Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 20/01/2016

Giá thép cuộn Mỹ ổn định do các nhà môi giới cắt giảm hàng tồn kho
Giá thép cuộn Mỹ ổn định đầu tuần này do thời gian giao hàng tăng và hàng tồn kho giảm. Giá HRC chắc chắn cao hơn 400 USD/tấn nhưng vẫn chưa chạm mốc 420 USD/tấn. Các nhà máy tích hợp có thời gian giao hàng tới gần tháng 3 mặc dù thời gian giao hàng từ các nhà máy mini vẫn tới cuối tháng 1 hoặc đầu tháng 2.
Một trung tâm dịch vụ đã đặt mua thép cuộn mạ với mức 530 USD/tấn. Mặc dù các nhà máy đã nhận được ít động lực nhưng giá tăng khó bền vững.
Các nhà máy chào bán HRC tại mức 420 USD/tấn xuất xưởng và CRC tại mức 540 USD/tấn hoặc cao hơn. Hầu hết các giao dịch HRC có thể ở mức 400 USD/tấn. Platts định giá HRC và CRC tại mức 400-420 USD/tấn và 520-540 USD/tấn xuất xưởng Midwest.
Một nguồn tin cho biết nguồn cung nội địa giảm, khối lượng hàng nhập khẩu thấp và các vụ kiện thương mại cũng như sự đóng cửa ngành thép đã tạo ra môi trường hỗ trợ giá tăng. Hơn thế nữa, các trung tâm dịch vụ đã cắt giảm hàng tồn kho và họ sẽ còn tiếp tục.
Một thương nhân dự báo hàng tồn kho sẽ giảm trong vòng 2-3 tháng tới. Ông đã nhận được vài yêu cầu hỏi mua CRC gần đây và tin rằng vẫn còn các giao dịch CRC thấp hơn 520 USD/tấn xuất xưởng.
 
 
Các khách hàng thép tấm Mỹ từ chối lần tăng thứ hai
Thông báo tăng giá thép tấm tháng 12 từ các nhà máy Mỹ đã được chấp nhận bởi thị trường nội địa trong khi chưa chấp nhận lần tăng giá thứ hai trong tuần qua. Platts tăng giá thép tấm thương phẩm A36 lên mức 470-490 USD/tấn xuất xưởng Đông Nam Mỹ.
Các nhà máy nội địa độc lập thông báo tăng giá thép thêm 30 USD/tấn. Nucor đã 2 lần thông báo tăng giá hồi ngày 11/12 và lần nữa là vào ngày 11/1. Lần tăng giá đầu tiên đã được chấp nhận phần nào song lần tăng thứ hai có vẻ khó khăn hơn.
 
Định giá phôi thanh CIS
Platts vẫn giữ giá phôi thanh CIS tại mức 255 USD/tấn FOB Biển Đen.
Giá giao dịch các lô hàng 15.000-20.000 tấn được sản xuất từ các lò cao được bán từ Ai Cập tại mức giá 255 USD/tấn FOB, tương đương mức 275 USD/tấn CFR. Các nhà máy CIS đang chào bán tại mức 260-265 USD/tấn trong khi giá từ Trung Quốc cao hơn tuần qua, đạt mức 255 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ.
Một thương nhân Thổ Nhĩ Kỳ cho biết các nhà cán lại Thổ Nhĩ Kỳ không sẵn sàng trả cao hơn 255 USD/tấn FOB Biển Đen, trái lại họ không sẵn sàng trả cao hơn 249-250 USD/tấn cho Trung Quốc.
 
Giá HRC CIS giảm
Mặc dù các nhà máy CIS hầu như đều có tâm lý tăng giá thép cuộn thì các thương nhân tin rằng họ sẽ giữ giá ổn định trong tuần này do người mua cần thời gian trước khi chấp nhận giá chào mới.
Một nhà máy Nga đang chào bán HRC tại mức 255 USD/tấn FOB Biển Đen nhưng một người khác đnag cố gắng bán tại mức 245-250 USD/tấn, giảm 5-10 USD/tấn so với tháng trước.
Nga đã bán vài lô hàng sang EU tại mức giá 280 USD/tấn FOB Biển Đen và Bantic, và cũng vài lô hàng tới Đông Nam Á tại mức giá 240-245 USD/tấn FOB Biển Đen nhưng vẫn thiếu đơn hàng và khối lượng không cao.
Giá chốt các đơn hàng HRC từ Nga trong tuần qua hoặc tuần này đạt mức 150-155 USD/tấn FOB Biển Đen với giá thép cuộn từ Ukraina thấp hơn ít nhất 5 USD/tấn.
Liên quan tới phôi phiến CIS, giá bán tới Châu Âu ở mức 205 USD/tấn FOB Biển Đen và hầu hết các đơn hàng chốt tại mức tăng nhẹ với giá tối đa là 210-212 USD/tấn.

