Đồng dolla tăng mạnh tác động tới thị trường thép cuộn Thổ Nhĩ Kỳ
Mặc dù giá chào HRC và CRC Thổ Nhĩ Kỳ từ CIS tới Thổ Nhĩ Kỳ đã giảm trong mấy tuần gần đây theo giá quặng, sự tăng mạnh của đồng dolla đã làm sụt giảm đáng kể giao dịch.
Các nhà máy Ukraina chào bán HRC tại mức 375-385 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ trong ngày thứ sáu trong khi giá chào bán trong mấy ngày gần đây đạt mức thấp 370 USD/tấn đối với các đơn hàng lớn. Gía chào từ Nga đạt mức 385-400 USD/tấn.
Tuy nhiên, đồng dolla tăng mạnh đã gây nên tình trạng thiếu hụt tiền mặt trên thị trường, các khách hàng Thổ Nhĩ Kỳ do vậy cũng xa lánh thị trường gây áp lực cho các nhà máy. Gía dự thầu HRC đạt mức thấp 360-365 USD/tấn CFR nhưng các nhà máy từ chối, thậm chí là Trung Quốc.
Trung Quốc tận dụng giá bán rẻ trong tháng 2, cung cấp tới 46.842 tấn HRC tới Thổ Nhĩ Kỳ, cao hơn 57% so với tháng 1, khiến nó trở thành nhà cung cấp HRC lớn nhất cho Thổ Nhĩ Kỳ. Tuy nhiên, các nhà máy Trung Quốc không hoạt động trên thị trường trong mấy tuần gần đây.
Trong khi đó, giá chào CRC CIS đạt mức 465-490 USD/tấn CFR tuần qua. Tuy nhiên, đồng dolla tăng mạnh cũng kìm hãm giao dịch CRC trong bối cảnh tiêu thụ thấp.
Do nhu cầu tiêu thụ tương đối thấp, vài nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ cũng tăng chiết khấu cho các đơn hàng trong nước trong mấy tuần gần đây. Gía chào HRC cũng đạt mức thấp 420-440 USD/tấn kèm chiết khấu trong ngày thứu 6 trong bối cảnh tâm lý thị trường u ám vì thiếu hụt tiền mặt.
Thép cây Nga giảm xuống mức thấp 6 tháng và có thể ổn định lại trong tháng 5
Gía thép cây Nga sản xuất tháng 4 đã giảm thêm 1.000 Rub/tấn trong tuần qua theo sau mức giảm tươnng tự tuần trước do hàng tồn kho quá mức và tâm lý thị trường u ám.
Gía chào từ các nhà máy giảm còn 25.000-25.200 Rub/tấn (505-509 USD/tấn) đối với loại 12mm và 24.600-24.700 Rub/tấn (497-499 USD/tấn) đối với loại 14mm giao tới Maxcova đã tính VAT.
So với tháng trước, giá tháng 4 giảm 1.700 Rub/tấn, giảm lần thứ 2 kể từ cuối tháng 2. Như vậy, giá thép đã giảm tổng cộng 3.500 Rub/tấn từ mức cao nhất cho tới thời điểm này, còn 24.700 Rub/tấn chưa tính thuế,.
Các nhà máy giảm giá chào bán xuống do giá bán lẻ của các nhà phân phối đã giảm còn 25.200 Rub/tấn xuất xưởng. Vài nhà phân phối lớn có thể giảm mạnh tay hơn nữa nếu họ vẫn còn thép tồn của tháng 12 với giá dưới mức 21.000 Eub/tấn. Mức giảm lớn 1.800 Rub/tấn so với tháng trước đã gây điêu đứng cho người bán. Trong tháng 5, các nhà máy sẽ cố gắng hơn nữa để giữ giá bình ổn tại mức 24.800-25.000 Rub/tấn đã tính VAT.
