Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 20/02/2016

CIS: Giá HRC ổn định, giá phôi phiến tăng làm thu hẹp khoảng cách với thép cuộn

Trong khi giá HRC CIS ổn định ở mức 475-480 USD/tấn FOB Biển Đen, thì giá phôi phiến trong khu vực này đã leo thang và do đó tiếp tục thu hẹp khoảng cách với giá HRC, mức chênh lệch giữa hai loại này đã lớn bất thường trong suốt tháng 12 tới giữa tháng 1 với 85-90 USD/tấn.
“Giá thép cuộn hơi cao một chút cho tới gần đây và vì vậy khoảng cách giữa phôi phiến với giá HRC là quá rộng, sau khi giá HRC điều chỉnh một chút thì chênh lệch này đã trở nên bình thường”, một nguồn tin tại Thổ Nhĩ Kỳ cho biết.
Nó bắt đầu bình thường từ giữa tháng 1, và từ đó đến nay giá HRC đã mất 20 USD/tấn. Trong cùng thời gian 30 ngày, giá phôi phiến cũng đã giảm 3 USD/tấn và vì vậy khoảng cách giữa hai loại này đã thu hẹp xuống chỉ còn hơn 60 USD/tấn tính tới ngày hôm nay.
Mặc dù chào giá HRC mới đã tăng lên 480-490 USD/tấn FOB Biển Đen và niềm tin rằng giá giao dịch sẽ theo kịp với mức này, nhưng đến nay mức giá khả thi vẫn còn dưới mức này.
Nguồn cung phôi phiến vẫn còn thiếu hụt và các giao dịch mới đây được nghe nói chốt với giá 412-415 USD/tấn FOB Biển Đen. Ngày hôm nay, các nhà cán thép Thổ Nhĩ Kỳ đã sẵn sàng mua với giá 425-430 USD/tấn CFR Marmara cho phôi phiến xuất xứ CIS, tương đương 412-418 USD/tấn FOB Biển Đen.
Hôm 14/2, Platts đã điều chỉnh định giá hàng ngày của mình cho giá xuất khẩu HRC của CIS xuống 475-480 USD/tấn FOB, giảm 2,5 USD/tấn so với ngày trước đó với định giá HRC vẫn không đổi ở mức 540-550 USD/tấn FOB. Định giá hàng tuần cho phôi phiến CIS đã tăng 10 USD/tấn so với tuần trước đó lên 410-420 USD/tấn FOB Biển Đen.

Định giá phôi thanh CIS

Platts định giá xuất khẩu phôi thanh CIS hàng ngày ở mức 385usd/tấn FOB Biển Đen Thứ sáu, ổn định trong ngày.
Một nhà máy Ukraine cho biết họ đã nhận được hỏi giá từ một nhà máy khác trong nước để đặt hàng phôi. Người bán yêu cầu mức 390usd/tấn FOB Mariupol nhưng ghi nhận giao dịch này đã không hoàn thành.
Một thương nhân ở châu Âu ghi nhận giá mua cho phôi thanh CIS đến một mức tối đa là 375usd/tấn FOB Biển Đen do giá phế HMS tiếp tục leo thang.
Một nhà cán lại Thổ Nhĩ Kỳ ước tính giá chấp nhận được cao nhất là 398-400usd/tấn CFR Izmir, tương đương 383-386usd/tấn FOB Biển Đen, được biết nguồn cung này là từ các thương nhân không phải từ nhà máy. Một thương nhân ở Bắc Phi, một người mua thường xuyên từ Ukraina, nhìn thấy không có chào giá do những bất ổn đang diễn ra về việc tiếp tục sản xuất nhà cung cấp từ Ukraina của mình vì tình hình chính trị bất lợi tiếp tục.
 

