giao ngay có thể nhích nhẹ xuống nữa nhưng không thể giảm quá sấu.
Hợp đồng thép cây giao kỳ hạn tháng 10 trên sàn SHFE giảm 1,3% so với thứ năm chốt tại 3.090 NDT/tấn, đây là mức thấp nhất kể từ khi cho ra mắt hợp đồng tương lai vào tháng 03/2009.
Shougang không thay đổi giá xuất xưởng tháng 06
Shougang Iron and Steel (Shougang) sẽ giữ giá xuất xưởng tháng 06 không đổi cho HRC và CRC, nhưng sẽ giảm giá HDG xuống 60 NDT/tấn. Trong khi đó, Anshan Iron & Steel và Hebei Iron & Steel lại duy trì giá xuất xưởng của hầu hết các loại thép.
Theo đó, giá xuất xưởng cho HRC SS400 5.75mm của Shougang sẽ vẫn duy trì tại 3.260 NDT/tấn, CRC SPCC 1.0mm là 4.250 NDT/tấn và HDG DX51D+Z 1.0mm sẽ giảm xuống còn 4.490 NDT/tấn. Tất cả các giá trên đều chưa có VAT 17%.
Nhiều thương nhân tin là giá HRC có khả năng sẽ còn dao động quanh mức hiện nay trong tháng 05 và 06, và động thái duy trì giá xuất xưởng cho thấy thái độ dè dặt của các nhà máy. Thêm vào đó, giá HRC giao kỳ hạn trên sàn SHFE cũng làm mất niềm tin thị trường và kéo giá trên thị trường giao ngay đi xuống theo kể từ hôm thứ Tư.
Hôm 16/5, HRC Q235 5.5mm chủ yếu được giao dịch với giá 3.350-3.380 NDT/tấn, giảm 20 NDT/tấn từ mức giá cao gần đây hôm 13/5 (3.360-3.400 NDT/tấn). Một vài người mua với tình trạng tín dụng eo hẹp đã hạ giá xuống còn 3.340 NDT/tấn.
Doanh số quặng sắt loại kém chất lượng hơn trở nên khó khăn khi giá quặng sắt 62% Fe gần đây giảm còn khoảng 103 USD/tấn và công ty FMG của Australia có thể đưa ra thêm các khoản chiết khấu cho những lô quặng sắt giao trong tháng 06 và điều này có thể gây tác động tiêu cực lên giá quặng sắt và khiến giá thép giảm theo, một nhà phân tích ở Thượng Hải khuyến cáo.
Angang và Shougang đều duy trì giá thép tấm, tồn kho giảm
Anshan Iron & Steel (Angang) và Shougang đều thông báo hôm thứ sáu rằng họ sẽ giữ giá xuất xưởng tháng 06 cho thép tấm, như vậy thép tấm Q235 20mm của hai nhà máy này sẽ có giá lần lượt là 3.680 NDT/tấn (589 USD/tấn) và 3.600 NDT/tấn, đều chưa có 17% VAT.
Một vài thương nhân ở Thượng Hải cho hay động thái này nằm trong dự báo trước đó do thị trường ảm đạm và họ vẫn không có ý định tăng dự trữ vì giá khó mà tăng trong thời gian ngắn.
Hôm thứ Sáu, thép tấm Q235 14-20mm được giao dịch phổ biến từ 3.420-3.470 NDT/tấn đã có VAT, giảm 25 NDT/tấn từ ngày 11/5. Tuy nhiên, những thương nhân này không tin là giá sẽ giảm mạnh hơn nữa do tồn kho cũng vẫn ở mức thấp, trừ phi có một vài tin tức xấu không thể đoán trước từ thị trường tài chính hay thị trường bất động sản.
Theo nhà cung cấp thông tin MySteel, trữ lượng thép tấm tại 31 thành phố lớn của Trung Quốc hôm thứ sáu tuần trước giảm thêm 35.700 tấn trong tuần qua xuống còn 1,34 triệu tấn.