Trở về tháng 12, thời điểm mà thép cây được bán tại mức 24.000 Rub/tấn (20.200 Rub/tấn chưa tính thuế) CPT Maxcova, các nhà máy đã hoảng sợ nhưng nguyên nhân kéo giá giảm là giá phế. Hiện tại,với giá phế tăng, các nhà máy bán thép cây bán tại mức giá nếu không nói là lỗ.
Trong tháng 12/2014, các nhà máy đang mua phế tại mức 11.200 Rub/tấn chưa tính VAT và chênh lệch 10.000 Rub/tấn giữa phế với giá bán thép cây. Trong tháng 4, giá phế tăng 2.000 Rub/tấn lên mức 13.200 Rub/tấn và với thép cây hiện tại, giá cao hơn mức 21,000 Rub/tấn một ít, chênh lệch giá thu hẹp còn 8.000 Rub/tấn (160 USD/tấn).
Trong ngày 17/4, Platts giảm giá thép cây Nga xuống 750 Rub/tấn, còn 21.700-22.000 Rub/tấn (418-424 USD/tấn tại mức tỷ giá ngày 10/4), còn 20.900-21.300 Rub/tấn (421-429 USD/tấn). Tuy nhiên, giá trị đồng dolla tăng 5 USD/tấn do đồng Rub Nga tăng từ mứuc 51.8 Rub/USD ngày 10/4 lên mức 50 Rub/USD ngày 17/4. Điều này cũng làm gia tăng chênh lệch giá thép cây Nga với giá xuất khẩu FOB Biển Đen lên 30 USD/tấn và cao hơn ít.
Định giá phôi thanh CIS
Platts định giá phôi thanh CIS tại mức 370 USD/tấn FOB Biển Đen, tăng 2.5 USD/tấn so với ngày trước đó.
Gía chào từ Nga đạt mức 370-375 USD/tấn FOB Biển Đen. Một nhà máy Ukraina chào bán tại mức 365 USD/tấn FOB Biển Azov.
Trong khi đó, mức giá 370 USD/tấn FOB và cao hơn đã được chấp nhận tại thị trường Ai Cập. Thị trường Thổ Nhĩ Kỳ kiên quyết từ chối giá cao hơn cho các đơn hàng giao nhanh tháng 5. Trong trường hợp này, mức 380-385 USD/tấn CFR Aliaga có thể chấp nhận được, tương đương mức 367-373 USD/tấn FOB Biển Đen.
Nhu cầu tiêu thụ yếu gây áp lực cho thị trường thép cuộn CIS
Bất chấp các nỗ lực tăng giá, giá xuất khẩu thép cuộn CIS chưa thể tăng được do nhu cầu tiêu thụ quá yếu để có thể hỗ trợ giá thép. Bên cạnh đó, áp lực cạnh tranh từ Trung Quốc cũng là nguyên nhân khiến giá xuất khẩu thép cuộn CIS giảm.
Một nhà môi giới tại Địa Trung Hải cho biết Metinvest Ukraina đang cố gắng giữ giá bình ổn nhưng không chắc có được không.
Tại Thổ Nhĩ Kỳ, giá chào bán từ Ukraina đầu tiên đạt mức 30-385 USD/tấn CFR Marmara, sau đó giảm còn 370-375 USD/tấn CFR. Người mua Thổ Nhĩ Kỳ đang tìm kiếm giá 360 USD/tấn CFR. Gía giao dịch HRC đạt mức 370 USD/tấn FOB, tuy nhiên, doanh số bán ra đang dần chậm lại. Metinvest có thể sẽ phải giảm giá xuống thấp hơn MMK nếu muốn bán được hàng.
MMK Nga chào bán tại mức 380 USD/tấn FOB Biển Đen, nhưng giờ chỉ còn 375 USD/tấn FOB và vẫn ổn định. Đối với CRC, nhà máy này chào bán tại mức 450 USD/tấn FOB Biển Đen. Gía bán HRC của MMK là 350-370 USD/tấn FOB nhưng giá trần 370 USD/tấn chưa được xác nhận.