Thép cây và phôi thanh Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục tăng cùng với giá phế

Một số nhà sản xuất thép dài Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục nâng giá niêm yết trong nước cho thép cây và phôi thanh trong ngày thứ Sáu, do giá phế nhập khẩu đã đạt đến mức cao 283 USD/tấn CFR trong giá mua mới nhất của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ.
Một trong những nhà sản xuất thép dài chủ chốt của Thổ Nhĩ Kỳ-Bastug Metalurji- nằm ở Osmaniye, phía nam nước này, đã tăng giá niêm yết cho thép cây thêm 20 TRY/tấn (5,5 USD/tấn) trong ngày thứ Sáu, lần thứ 7 trong thời gian 10 ngày.
Với lần tăng giá mới này thì giá niêm yết của công ty cho thép cây đường kính 12-32mm đã lên 1.870 TRY/tấn (508 USD/tấn) xuất xưởng. Giá cho thép cây 10mm cũng tăng ở mức tương tự lên 1.880 TRY/tấn xuất xưởng, trong khi thép cây đường kính 8mm chạm 1.890 TRY/tấn xuất xưởng, gồm VAT. Giá này đã bao gồm VAT 18% và tương đương lần lượt với 432 USD/tấn, 435 USD/tấnvà 438 USD/tấn, chưa có VAT.
Các nhà sản xuất thép dài khác cũng đã tăng giá niêm yết trong nước trong suốt tuần qua. Chào giá thép cây đường kính 12-32mm của các nhà máy nằm trong phạm vi 430-440 USD/tấn xuất xưởng, tùy vào từng khu vực, trong khi chào giá xuất khẩu của họ là 425-435 USD/tấn FOB.
Trong khi đó, các nhà máy cũng nâng giá phôi thanh lên hơn 400 USD/tấn xuất xưởng trong ngày thứ Sáu, sau khi Kardemir bán một lượng lớn tới thị trường trong nước với giá thấp hơn. Công ty này đã mở bán phôi thanh tiêu chuẩn với giá 392 USD/tấn xuất xưởng hôm thứ Tư và chốt hợp đồng vào cùng ngày, sau khi nhận được đơn hàng cho hơn 100.000 tấn từ thị trường nội địa.
Trong khi đó, chào giá phôi thanh nhập khẩu từ CIS cũng tăng đáng kể trong những ngày gần đây chạm mốc 400-405 USD/tấn CFR.

Định giá thép cây Thổ Nhĩ Kỳ

Hôm 17/2, S&P Global Platts định giá thép cây xuất khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 425 USD/tấn FOB, không đổi so với thứ năm.
Các nhà sản xuất đưa ra chào giá 440-450 USD/tấn FOB Marmara và Izmir. Tuy mức giá này có thể đạt được trong những tuần tới do triển vọng thị trường nhìn chung lạc quan, nhưng cho đến nay đây vẫn chỉ là giá chào bán.
Hai thương nhân Châu Âu ghi nhận giá thép cây trong khu vực quá cạnh tranh cho chào giá Thổ Nhĩ Kỳ cao hơn để thu hút bất cứ sự quan tâm nào. Một người mua ở Balkans cho biết giá giao tới nơi từ Thổ Nhĩ Kỳ đạt 473 USD/tấn trọng lượng thực tế. Đồng thời, giá trong nước là 467 USD/tấn và thậm chí là sau khi mức tăng được dự báo thì khoảng cách giữa giá trong nước với giá nhập khẩu từ Thổ Nhĩ Kỳ sẽ không lớn.
Một thương nhân khác cho biết một đơn đặt hàng thép Châu Âu với giá 385 EUR/tấn FOB (410 USD/tấn FOB), cũng thấp hơn đáng kể so với chào giá của Thổ Nhĩ Kỳ. Ông tin rằng có thể thương lượng giảm trên chào giá Thổ Nhĩ Kỳ và mức giá cao nhất có thể đạt được là 420-425 USD/tấn FOB.
Một nhà sản xuất Thổ Nhĩ Kỳ tại khu vực Marmara đang cố gắng thực hiện giá cao hơn, nhưng thị trường trở nên im ắng trong ngày thứ Sáu.