Trong ngày hôm qua, Platts giảm giá HRC CIS xuống 2.5 USD/tấn còn 245-250 USD/tấn FOB Biển Đen. CRC cũng giảm nhẹ còn 300-310 USD/tấn FOB Biển Đen. 

Đài Loan: Feng Hsin tăng giá thép cây vì chi phí phế cao
Feng Hsin Iron & Steel đã nâng giá niêm yết cho thép cây thêm 200 Đài tệ/tấn (6 USD/tấn) trong tuần này vì giá mua phế trong nước đã tăng cùng với giá thế giới.
Sau những lần điều chỉnh mới đây, giá niêm yết của Feng Hsin cho thép cây đường kính chuẩn 13mm tăng lên 11.600 Đài tệ/tấn xuất xưởng Taichung. Đồng thời, nhà máy hiện đang mua phế HMS 1&2 (80:20) với giá 5.100 Đài tệ/tấn.
Thực ra, giá nhập khẩu của Đài Loan cho phế 80:20 tăng 7 USD/tấn tức 4.5% so với tuần trước đó lên 162 USD/tấn tính đến ngày 15/01, theo giá tham khảo của TSI.
Sự rớt giá của Đài tệ cũng giúp hỗ trợ cho sự gia tăng của nguồn cung phế trong nước vì các nhà tái chế trong nước luôn tham khảo giá tính bằng đôla Mỹ và cố gắng để làm cho giá trong nước của họ phù hợp với mức nhập khẩu- ít nhất là trong những tháng mùa đông khi nguồn cung khá hạn chế.
Cho đến nay, doanh số thép cây của Feng Hsin đã không bị ảnh hưởng bởi giá tăng. Mà thay vào đó một số nhà máy và thương nhân đã lao vào đặt mua thép cây hôm thứ sáu tuần trước. Đó là khi họ nghe nói giá phế toàn cầu đang tăng mạnh và đoán rằng nó sẽ chỉ là vấn đề thời gian trước khi các nhà sản xuất thép cây Đài Loan nâng giá thép”.


Giá CRC xuất khẩu của Trung Quốc tăng do giá trong nước cao hơn
Khách hàng đã dần dần chấp nhận giá xuất khẩu cao hơn cho CRC xuất xứ Trung Quốc, nhưng chênh lệch giữa giá mua và giá bán vẫn còn lớn. Trên thị trường CRC xuất khẩu hiện nay điều này đã khiến cho gần như không có bất cứ giao dịch nào được thực hiện.
Hôm thứ Ba, Platts định giá CRC SPCC dày 1.0mm trong khoảng 340-350 USD/tấn FOB, tăng 20 USD/tấn so với 1 tuần trước đó.
Một số nhà xuất khẩu cho biết người mua đang hy vọng sẽ mua được với giá khoảng 330 USD/tấn FOB nhưng không có nhà máy nào đồng ý mức giá này, do giá tốt hơn họ có thể chiến thắng trên thị trường nội địa. Nhưng ngược lại, các nhà sản xuất đang chào bán CRC ở mức 360-375 USD/tấn FOB, nhưng người mua sẽ không chấp nhận.
Một nhà xuất khẩu cho biết các doanh nghiệp có lẽ đã được thương lượng với giá thấp hơn còn khoảng 345 USD/tấn FOB nhưng nếu bất kỳ ai muốn mua CRC của Trung Quốc thì họ phải chấp nhận ít nhất là quanh mức này.
Một người khác cho biết ngay cả mức giá 345 USD/tấn FOB vẫn còn thấp hơn khoảng 300 NDT/tấn FOB so với giá ở Trung Quốc vì vậy các nhà máy không chịu hy sinh là điều có thể hiểu.
Tại thị trường Thượng Hải hôm thứ Ba, Platts định giá CRC loại như trên là 2.750-2.820 NDT/tấn (418-429 USD/tấn), tăng 10 NDT/tấn so với đầu tuần trước.
Một thương nhân cho biết nhu cầu đã thực sự chậm lại khi sắp tới Tết âm lịch, nhưng tồn kho thị trường thấp và hàng mới về hạn chế đang giúp hỗ trợ cho giá.
 