CRC Ukraina đang được bán tại mức 420-430 USD/tấn FOB Biển Azov. Gía xuất xưởng CRC Nga đạt mức 430-470 USD/tấn FOB Biển Đen.
Tuy nhiên, thị trường giao ngay cũng có vài tia hy vọng. Một nhà môi giới tại Balkans cho biết Metinvest đang chào bán cao hơn tháng trước 10-12 Euro/tấn cho HRC. Gía chào đạt mức 375-380 Euro/tấn CFR Bulgaria và phần nào đã được chấp nhận. Gía chào CRC từ cùng nhà máy này vẫn ở mức 420-425 Euro/tấn CFR Bulgaria.
Platts giảm giá HRC và CRC xuất xưởng CIS xuống 10 USD/tấn trong ngày thứ sáu, còn 365 và 450 USD/tấn FOB Biển Đen.
Gía phế nội địa Thổ Nhĩ Kỳ tăng theo giá phế nhập khẩu
Gía thu mua phế tàu tính theo đồng dolla của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng thêm 5 USD/tấn trong ngày thứ sáu do giá phế nhập khẩu tăng mặc dù đồng dolla tiếp tục tăng so với Lira.
Gía phế nóng chảy từ xác tàu thuyền vỡ được chào bán tới các nhà máy Tây Thổ Nhĩ Kỳ (Ozkanlar and Habas) tại mức 270 USD/tấn trong ngày thứ sáu, tăng 5 USD/tấn so với đầu tuần qua trong khi các nhà máy IDC, Ege Celik nhận được giá chào 265 USD/tấn.
Vài nhà máy thép cũng điều chỉnh giá mua phế DKP tính theo đồng Lira trước sự suy yếu của đồng tiền này so với dolla.
Isdemir cũng tăng giá mua phế DKP thêm 10 TRY/tấn lên mức 740 TRY/tấn (257 USD/tấn) trong ngày 17/4. Nhà máy tại Eregli bắc Thổ Nhĩ Kỳ cũng tăng giá mua phế thêm 15 TRY/tấn, đạt mức 740 TRY/tấn (257 USD/tấn).
Định giá HRC EU
Platts vẫn duy trì giá HRC Tây Bắc Âu bình ổn tại mức 407.5 Euro/tấn xuất xưởng Ruhr trong ngày thứ sáu.
Gía thị trường Benelux dao động quanh mức 400-410 Euro/tấn nhưng tại Đức, giá ở mức 405-410 Euro/tấn và 410-415 Euro/tấn.
Gía chào từ Trung Quốc đạt mức 380-385 Euro/tấn CIF Antwerp nhưng không thu hút trong thời gian dài.
Tiền mặt thiếu hụt tiếp tục kìm hãm giao dịch HRC Thổ Nhĩ Kỳ
Mặc dù các nhà máy HRC Thổ Nhĩ Kỳ đã thông báo chiết khấu cho khách hàng để kích cầu, song tiền mặt trên thị trường thiếu hụt do đồng dolla tăng mạnh so với Lira đã kìm hãm giao dịch trong suốt tuần qua.
Tuy nhiên, vài nhà máy đã ngưng nhận đơn hàng tháng 6 và bắt đầu nhận đơn hàng tháng 7. Gía chào HRC nhìn chung ở mức 420-440 USD/tấn trong ngày thứ sáu cho các đơn hàng tháng 6-7 trong khi giá chào xuất khẩu HRC ở mức thấp 400-410 USD/tấn FOB kèm chiết khấu do sự cạnh tranh gay gắt và đồng dolla tăng mạnh.
Gía chào nhập khẩu từ CIS cũng đạt mức thấp tiếp tục kìm hãm giá thép. Các nhà máy Ukraina đang chào bán HRC tại mức 370-380 USD/tấn FOB trong khi giá chào từ Nga đạt mức 385-400 USD/tấn FOB giao tháng 7, không đổi so với cuối tuần trước.