Giá xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ tăng có chừng mực

Báo giá cho thép cây Thổ Nhĩ Kỳ xuất khẩu có thể vẫn duy trì ở mức cao trong những ngày tới khi các nhà sản xuất đã thực hiện khoảng một nửa mức tăng theo dự kiến của họ và không có dấu hiệu giảm bớt.
Các nguồn tin thị trường cho biết chào giá 440-450 USD/tấn FOB Marmara và Izmir trọng lượng lượng thực tế. Tại Mỹ, các thương nhân cho biết mức giá 500 USD/tấn CFR Houston cho thép cây của Thổ Nhĩ Kỳ, trong khi báo giá ở mức 440 USD/tấn CFR Jebel Ali và 465 USD/tấn CFR Singapore.
Những điểm đến châu Á vẫn còn hứa hẹn nhất đối với các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ để đạt được các mục tiêu giá của họ. UAE đã phản đối rộng rãi mức giá 440 USD/tấn CIF và ở Mỹ "mọi người đang ở bên ngoài thị trường," một nguồn tin cho biết. Một nguồn tin về phía bên mua đã lý giải hiện tượng giá cao từ Thổ Nhĩ Kỳ, sát với giá trong nước, là kết quả của thói quen thêm vào 40-60 USD/tấn để bù đắp bất kỳ tác động nào có thể của biên chống bán phá giá sẽ được công bố vào cuối tháng này.
Một thương nhân đang bán tới thị trường Mỹ dự báo biên độ AD sẽ là 5% hoặc ít hơn. Nếu được xác nhận thì giá Thổ Nhĩ Kỳ sẽ giảm đáng kể sau khi một loạt các đơn đặt hàng với tổng cộng 150.000-250.000 tấn.
Một vài thương nhân châu Âuchỉ ra chào giá Thổ Nhĩ Kỳ tăng cao đã không trụ vững trên thị trường EU. Tại Balkans, một nhà phân phối cho biết có sự chênh lệch giữa giá thép cây từ các nhà máy trong nước và của Thổ Nhĩ Kỳ. Giá trong nước là 467 USD/tấn giao tới nơi. Mức này có thể thay đổi nếu chào giá trong nước đi lên như mong đợi và thép cây Thổ Nhĩ Kỳ vẫn còn 473 USD/tấn giao tới nơi. Ông ước tính rằng thép nhập khẩu sẽ rẻ hơn 20 USD/tấn so với giá trong nước.
Tại Anh, một người mua đã ký một thỏa thuận với một nhà cung cấp châu Âu với giá 385 EUR/tấn FOB. "Thổ Nhĩ Kỳ không có ý nghĩa gì với tôi, tại thời điểm 390 EUR/tấn là tối đa tôi sẽ mua từ bất cứ ai," ông nói thêm. Ông lưu ý rằng các nhà sản xuất Thổ Nhĩ Kỳ đã tìm kiếm mức giá 440 USD/tấn FOB, nhưng mức tối đa họ có thể đạt được là 420-425 USD/tấn FOB. "Khi anh thực sự ngồi xuống nói chuyện họ có thể đưa ra một mức giá hoàn toàn khác", ông nhận xét.
Platts định giá giá thép cây hàng ngày ở mức 425 USD/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ hôm Thứ sáu, ổn định từ hôm thứ Năm. Định giá đã tăng 17,50 USD/tấn trong tuần kết thúc vào ngày 17 tháng 2.

Định giá HRC EU

&P Global Platts duy trì giá HRC Bắc Âu tại mức 570-580 EUR/tấn (605,09-615,71 USD/tấn) xuất xưởng Ruhr hôm thứ Sáu.
Các nhà máy Bắc Âu với nguồn cung cho quý 2 đang chào giá khoảng 590-EUR/tấn, tuy nhiên, nhu cầu hiện đang mờ nhạt với các trung tâm dịch vụ và người dùng trực tiếp đang nắm giữ khối lượng lớn đã được đặt mua hồi tháng 12 và 1.
Nguồn tin từ cả bên mua và bên bán đều cho biết các giao dịch phần lớn nằm trong khoảng 570-580 EUR/tấn với quan điểm không thống nhất về việc liệu đã đạt được mức trần của thị trường hay chưa.
Một người mua ở Đức cho biết giá nhập khẩu từ Thổ Nhĩ Kỳ và Ấn Độ là vào khoảng 530 EUR/tấn CIF Antwerp, mặc dù các thương nhân khác cho biết họ đã thương lượng quanh mốc 510-520 EUR/tấn. Tuy nhiên, nhìn chung dường như có ít quan tâm.