Thị trường nhập khẩu HRC Trung Quốc suy yếu tại Đông Á
Thị trường nhập khẩu HRC tại khu vực Đông Á suy yếu trong suốt tuần qua do giá quặng sắt giảm cùng với nhu cầu tiêu thụ trì trệ.
Các chào giá cho HRC SS400B tiêu chuẩn thương mại dày 3-12mm nghe nói là 525 USD/tấn CFR Hàn Quốc, giảm từ mức 530 USD/tấn CFR và một vài giao dịch nghe nói được ký kết với giá từ 520-523 USD/tấn CFR Hàn Quốc trong tuần qua.
Tại Việt Nam, các giao dịch HRC được thực hiện với giá 521-523 USD/tấn CFR, thấp hơn so với chào giá 525-530 USD/tấn CFR. Nhu cầu tiêu thụ thấp tại Trung Quốc là một nguyên nhân đẩy giá đi xuống. Giá giao dịch trong tuần trước của HRC tầm 525 USD/tấn CFR Việt Nam.
Chào giá HRC Trung Quốc gần đây là cho các lô hàng giao tháng 06 và 07. HRC SAE 1006B cán lại hồi đầu tuần trước được chào bán với giá 550 USD/tấn CFR Việt Nam, nhưng một hợp đồng 10.000 tấn giao tháng 07 gần đây được chốt tại 545 USD/tấn CFR Việt Nam.
Các giao dịch được ký kết trong hai tuần trước tại mức giá 550 USD/tấn CFR Việt Nam. Một nhà cán lại cho hay có một nhà máy Trung Quốc đã bán 30.000 tấn với giá này trong thời gian trên. Nhu cầu thị trường không cao ở Việt Nam, thị trường CRC ở khu vực Đông Nam Á cũng ảm đạm vì mùa mưa sắp đến và tháng chay của người Hồi giáo cũng đang đến gần.
Các nhà máy Trung Quốc giữ giá thép cuộn nhưng giá giao ngay lại suy yếu
Anshan I&S (Angang) thông báo hôm thứ sáu rằng sẽ tiếp tục giữ giá xuất xưởng tháng 06 không đổi cho tất cả các loại thép. Động thái này được thực hiện sau khi Hebei Iron & Steel (Hegang) tuyên bố sẽ duy trì giá cho tháng 06. Cả hai chính sách giá này sẽ áp dụng cho những đơn đặt hàng trong suốt tháng 06 tới.
Theo đó, HRC Q25 5.5mm và CRC SPCC 1.0mm của Angang có giá xuất xưởng duy trì lần lượt tại 3.430 NDT/tấn (556 USD/tấn) và 4.085 NDT/tấn chưa có VAT 17%; thép tấm Q235 20mm có giá chốt tại 3.680 NDT/tấn. Giá của HRC và CRC loại tương tự từ nhà máy Hegang có giá lần lượt là 3.600 NDT/tấn và 4.400 NDT/tấn bao gồm VAT.
Một thương nhân ở Bắc Kinh cho biết các nhà máy không thể có lời ở mức giá hiện nay và chỉ có các nhà máy tư nhân với chi phí môi trường thấp mới có thể kiếm được lợi nhuận. Do đó nhiều nhà máy có thể giữ chào giá cố định trước khi giá quặng sắt giảm thêm nữa.
Nhiều thương nhân ở Thượng Hải và Lecong vẫn giữ thái độ bi quan về thị trường thép trong những ngày còn lại của tháng này, thêm vào đó sản lượng thép thô tăng có thể làm suy yếu dần đà đi lên. Hôm thứ Sáu, Hiệp hội Sắt thép Trung Quốc công bố sản lượng thép thô của các nhà máy thành viên đạt mức trung bình 1,824 triệu tấn/ngày qua 10 ngày đầu tháng 05, tăng 1,6% so với con số của 10 ngày cuối tháng trước.