Nhu cầu tiêu thụ có vẻ không tăng trở lại sớm và tỷ giá dao động tiếp tục kìm hãm giao dịch trên thị trường bán lẻ. Cuộc tổng tuyển cử diễn ra trong tháng 6 tới cũng là nguyên nhân khiến cho thị trường im ắng.
Giá nhập khẩu ferrochrome Trung Quốc bình ổn trong bối cảnh nhu cầu trì trệ
Platts định giá giao ngay cho (58-60% Cr) của Ấn Độ không đổi so với tuần trước đó, nằm ở mức 79-81 cents/lb CIF Trung Quốc hôm thứ Sáu. Mức giá này được hỗ trợ bởi việc giảm bớt tỷ lệ xuất khẩu và nguồn cung giao ngay hạn chế nhưng lại bị kìm hãm bởi nhu cầu suy yếu.
Một nhà sản xuất Ấn Độ đã bán với giá 81 cents/lb CIF trong tuần trước cho nguyên liệu đạt chuẩn mặc dù kích thước nhỏ hơn một chút chỉ có 10-100 mm.
Ấn Độ đã giảm mức trợ cấp xuất khẩu từ 4% xuống còn 2% cho ferrochrome tới một số nước Châu Á trong đó có Trung Quốc kể từ đầu tháng 04. Chênh lệch giá giữa nguyên liệu có kích thước 10-100 mm với loại 10-150 mm là rất nhỏ và hầu hết là 0.5 cents/lb.
Một nhà sản xuất thép không gỉ ở miền đông Trung Quốc đã nhận được một chào giá cho nguyên liệu đạt chuẩn ở mức 79 cents/lb CIF. Không có giao dịch nào được thực hiện vào cuối tuần trước nhưng đại diện một nhà máy cho biết công ty có thể sẽ tuân theo giá đã thương lượng cho mức giá thấp.
Người mua ở Trung Quốc đã hạn chế đặt hàng do thị trường thép không gỉ suy yếu và tình hình nguồn cung cải thiện ở trong nước.
Gía phế Thổ Nhĩ Kỳ tăng, giao dịch Đông Á chậm chạp
Gía phế Thổ Nhĩ Kỳ tăng 2.5 USD/tấn trong tuần qua, đạt mức 267.5 USD/tấn trong ngày thứ sáu nhờ số lượng đơn hàng tăng.
Gía phế Châu Âu tăng mạnh hơn so với khu vực Baltic hay phế 80:20 Mỹ. Gía phế 80:20 Châu Âu có giá 263-265 USD/tấn trong ngày thứ sáu. Nguồn cung sẵn có trên thị trường là yếu tố quyết định tới giá cả trong bối cảnh cung vượt quá cầu hiện tại. Đà tăng giá hiện tại vẫn còn là một câu hỏi vì giá quặng và thép thành phẩm vẫn thấp.
Trong khi đó, giá phế Ferrite vẫn trầm lắng tại Châu Á. Gía tại hầu hết các thị trường vẫn bình ổn.
Không có đơn hàng lớn nào được chốt tại thị trường Đông Á. Các đơn hàng ở Việt Nam tuần qua chốt tại mức 260 USD/tấn CFR. Trong ngày 17/4, Platts vẫn duy trì giá phế HMS khối lượng lớn Đông Á tại mức 255-260 USD/tấn CFR Đông Á, không đổi so với tuần trước.
Gía xuất khẩu phế 80:20 khối lượng nhỏ tới Đài Loan giảm còn 230 USD/tấn CFR trong ngày 16/4 do nhu cầu tiêu thụ suy yếu trước đợt cắt giảm năng lượng sắp tới. Các đơn hàng trước đó đạt mức 233 USD/tấn CFR Đài Loan đầu tuần trước.