Giá HRC Châu Á không đổi mặc dù chào giá cao
Giá giao ngay của HRC ở Châu Á vẫn không đổi trong ngày thứ Ba mặc dù các nhà máy Trung Quốc giữ chào giá của họ cao. Platts định giá HRC SS400 3.0mm trong khoảng 270-275 USD/tấn FOB, bằng với ngày trước đó.
Benxi Iron & Steel tiếp tục chào bán HRC SS400 ở mức 285 USD/tấn FOB Trung Quốc trong khi một nhà máy khác ở đông bắc, Anshan Iron & Steel, đang yết giá 300 USD/tấn CFR Hàn Quốc hôm thứ Ba. Các khách hàng người Hàn Quốc có thể cũng chọn HRC từ nhà máy Shagang Group và Rizhao Iron & Steel- cả hai đều chào giá 285 USD/tấn CFR Hàn Quốc.
Cả hai nhà máy Yanshan Iron & Steel và Baotou Iron & Steel đều ở miền bắc Trung Quốc đều đang chào bán loại thép này tới Việt Nam với giá 287 USD/tấn CFR Việt Nam. Tuy nhiên, việc thực hiện được bất kỳ giao dịch nào ở mức như vậy là khó. “Giá mua của khách hàng chúng tôi là khoảng 280 USD/tấn CFR Hàn Quốc, phí vận chuyển 10 USD/tấn. Nhưng không có nhà máy sẵn sàng bán với giá như vậy”.
Trong khi đó, giá ở Trung Quốc đã tăng trong hai ngày đầu tuần, loại bỏ bất kỳ khả năng các nhà máy bán với giá 280 USD/tấn CFR Hàn Quốc. Ngược lại, người mua cần thêm thời gian để cân nhắc kế hoạch thu mua và vì vậy chỉ đang theo dõi và chờ đợi.
Tuy nhiên, tại thị trường Việt Nam, một số giao dịch cho HRC SS400 đã được giao dịch với giá 280 USD/tấn CFR Việt Nam (gồm phí vận chuyển 8-10 USD/tấn). Một giao dịch HRC SS400 được sản xuất bởi Xinyu Iron & Steel được thực hiện với giá 280 USD/tấn CFR Việt Nam. Tuy nhiên, không có thêm chi tiết nào được tiết lộ.
 

Thị trường HRC Thượng Hải bình lặng
Giá HRC giao ngay tại thị trường Thượng Hải tăng trong ngày thứ tư liên tiếp tính đến thứ Ba mặc dù với tốc độ chậm hơn, nhờ thị trường kỳ hạn ổn định. Kể từ thứ Năm tuần trước, giá đã tăng tổng cộng 30-40 NDT/tấn (5-6 USD/tấn).
Platts định giá HRC Q235 5.5mm ở Thượng Hải trong khoảng 2.010-2.040 NDT/tấn xuất xưởng gồm 17% VAT hôm thứ Ba, mức giá trung bình 2.025 NDT/tấn, cao hơn 10 NDT/tấn so với ngày trước đó. Hầu hết các thương nhân đều giữ chào giá của họ ở mức cao 2.030-2.060 NDT/tấn nhưng họ thừa nhận sẵn sàng thương lượng thấp hơn 10-20 NDT/tấn tùy vào khối lượng giao dịch.
Giá HRC đã tăng quá nhanh gần đây nhưng vấp phải sự phản đối từ khách hàng – một tình trạng đã dẫn đến lượng giao dịch trì trệ trong vài ngày qua. Chỉ có người mua nào mà cần gấp thép cuộn thì sẽ đặt đơn hàng.
Người mua thường muốn đặt hàng trong thời gian giá phục hồi, vì sợ rằng giá sẽ cao hơn nữa. Tuy nhiên, sự phục hồi gần đây của giá đã không kích thích hoạt động thu mua vì nhiều người đã rời khỏi thị trường để đón Tết Nguyên đán.
Giá thép trên thị trường giao ngay có thể sẽ duy trì ổn định trước Tết nhờ tồn kho thị trường thấp, trong khi khả năng để giá tăng là rất hạn chế vì sức mua teo tóp.
 