Giá tấm mỏng Mỹ duy trì ổn định

Người mua trên thị trường tấm mỏng Mỹ đang tìm sự định hướng trong tuần trước, khi nhu cầu tích trữ hàng từ trung tâm dịch vụ và giá phế tăng có thể cho phép các nhà máy ngừng cung cấp các loại giao dịch có khối lượng lớn đã từng chứng kiến trong hai tuần qua.
Đầu tuần trước, các nguồn tin thị trường cho biết đã có một số giao dịch về đơn đặt hàng cho hơn 1.000 tấn ngắn HRC được giao dịch ở mức khoảng 600 USD/st. Khi Trung tâm Dịch vụ Kim loại (Metals Service Center Institute)công bố số liệu cho thấy lượng cung thép cán dẹt đang giảm xuống mức thấp trong hai tháng vào tháng Giêng, người mua cho biết nhà máy có thể sẽ kéo chào giá thấp trở lại bởi vì những người mua mà đang nấn ná sẽ phải sớm đặt hàng một lần nữa.
S&P Global Platts duy trì định giá hàng ngày cho HRC và CRC hôm thứ Sáu lần lượt là 620- 630 USD/st và 820- 840 USD/st . Cả hai định giá được chuẩn hóa theo cơ sở xuất xưởng Midwest (Indiana).
Một nhà máy đã đưa ra mức chào giá thấp hơn đáng kể so với đối thủ cạnh tranh để có được đơn đặt hàng , nhưng kể từ khi giá phế tăng thì nhà máy này đã nâng chào giá HRC trở lại mức 620 USD/st.
Ông đã nhìn thấy những nỗ lực để thực thi giá tối thiểu đối với HRC nhưng dự báo người mua vẫn cố gắng để đẩy giá xuống. CRC và tôn mạ kẽm có giá cao hơn khoảng 200 so với HRC.
Một nguồn tìn từ trung tâm dịch vụ khác cho biết rất khó để nắm được thị trường trong tuần trước.
Nhu cầu ổn định với nhu cầu liên quan đến nông nghiệp và xây dựng chỉ bình thường. Ông này cũng nghe nói về một nhà máy khác đang giảm giá HRC, nhưng nói chung ông thường thấy giá HRC khoảng 620 USD/st.
Nguồn trung tâm dịch vụ thứ hai cho biết CRC và tôn mạ kẽm đã trì trệ ở mức 840 USD/st từ các nhà máy liên hợp và mini. Tuy nhiên, đã có một số tin đồn về việc cộng thêm mức tăng trong giá kẽm vào giá tôn mạ kẽm.

Hàn Quốc: Hyundai và Posco lên kế hoạch đóng cửa nhà máy cán nóng để bảo trì

Hai nhà sản xuất thép liên hợp của Hàn Quốc -Hyundai Steel và Posco đã tiết lộ kế hoạch đóng cửa để bảo trì các cơ sở quan trọng từ tháng 3 đến tháng Sáu, thông thường đây là mùa cao điểm, làm dấy lên nhiều đồn đoán trên thị trường về thời gian thực hiện.
Hyundai dự định tiến hành bảo trì các dây chuyền cán nóng nằm ở khu B và C tại nhà máy Dangjin, phía nam Seoul. Việc này được lên kế hoạch vào khoảng từ tháng Ba tới tháng Năm, một nguồn tin thân cận với công ty cho biết, nhưng tiến độ chính xác vẫn đang được quyết định.
Hyundai dự kiến sẽ tạm ngưng các nhà máy trong khoảng bảy ngày, làm mất tổng cộng khoảng 350.000 tấn thép cuộn cán nóng.
Còn tại Posco, công ty đang có ý định tiến hành bảo trì dây chuyền cán nóng số 2 tại nhà máy Gwangyang trên bờ biển phía nam trong khoảng mười ngày, kể từ ngày 19 tháng ba, theo báo ngành Steeldaily. Từ ngày 20 tháng 3 Posco cũng sẽ ngừng dây chuyền cán nóng số 2 tại nhà máy Pohang để bảo trì, cũng trong khoảng mười ngày.
Một phát ngôn viên của Posco đã từ chối tất cả bình luận nhưng Steeldaily cho biết việc ngừng hoạt động sẽ cắt giảm khoảng 540.000 tấn sản lượng HRC của Posco. Posco cũng có kế hoạch bảo trì các cơ sở khác trong những tháng tới.
Thời gian bảo trì tại cả hai công ty đã khiến một số nhà quan sát thị trường có suy nghĩ tiêu cực. "Có nhiều tin đồn trên thị trường kể từ cuối tháng 11 rằng Posco đã có kế hoạch đóng cửa nhà máy cán thép trong tháng ba", một thương nhân cho biết. "Đó là khi Posco bắt đầu tăng giá và tôi nghĩ Posco đang cố gắng sử dụng việc bảo trì như một điểm tựa để đạt được điều đó."
Như tin đã đưa, Posco đã tăng giá HRC trong nước từ tháng Giêng thêm 120.000 Won/tấn (105 USD/tấn), và Hyundai tăng thêm 50.000 Won/tấn cho tháng Giêng và mức tương tự cho tháng hai.
Hiện nay, giá trong nước của HRC SS400 3.0mm đang phổ biến tại 750.000-770.000 Won/tấn (654-671 USD/tấn), tăng từ 620.000-640.000 Won/tấn (541-558 USD/tấn) vào cuối tháng 11.