Tại Nhật Bản, giá phế vẫn ổn định với giá thu mua phế H2 để xuất khẩu tại vịnh Tokyo là 24.000-24.500 Yên/tấn (202-206 USD/tấn), không đổi so với tuần trước.
Nhà máy Tokyo Steel Manufacturing tại Bắc Kanto đạt mức 24.500 Yên/tấn.
Trong khi đó, các khách hàng Đài Loan đang quan tâm nhiều hơn tới phế Nhật trong tuần qua nhưng không có đơn hàng nào được chốt. Các thương nhân Nhật Bản tin rằng các khách hàng Đài Loan đã có đủ hàng dự trữ.
Hyundai Steel dự thầu tại mức 25.500 Yên/tấn đối với phế H2 Nhật trong tuần qua và 28.500 Yên/tấn đối với phế Shindachi, không đổi so với tuần trước.
Tại thị trường Hàn Quốc, Hyundai và Dongkuk Steel sẽ cắt giảm giá mua phế xuống 5.000 Won/tấn (4.5 USD/tấn) từ ngày 24
Giá thép cuộn không gỉ Châu Á không đổi trong bối cảnh nhu cầu trì trệ
Platts không thay đổi định giá giao ngay cho CRC không gỉ loại 304 2B dày 2mm Đài Loan và Hàn Quốc 2.150-2.200 CFR các cảng lớn ở Đông Á và Đông Nam Á trong bối cảnh nhu cầu trì trệ.
Các giao dịch CRC Đài Loan và Hàn Quốc được nghe nói trong khoảng 2.150-2.200 USD/tấn CFR Trung Quốc tuần trước. Chào giá và giá bán cho CRC Đài Loan chủ yếu vẫn ở mức 2.170-2.250 USD/tấn CFR cảng Đông Á và Đông Nam Á, thấp hơn một chút so với 2.200-2.250 USD/tấn CFR của tuần trước đó.
Một thương nhân ở Hong Kong đã nhận được chào giá cho CRC Hàn Quốc là 2.200 USD/tấn CFR, nhưng cho biết có thể thương lượng chào giá này với nhà cung cấp của ông. Một thương nhân ở Seoul cho biết một nhà sản xuất lớn của Hàn Quốc đã chào giá 2.100-2.150 USD/tấn CFR trong tuần trước, mặc dù chào giá này cũng sẽ tùy vào mối quan hệ của người mua với nhà sản xuất và khối lượng đặt mua.
Mức giá dưới 2.150 USD/tấn CFR không được tính vào định giá do không có ai bán với giá thấp như vậy.
Giao dịch vẫn còn trì trệ trong bối cảnh giá niken bất ổn. Một vài nhà cung cấp có lẽ đang tìm cách nâng chào giá sau khi giá niken tăng khoảng 650 USD/tấn vào tuần trước. Nhưng nếu niken vẫn còn dưới mức 13.000 USD/tấn, thì thật khó để giá niêm yết tăng. Giá niken giao dịch chính thức bằng tiền mặt trên sàn London Metal Exchange hôm 16/4 là 12.885-12.890 USD/tấn.
Một nhà sản xuất thép không gỉ lớn của Trung Quốc nghe nói đang chào bán CRC 304 2mm 2B loại cao cấp với giá 2.130 USD/tấn FOB Trung Quốc tuần trước. Chào giá của Trung Quốc trên thị trường chủ yếu vẫn dao động quanh mức 2.100-2.170 USD/tấn FOB cách đây hai tuần.
Giá thép cây miền bắc Trung Quốc giảm nhẹ do nhu cầu suy yếu
Thị trường thép cây ở miền bắc Trung Quốc suy yếu hôm thứ Sáu, do các thương nhân cố gắng kích thích doanh số bằng cách giảm giá trước cuối tuần.
Hầu hết các thương nhân được Platts liên hệ vẫn còn bi quan về triển vọng ngắn hạn giữa lúc nhu cầu suy yếu, mặc dù sự thật là nước này đang bước vào mùa cao điểm truyền thống của hoạt động xây dựng.