Thép cây Châu Á ổn định, hoạt động thị trường trì trệ
Giá thép cây giao ngay ở Châu Á không đổi trong ngày thứ Ba với hoạt động thu mua hạn chế. Chênh lệch lớn giữa chào giá của các nhà máy Trung Quốc và giá mua mong muốn của khách hàng làm cho các giao dịch khó mà được thực hiện. Kết quả là một số thương nhân Trung Quốc muốn tạm ngưng yết giá trong khi khách hàng cũng không quan tâm đến việc đưa ra giá mua.
Platts định giá thép cây BS500 đường kính 16-20mm trong khoảng 245-248 USD/tấn trọng lượng thực tế, không đổi kể từ ngày 05/01. Chào giá bình thường của các nhà máy Trung Quốc ở quanh mức 260 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế, nhờ được hỗ trợ bởi giá thép cây trong nước ổn định.
Một vài nhà máy đã chào giá 260 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết tới Singapore, tương đương 256 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế với phí vận chuyển 12 USD/tấn và dung sai khối lượng 3%, một thương nhân cho biết. Chính ông cũng không dám chào giá dưới mức 255 USD/tấn CFR Singapore như vậy- khi cân nhắc đến sự phục hồi của giá gần đây ở thị trường Trung Quốc.
Một thương nhân khác cho biết mức chào giá hợp lý ít nhất sẽ là 260 USD/tấn CFR Singapore. Tuy nhiên, tính đến ngày thứ Ba, một vài người mua vẫn đang nỗ lực đặt mua với giá chỉ có 243 USD/tấn CFR Singapore để giao tháng 03, và chỉ ra rằng gần như không thể chốt được hợp đồng gần đây.
Trong khi đó, chào giá thấp hơn vẫn được nghe nói ở thị trường Hong Kong. Một nhà máy đang chào giá 260 USD/tấn CFR Hong Kong trọng lượng thực tế, tức tương đương 250 USD/tấn FOB với phí vận chuyển 10 USD/tấn. Lại một lần nữa, nhà máy nhận được một giá mua hôm thứ Hai thấp hơn nhiều chỉ có 250 USD/tấn CFR, mặc dù mức giá như vậy đã cao hơn 5 USD/tấn so với mức mục tiêu mà một số người mua khác đặt ra hồi tuần trước.
 