Giá quặng sắt tuần trước tăng nhưng triển vọng không chắc chắn

Thị trường quặng sắt nhập khẩu đã vượt qua mốc 90 USD/dmt do giá thép cao hơn, nhưng không chắc chắn về triển vọng thép cũng như sự biến động trên thị trường phái sinh vào cuối tuần đã khiến giá quặng trượt dốc.
Platts định giá IODEX 62% Fe ở mức 90,85 USD/dmt CFR miền bắc Trung Quốc hôm thứ Sáu, không đổi so với ngày trước đó nhưng tăng 4,25 USD/dmt so với 1 tuần trước đó.
Được hỗ trợ bởi đà tăng của giá thép trước đó trong tuần người mua đã thay đổi để thu mua, trước khi rút lui vào cuối tuần. "Vẫn còn quá sớm để đánh giá nhu cầu thép thực sự đang ở đâu," một thương nhân ở Singapore cho biết.
Hôm thứ Sáu, giá giao ngay của phôi vuông tại Đường Sơn đã tăng 60 NDT/tấn so với ngày thứ Năm, lên 3.170 NDT/tấn (463,07 USD/tấn) xuất xưởng Đường Sơn.
Sự phục hồi gần đây của giá thép, cùng với sự sụt giảm của than luyện kim và than cốc, khiến các nhà máy gia tăng lợi nhuận, làm thúc đẩy nhu cầu cho nguyên liệu đầu vào loại trung bình và cao cấp hơn. "Hiện nay, với biên độ trong khoảng 200-300 NDT/tấn thì nhà máy đang chạy theo năng suất", một thương nhân ở Bắc Kinh nói.
Nguồn cung của loại này, nhất là quặng cám Pilbara Blend, Newman và Carajas, cũng được nghe nói là hạn chế trên cả thị trường nhập khẩu và tại các cảng.
Trong khi đó, nhu cầu quặng cục tăng mạnh khi một số người tiêu dùng trực tiếp xem quặng cục như là một nguyên liệu đầu vào có lợi ở mức hiện tại. Tuy nhiên, khối lượng quặng cục lớn kéo dài tại cảng đang làm cản trở sự phục hồi của quặng cao cấp.
Platts định giá giao ngay cho quặng cục cao cấp là 0,057 USD/dmtu trong ngày thứ Tư, tăng 0,018 USD/dmtu so với 1 tuần trước đó.