Tại thị trường bán lẻ Bắc Kinh hôm 17/4, giá giao ngay của thép cây HRB400 đường kính 18-25mm được chốt ở mức 2.270-2.280 NDT/tấn (366-368 USD/tấn) xuất xưởng trọng lượng thực tế và gồm 17% VAT, giảm 10 NDT/tấn (2 USD/tấn) so với thứ năm tuần trước. Giá cũng giảm 40 NDT/tấn (6 USD/tấn) so với tuần trước.
Trong tuần qua, giá thép cây ở Bắc Kinh đã có giai đoạn phục hồi tạm thời lần đầu tiên trong hai tuần, chủ yếu là do quặng sắt và hợp đồng thép cây tăng vào thứ Hai tuần trước. Nhưng các thương nhân tiếp tục hạ chào giá tới mức sàn để khuyến khích doanh số nhiều hơn.
Theo nhà cung cấp thông tin ở Thượng Hải Mysteel, thép cây tồn kho ở Bắc Kinh trong suốt tuần trước giảm 28.000 tấn (5%) còn 534.500 tấn.
Trong khi đó, trên sàn Shanghai Futures Exchange, hợp đồng thép cây giao kỳ hạn tháng 10 giảm 0,3% hoặc 7 NDT/tấn chốt ở mức 2.311 NDT/tấn hôm 17/4. Hợp đồng thép cây giao kỳ hạn hôm thứ Sáu cũng giảm 1% hay 18 NDT/tấn so với tuần trước đó từ thứ Hai tuần trước.
Gía chào HRC thu hẹp tại Mỹ
Biên độ dao động giá chào HRC từ các nhà máy Mỹ đang thu hẹp lại do doanh số bán không ảnh hưởng tới giá thép.
Platts vẫn duy trì giá HRC và CRC lần lượt tại mức 445-455 USD/tấn và 570-590 USD/tấn đối với các đơn hàng lên tới 500 tấn. Tất cả các giá này là giá xuất xưởng Midwest (Indiana).
Một trung tâm dịch vụ cho hay chênh lệch giá giữa các đơn hàng nhỏ với tương đối lớn chỉ khoảng 10 USD/tấn. Ông tin rằng giá HRC dao động phổ biến quanh mức 430-450 USD/tấn.
Đài Loan: China Steel giảm giá tháng 06 ở trong nước
Nhà sản xuất thép lớn nhất Đài Loan, China Steel Corp (CSC), đã giảm giá bán tháng 06 ở trong nước cho tất cả các sản phẩm của mình, cụ thể HRC và CRC được giảm lần lượt 1.500 NDT/tấn và 1.499 NDT/tấn.
Theo đó, giá niêm yết của công ty cho HRC SPHC và CRC SPCC còn lần lượt 15.908 NDT/tấn (512 USD/tấn) và 18.490 NDT/tấn, theo tính toán của Platts từ những thông báo thay đổi giá của CSC.
CSC cũng hạ giá bán trong nước cho cả thép cuộn mạ kẽm nhúng nóng và mạ điện xuống 1.200 Đài tệ/tấn; thép tấm và thép mạ điện giảm lần lượt 1.045 Đài tệ/tấn và 700 Đài tệ/tấn. Ngoài ra, công ty cũng giảm giá thép thanh và dây 1.090 Đài tệ/tấn.
Tăng trưởng kinh tế toàn cầu được dự báo ở mức thấp hơn đã dẫn đến nhu cầu thép suy yếu. Nhiều quốc gia đã quay sang xuất khẩu do nhu cầu trong nước chậm và để giải quyết nguồn cung dư thừa nguồn cung trong nước. Ngoài ra, còn do thị trường dè dặt với việc thu mua do giá quặng sắt và than cốc giảm.