Giá thép cây vẫn đang tăng ở miền bắc Trung Quốc, sức mua hạn chế
Giá thép cây giao ngay ở miền bắc Trung Quốc tiếp tục đà phục hồi trong ngày thứ Ba, mặc dù sức mua đang mất đi đà tăng do thời tiết mùa đông khắc nghiệt hơn. Tại thị trường Bắc Kinh hôm 19/01, giá giao ngay cho thép cây HRB400 đường kính 18-25mm tăng 10 NDT/tấn (2 USD/tấn) so với thứ Hai lên 1.855-1.865 NDT/tấn (280-281 USD/tấn) trọng lượng thực tế, gồm 17% VAT.
Giá thị trường đã chứng kiến đà tăng tổng cộng 50 NDT/tấn (8 USD/tấn) kể từ ngày 11/01, và kết quả là các thương nhân cho biết doanh số bán chậm lại khi khách hàng kỳ vọng một vài sự điều chỉnh giảm nhẹ trong ngắn hạn.
Để nhìn thấy một sự điều chỉnh giá nhẹ là bình thường và giá giao ngay sẽ không giảm nhiều, do giá đã tăng gần 10 ngày liên tiếp vì tồn kho thị trường thấp, một thương nhân ở Bắc Kinh cho biết. Ông cho hay tồn kho thép cây đường kính 20mm của công ty ông hiện tại dưới 100 tấn. Do đó, đối với một số thép cây bao gồm loại đường kính 22mm và 25mm, tồn kho gần như là cạn kiệt.
Một người khác đồng tình rằng giá sẽ giữ ở mức ổn định trong vài ngày tới, miễn là việc giao hàng từ các nhà máy không tăng. Một số người sẽ về quê ăn Tết vào tuần tới, điều này sẽ làm cho thị trường giao ngay im ắng hơn.
Hợp đồng thép cây giao kỳ hạn tháng 05 trên sàn Shanghai Futures Exchange chốt tại 1.839 NDT/tấn (278 USD/tấn), cao hơn 12 NDT/tấn tức 0.7% so với ngày giao dịch trước đó. Mức giá này cũng tăng 98 NDT/tấn (15 USD/tấn) tức 5.6% so với tuần trước đó.
Giá phế tàu Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục giảm do thiếu giao dịch
Giá  thu mua phế tàu tính theo đồng dolla của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ giảm trong ngày thứ ba tỏng khi giá phế DKP tính theo đồng dolla  vẫn ổn định do thiếu giao dịch và tỷ giá biến động.
 Giá phế nóng chảy từ xác tàu thuyền vỡ được chào bán tới hầu hết các nhà máy phía Tây gồm Ege Celik, Habas, Ozkanlar, IDC tại mức 177-182 USD/tấn, giảm 5 USD/tấn so với cuối tuần qua.
Nguồn cung phế tàu duy nhất của Thổ Nhĩ Kỳ là tại bãi phế ở thị trấn phía tây của Aliaga tại Izmir. Nó đã phá vỡ 112 tàu trong năm qua, sản xuất 602.000 tấn phế.
Trong khi đó, giá thu mua phế DKP tính theo đồng Lira tiếp tục bình ổn kể từ đầu năm. Gía thu mua phế tàu của các nhà máy EAF vẫn ổn định tại mức 460-520 TRY/tấn (152-172 USD/tấn) tùy thuộc vào nhà máy và đơn hàng trong bối cảnh tiêu thụ thép thành phẩm thấp ở cả trong và ngoài nước.
 
Định giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ
Platts vẫn giữ giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ tại mứ 322.50 USD/tấn trong ngày thứ ba, bình ổn so với ngày thứ hai.
Chi phí vận chuyển thép tới UAE giảm do giá dầu giảm, đồng nghĩa với giá bán chỉ còn 330-333 USD/tấn CFR Dubai trọng lượng lý thuyết, tương đương mức 324-327.5 USD/tấn FOB  trọng lượng thực tế.
Trong khi đó, một thương nhân cho rằng giá bán là 328 USD/tấn FOB còn thương nhân khác cho rằng giá ở trong mức 325-330 USD/tấn FOB.
 
Nhà máy Kardemir Thổ Nhĩ Kỳ giảm giá phôi thanh
Nhà máy Kardemir Thổ Nhĩ Kỳ giảm giá niêm yết phôi thanh và phôi lai bloom dựa vào đồng dolla tăng so với Lira và nhu cầu tiêu thụ tiếp tục thấp. Gía phôi thanh chuẩn mới đạt mức 275-280 USD/tấn xuất xưởng, giảm 12 USD/tấn so với giá niêm yết trước trong khi phôi lai bloom giảm cùng mức xuống còn 383 USD/tấn xuất xưởng.
 
Việc Kardemir cắt giảm giá đang gây áp lực cho các nhà máy nội địa cũng như giá phôi thanh nhập khẩu đang tăng trong mấy tuần gần đây. Các nhà máy Thồ Nhĩ Kỳ khác đang chào bán phôi thanh chuẩn tịa mức 285-290 USD/tấn xuất xưởng trong ngày thứ ba.
Trong khi đó,  công ty này mở cửa bán lại thép cây với giá cao hơn. Nó đã chốt các đơn hàng trong ngày 12/01. Kardemir tăng giá thép chủ yếu do đồng Lira suy yếu.
Giá bán mới cho thép thanh tròn của Kardemir là 1.034 TRY/tấn (351 USD/tấn) xuất xưởng, tăng 25 TRY/tấn (8 USD/tấn) so với giá niêm yết cũ. Công ty này cũng tăng giá thép cây cùng mức lên 1.017 TRY/tấn (336 USD/tấn) xuất xưởng.
Trong khi đó, giá bán lẻ thép cây 12-32mm tại Marmara cũng tăng 10-15 TRY/tấn lên 1.230-1.250 TRY/tấn xuất xưởng  đã tính VAT 18% trong khi giá từ các nhà môi giới vẫn bình ản, do mùa đông khắc nghiệt kìm hãm nhu cầu tiêu thụ trong mấy ngày gần đây.
 