Giá thép cuộn không gỉ Châu Á tăng nhẹ theo giá niken

Giá bán tại Châu Á cho CRC không gỉ loại 304 2mm 2B có nguồn gốc từ Đài Loan và Hàn Quốc được đáịnh giá cao hơn 25 USD/tấn lên 2.200-2.300 USD/tấn trong tuần trước.
Tâm lý thị trường gần đây đã được cải thiện nhờ thị trường Trung Quốc mạnh hơn, điều này được theo dõi chặt chẽ bởi những người tham gia trên thị trường. Điều này phù hợp với sự gia tăng của giá nickel, đã ổn định trên 10.000 USD/tấn, mức kháng cự tâm lý.
Thép cuộn xuất xứ Đài Loan có thể được đặt với giá thấp 2.200 USD/tấn CFR. Người bán đã nâng chào giá lên 2.250-2.300 USD/tấn CFR, được khích lệ bởi giá nickel cao hơn. Một số người bán vẫn muốn có được đơn đặt hàng do định hướng tương lai của niken vẫn còn chưa rõ ràng.
Trong khi đó, giá thép có nguồn gốc từ Hàn Quốc vẫn còn trên mức 2.400 USD/tấn CFR. Giá CRC 304 nguồn gốc Hàn Quốc vẫn còn cao, khi một số thép đang lấp đầy khoảng trống thị trường do nguồn cung CRC từ Nhật Bản hạn chế.
Giá xuất khẩu của Trung Quốc đã tăng trong tuần trước cùng với thị trường trong nước. Chào giá khoảng 2.200 USD/tấn FOB tính tới thứ Sáu tuần trước, tăng 50 USD/tấn so với tuần trước đó, một thương nhân miền Nam Trung Quốc cho biết. Giá được dự báo sẽ có xu hướng đi lên, vì triển vọng thị trường trong nước đã trở nên lạc quan hơn trong thời gian gần đây.
Giá giao dịch chính thức bằng tiền mặt của nickel trên sàn London Metal Exchange chốt tại 10.870-10.875 USD/tấn hôm 16/2, tăng khoảng 496 USD/tấn so với 1 tuần trước đó.

Thép cây châu Á phục hồi nhờ chào giá cao hơn

Giá thép cây giao ngay tại châu Á tăng nhẹ trong ngày thứ Sáu sau khi gián đoạn ba ngày, khi các nhà cung cấp Thổ Nhĩ Kỳ và Nga nâng báo giá để bắt kịp với những đối thủ cạnh tranh của họ từ Trung Quốc. S&P Global Platts định giá thép cây BS500 đường kính 16-20 mm ở mức 433-435 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế, tăng 2 USD/tấn so với thứ năm.
Tại Singapore, chào giá cho thép cây Trung Quốc là 460-470 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết, tương đương 459-469 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế với phí vận chuyển 15 USD/tấn và dung sai khối lượng 3%. "Tôi muốn đặt hàng với giá dưới 430 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết (428 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế) nhưng bây giờ không có nhà máy Trung Quốc nào sẽ bán với giá thấp như vậy", một thương nhân cho biết. Thép cây của Thổ Nhĩ Kỳ hiện đang được báo giá khoảng 465 USD/tấn CFR Singapore trọng lượng lý thuyết.
Các nhà cung cấp Trung Quốc không thể bán dưới 450 USD/tấn CFR Singapore trọng lượng lý thuyết (448 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế. Một thương nhân miền Nam Trung Quốc cho biết ông đã hầu như không nhận được bất cứ yêu cầu trong tuần qua do giá cao.
Các nhà xuất khẩu Trung Quốc đã duy trì chào giá cao cùng với giá trong nước chắc Một nhà tích trữ Hong Kong cho biết chào giá cho thép cây của Nga đã tăng lên ít nhất là 440 USD/tấn CFR trọng lượng thực tế tính tới thứ Sáu. Người mua tại khu vực này với hàng tồn kho còn nhiều thì muốn đợi bên lề, ông nói thêm.
chắn. Một nhà máy xuất khẩu lớn ở miền đông Trung Quốc đã giữ chào giá ổn định tại 440 USD/tấn FOB trọng lượng lý thuyết, tương đương với 454 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế với dung sai khối lượng 3%.
Một nguồn tin từ một nhà máy miền Đông Trung Quốc đã kìm chế không chào giá trong tuần kết thúc ngày 12/2 vì việc chốt được giao dịch rất khó trong bối cảnh giá cao hiện nay. "Tốt hơn để chờ đợi cho rõ ràng hơn".