Ở Mỹ, giá thép tiếp tục giảm do tồn kho vẫn còn cao dẫn đến các nhà máy từng bước cắt giảm sản xuất. Nhu cầu ở Châu Âu vẫn còn trầm lắng, trong khi giá thép ở Trung Quốc đã phục hồi tạm thời hồi tháng 03, giao dịch trì trệ do thị trường vẫn không đổi.
Ở Đài Loan, những ngành công nghiệp tiêu thụ thép trực tiếp phải đối mặt với sự bất ổn do tăng trưởng kinh tế toàn cầu chậm chạp và đơn hàng xuất khẩu giảm vì giá thép thế giới thấp hơn. Trung Quốc và Hàn Quốc cũng tiếp tục xuất khẩu khối lượng lớn các sản phẩm thép giá rẻ vào Đài Loan dẫn đến giá trong nước giảm.
Hegang duy trì giá HRC, giảm giá CRC và HDG cho tháng 05
Hebei Iron and Steel (Hegang) đã quyết định duy trì giá xuất xưởng tháng 05 cho HRC, nhưng lại giảm giá CRC và HDG xuống lần lượt 100 NDT/tấn (16 USD/tấn) và 200 NDT/tấn.
Quyết định của nhà máy này sẽ duy trì giá xuất xưởng HRC, sau khi đã giảm 100 NDT/tấn cho tháng 04, chủ yếu là do sự phục hồi ngắn ngủi từ ngày 10-15/4.
Platts định giá HRC Q235 5.5mm tăng 40 NDT/tấn từ ngày 10-14/4, nhưng lại giảm một lần nữa vào ngày 15/4 khi Platts hạ giá xuống 10 NDT/tấn. Platts tiếp tục giữ định giá hôm thứ năm nhưng vào ngày thứ Sáu lại giảm xuống thêm 15 NDT/tấn.
Theo đó, giá xuất xưởng của Hegang cho HRC Q235 5.5mm là 3.100 NDT/tấn, còn CRC SPCC 1.0mm và HDG SGCC 1.0mm sẽ giảm còn lần lượt 3.800 NDT/tấn và 3.880 NDT/tấn. Tất cả các giá trên gồm 17% VAT và áp dụng từ ngày 01/5.
“Giá niêm yết của chúng tôi gây ảnh hưởng không đáng kể lên xu hướng thị trường giao ngay vì chúng tôi cũng đưa ra giá thanh toán vào cuối mỗi tháng”, đại diện nhà máy giải thích giá có thể giảm thêm giá do nhà máy giảm giá bán tới các đại lý vì lợi nhuận tốt hơn nhờ giá nguyên liệu xuống thấp.
Đối với các nhà máy Trung Quốc công bố cả giá niêm yết và thanh toán là không bình thường, Anshan Iron & Steel và Shougang Iron & Steel cũng làm tương tự.
Shougang xác nhận hôm thứ Sáu rằng công ty cũng duy trì giá HRC cho tháng 05 nhưng chưa có thông báo chính thức.
Nhiều thương nhân ở Thượng Hải không bị căng thẳng về việc điều chỉnh của Hegang, lo lắng chủ yếu của họ là về khoản bù đắp mà họ có thể nhận được vào cuối tháng. Hầu hết đều dự đoán giá HRC sẽ giảm thêm do nhu cầu suy yếu.
Các nhà máy thép hình Châu Âu chuẩn bị tăng giá
Các nhà máy thép hình Châu Âu đang chuẩn bị tăng giá thép để bù vào chi phí sản xuất tăng. Nhà máy Duferdofin Ý trong tuần qua đã tăng giá chào bán thép dầm loại 1 thêm 10 Euro/tấn, đạt mức 520-530 Euro/tấn đã tính phí giao hàng.
Các nhà máy khác vẫn chưa có động thái hưởng ứng. Một nhà môi giới Pháp cho biết các nhà máy muốn giữ giá ở mức cao và hiện tại đang chào bán tại mức 525 Euro/tấn đã tính phí giao hàng, tăng từ mức giá giao dịch 510-520 Euro/tấn trước đó.