Giá HRC giao ngay giảm nhẹ hôm thứ sáu do sức mua yếu, HRC Q235 5.5mm có giá 3.350-3.380 NDT/tấn tại Thượng Hải, giảm 15 NDT/tấn so với ngày trước đó, và giá của loại thép này tại Lecong là 3.510-3.530 NDT/tấn, bằng với giá của ngày thứ Năm. Các giá trên đều đã có VAT.
Nhà máy Kardemir tăng giá thu mua phế nội địa
Nhà máy Kardemir Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng giá thu mua phế DKP nội địa thêm 20 TRY/tấn, đạt mức 835 TRY/tấn (398 USD/tấn) do nhu cầu mua hàng tăng mặc dù thị trường vẫn bình ổn.
Tuy nhiên, Erdemir lại giảm giá thu mua xuống do đồng Lira tăng trở lại và giá phế nhập khẩu ổn định. Gía thu mua mới của nhà máy này đạt mức 845 TRY/tấn (403 USD/tấn), fgiamr 10 TRY/tấn so với giá thu mua trước.
Trong khi đó, giá thu mua từ các nhà máy khác vẫn đang trên đà ổn định kể từ giữa tháng 4 cùng với sự bình ổn của phế nhập khẩu.
Giá thu mua của Colakoglu đạt mức 790 TRY/tấn (377 USD/tấn) trong khi nhà máy hợp kim Asil Celik vẫn giữ giá thu mua tại mức 810 TRY/tấn (386 USD/tấn) kể từ giữa tháng 4. Nếu tính bằng đồng dolla, những giá này đã tăng 6-7 USD/tấn so với giữa tháng 4 theo sau sự mất giá của đồng Lira.
Trong khi đó, phế nóng chảy từ xác tàu thuyền vẫn được chào bán tới các nhà máy Tây Thổ Nhĩ Kỳ (Habas, IDC và Ege Celik) tại mức 375 USD/tấn giao tới nhà máy .
Giá xuất khẩu HDG Ấn Độ ổn định trong lúc thị trường im ắng
Giá xuất khẩu HDG từ Ấn Độ tới Mỹ gần như ổn định trong suốt tuần qua giữa bối cảnh giao dịch trầm lắng. Tuy nhu cầu tiêu thụ chậm hơn so với tuần trước nhưng một vài nhà máy vẫn đang giữ chào giá không đổi.
Giá giao dịch của thép cuộn dày 0.3mm loại thường phủ 90 gram kẽm trên một mét vuông tiếp tục giữ ở mức trung bình từ 840-850 USD/tấn CFR East Coast Hoa Kỳ, trong đó phí vận chuyển khoảng 50-60 USD/tấn trong tháng 07, không đổi so với tuần trước đó.
Gần 10.000 tấn HDG được bán tới Mỹ với giá ký kết là 840 USD/tấn CFR Mỹ kể từ đầu tháng này.
Một thương nhân ở Mumbai cho biết Platts JSW Steel đã duy trì chào giá 875 USD/tấn CFR Mỹ. “Với sự mạnh lên của đồng Rupee Ấn Độ, tôi tin là JSW Steel không vội để giảm tải bớt khối lượng của họ. Bên cạnh đó, với những diễn biến chính trị tại Ấn Độ, doanh số trong nước sẽ tốt hơn. Tuy nhiên, vẫn chưa có lời bình luận nào từ phía JSW Steel.
Thép Ấn Độ đang cạnh tranh với thép nhập khẩu từ các nước khác và một vài nhà quan sát thị trường cho rằng thép Nam Mỹ và Italia có lẽ sẽ có tính cạnh tranh hơn. HDG Italia loại chất lượng tương tự được ký kết hồi tuần trước với giá khoảng 830 USD/tấn CFR Mỹ.
Kết quả cuộc bầu cử Ấn Độ được công bố hồi thứ Sáu tuần trước với chiến thắng của Đảng Bharatiya Janata Party (BJP). Các nhà phân tích trước đó đã dự báo rằng với một chế độ chính trị mới sẽ mang đến sự phục hồi cho mức tiêu thép trong nước.