HRC Châu Á duy trì ổn định do sức mua hạn chế

Giá HRC Châu Á tiếp tục chứng kiến hoạt động thưa thớt trong ngày Thứ Sáu, giữa bối cảnh thiếu sự biến động trên thị trường Trung Quốc và các nhà máy từ chối hạ chào giá xuất khẩu.
Platts định giá HRC SS400 3.0mm ở mức 495-500 USD/tấn FOB Trung Quốc, không đổi so với hôm thứ Năm. Thép cuộn cùng loại được định giá ở mức 505,50 USD/tấn CFR Đông Nam Á, không đổi so với định giá lần trước. Chào giá cho thép cuộn SAE1006 2.0mm từ các thương nhân miền đông Trung Quốc cho thấy cao hơn 10 USD/tấn so với loại thương phẩm, không đổi so với định giá lần trước.
Thị trường giao ngay Thượng Hải được định giá 3.810-3.830 NDT/tấn (555-557 USD/tấn) xuất xưởng gồm 17% VAT, không đổi so với thứ Năm.
Với chính sách đổi tiền của Ấn Độ đã dẫn đến một cuộc khủng hoảng thanh khoản tín dụng, nhu cầu thép trong nước đã suy yếu do giao dịch bất động sản và việc thu mua xe ô tô cùng các thiết bị điện sụt giảm. Việc các nhà cung cấp của Ấn Độ săn tìm khách hàng nước ngoài để bù đắp cho nhu cầu trong nước yếu, như Platts đã lưu ý trước đó, sẽ tiếp tục làm cho nước này trở thành một đối thủ cạnh tranh với chào giá Trung Quốc.
Mức tồn kho HRC loại thương phẩm tại Ấn Độ được nghe nói là tương đối cao, và có thể duy trì trong một thời gian. Chào giá từ Ấn Độ được nghe ở khoảng 480-490 USD/tấn FOB.
Trung Quốc để tuột mất nhiều giao dịch phần lớn là "vì giá thấp hơn rất nhiều từ các nước, đặc biệt là Ấn Độ," một nguồn tin phía đông bắc Trung Quốc cho biết. "Giá của chúng tôi đã bị mất khả năng cạnh tranh".

 Giao dịch phôi thép của Thái Lan tới Đông Nam Á tăng

Thị trường phôi thép nhập khẩu Đông Nam đã chứng kiến nhiều giao dịch phôi của Thái được ký kết trong tuần kết thúc vào Thứ Sáu, 17/2. Phôi thép của Trung Quốc đã đòi giá cắt cổ.
Vào ngày thứ Sáu, S&P Global Platts định giá hàng tuần cho phôi thép 120/130mm tại mức 430-437 USD/tấn CFR Đông Á, tăng so với 400- 420 USD/tấn CFR của tuần trước đó. Mức giá trung bình 433,5 USD/tấn cao hơn 23,50 USD/tấn so với tuần trước đó.
Một giao dịch cho 25.000 tấn phôi thép xuất xứ Thái Lan đã được nghe nói bán tới Việt Nam với giá 420 USD/tấn FOB Thái Lan trong tuần trước. Phí vận chuyển giữa Thái Lan và Cảng Hải Phòng là khoảng 15-18 USD/tấn. Ít nhất 10.000 tấn phôi thép 130mm của Thái cũng đã được đặt với giá khoảng 440 USD/tấn CFR Manila vào giữa tuần.
Chào giá cho phôi Q275 120/130mm của Trung Quốc nhìn chung ở mức 460 USD/tấn CFR Manila hôm thứ sáu mặc dù một số thương nhân cũng nghe nói chào giá 440-445 USD/tấn CFR Manila.
Phôi 100mm của Nga được nghe được nói cung cấp với giá 430 USD/tấn CFR Thái Lan và 440 USD/tấn CFR Manila. Tại Thái Lan, phôi trong nước suy yếu với giá phổ biến tương đương với 415 USD/tấn trong khi tại Việt Nam giá bán trong nước tương đương với khoảng 430 USD/tấn.
Tại Trung Quốc hôm thứ Sáu, giá phôi thép ở Đường Sơn đã tăng 60 NDT/tấn (9 USD/tấn) so với thứ năm và 250 NDT/tấn so với tuần trước đó lên 3.170 NDT/tấn. "Mặc dù giá tăng nhưng nhu cầu không lên theo như vậy và các nhà máy Trung Quốc đang ngồi trên một đống hàng tồn", một nguồn tin ở miền Đông cho biết hôm thứ Sáu. Ông cho biết một sự điều chỉnh giá xuống có thể xảy ra trong tuần tới; xu hướng tăng của giá phôi thép của Trung Quốc gần đây đã được thúc đẩy bởi sự hoạt động mạnh mẽ của giá thép cây kỳ hạn tại Thượng Hải.