Định giá HRC EU
Platts tăng giá HRC thêm 2.5 Euro/tấn lên 322.5 Euro/tấn xuất xưởng Ruhr.
Giá tại Đức và Benelux cho biết vài người mua cần nhiều nguyên liệu sẽ trả thêm dù hầu hết các nguồn tin cho biết họ không muốn đặt nhiều nguyên liệu để chờ thị trường tốt hơn.
Các nhà máy EU và Châu Á vẫn cố gắng duy trì giá mới. Các biện pháp chống bán phá giá dự báo sẽ được áp đặt sớm nên người mua không quan tâm hàng nhập khẩu. Với giá từ Châu Á tăng và khả năng đối mặt với tiền phạt, người mua không thấy hàng nhập khẩu có lợi nữa, và điều này giúp các nhà máy Châu Âu giữ vững giá chào mới. 
 
Gerdau NA tăng giá thép thanh thương phẩm và thép dầm
Gerdau Long Steel North America đang tăng giá niêm yết thép thanh thương phẩm thêm 30 USD/tấn và thép dầm thêm 20 USD/tấn giao ngày 1/ 2. Mặc dù giá phế tháng 1 tăng 20 USD/tấn so với tháng 12 và giá phế tháng 2 đi từ bình ổn tới tăng từ tháng này.
Các đối thủ Nucor, Steel Dynamics, và Commercial Metals vẫn không thông báo tăng giá trong chiều ngày thứ 3.

 Giá thép cuộn EU tăng nhưng giao dịch vẫn thấp

Giá thép băng EU tăng dù thị trường không rõ ràng với người mua từ chối đặt quá nhiều thép để xem xu hướng thị trường rõ ràng hơn.
Bởi vì thị trường vẫn xáo trộn dù tâm lý thị trường cải thiện dựa vào thành quả sản xuất ngành xe hơi tốt, giá nguyên liệu thô vẫn thấp, và công suất quá mức từ các nhà máy Trung Quốc mặc dù họ cũng tăng giá.
Do thị trường giao dịch vẫn chậm chạp, người mua cần mua nhiều nguyên liệu hơn do các nhà máy EU vẫn giữ giá mới ổn định. Tại thị trường giao ngay, người mua đã chốt các đơn hàng với giá trên giá trước lễ 5 Euro/tấn và HRC ở mức 320-325 Euro/tấn xuất xưởng Ruhr trong khi người mua đang thảo luận các giao dịch với dự báo trả thêm 10-15 Euro/tấn so với tháng trước.
Các nhà máy EU không có hàng tồn và hàng giao tháng 3/ 4 và trong vài trường hợp (chủ yếu là Nam Âu) thậm chí là tới tháng 5. Về thị trường nhập khẩu, các thương nhân xác nhận rằng các nhà máy Châu Á đã tăng giá chào thêm 20 USD/tấn nhưng các khách hàng không muốn mua từ họ.
Các nhà máy EU thông báo tăng giá chẳng hạn như ArcelorMittal tăng giá thêm 25 Euro/tấn. Tuy nhiên, người mua không chấp nhận trả hết mức này một lần mà phải từ từ theo từng giai đoạn. Đà tăng giá cũng không chắc duy trì được lâu do giá nguyên liệu thô thấp và tình hình địa chính trị rất bất ổn mặc dù giá có tăng vài Euro.
Ilva cũng tăng giá thêm 5-10 Euro/tấn và hiện đang chào bán tại mức 290 Euro/tấn xuất xưởng nhưng dành cho các đơn hàng giao tháng 4/ 5. Gía nhập khẩu cũng tăng nhẹ nhưng không ai đặt hàng. Gía xuất khẩu từ Iran sang Nam Âu giao tháng 6 đạt mức 290 Euro/tấn CIF.