Các nhà máy thép muốn tăng giá nhưng chưa có thông báo chính thức. Gía có thể tăng thêm 10-15 Euro/tấn nhưng nhu cầu tiêu thụ vẫn thấp.
Tại các nước Benelux, một nhà phân phối xác nhận rằng giá sẽ tăng nhưng thị trường vẫn im ắng. Một nhà phân phối khác cho biết đang chào bán tại mức 525 Euro/tấn đã tính phí giao hàng và các nhà máy đang yêu cầu trả thêm 10 Euro/tấn. Platts cũng duy trì giá thép hình Châu Âu bình ổn tại mức 525 Euro/tấn đã tính phí giao hàng thực tế.
Trung Quốc: Thép tấm tăng ở trong nước nhưng xuất khẩu vẫn ảm đạm
Giá thép tấm thương phẩm ở Trung Quốc dần bình ổn vào cuối tuần trước, với hầu hết các thương nhân dự đoán thị trường ổn định thêm một thời gian nữa. Nhu cầu mạnh hơn cùng với tồn kho thấp đã giúp duy trì giá.
Hôm 17/4, thép tấm Q235 14-20mm được giao dịch phổ biến với giá 2.420-2.460 NDT/tấn (389-396 USD/tấn) gồm 17% VAT ở Thượng Hải, không đổi so với đầu tuần trước.
Thép tấm dày tồn kho tại 31 thành phố lớn còn tổng cộng 1,145 triệu tấn tính từ ngày 10/4, giảm 4% so với đầu tháng 03 và 19% so với cùng kỳ năm ngoái.
Một thương nhân cho biết nhu cầu không đủ mạnh để hỗ trợ giá thép tấm phục hồi nhưng khi so với tháng 03 thì giao dịch cải thiện hơn vì vậy giá không thể giảm ở giai đoạn này.
Đối với thị trường xuất khẩu, một vài thương nhân thừa nhận rằng đơn hàng vẫn còn ít vì vậy thật khó để xác định mức đáy.
Một nhà xuất khẩu cho biết chào giá của ông cho thép tấm SS400 12-30mm không thay đổi và giữ ở mức 370 USD/tấn FOB trong suốt tuần trước, nhưng người mua có vẻ như không mấy quan tâm đến mức giá này. Một nhà xuất khẩu khác tin là giá xuất khẩu vẫn có khả năng giảm thêm do đơn hàng ít ỏi.
Gía thép thành phẩm suy yếu kéo giá phôi phiến CIS giảm
Gía phôi phiến xuất xưởng CIS vẫn giảm trong tuần qua, xuống mức 300 USD/tấn FOB Biển Đen.
Một thương nhân Châu Âu cho rằng giá phôi phiến giảm do giá thép thành phẩm suy yếu. Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt với Trung Quốc, một nhà máy CIS cho biết trường hợp tốt nhất là giá bình ổn.
Vài đơn hàng khối lượng 20.000 tấn của Metinvest được chốt tại mức 335 USD/tấn CFR Marmara, tuy nhiên, giá này giờ không thu hút nữa. Nhiều nhà máy Nga gần đây đã bán phôi phiến vào thị trường Thổ Nhĩ Kỳ tại mức 325 USD/tấn CFR. Thêm vào đó, phôi phiến Ukraina được giao dịch tại mức 305 USD/tấn FOB Biển Azov.
Một thương nhân Thổ Nhĩ Kỳ cho biết các giao dịch đạt mức 315-320 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ giao tháng 5 và tháng 6. Người mua dự thầu tại mức 300 USD/tấn FOB trong khi các nhà máy giữ giá tại mức 310 USD/tấn FOB Biển Đen. Một thương nhân tại Trung Đông cho biết dù chưa nhà máy nào chào bán tại mức 320 USD/tấn FOB Biển Đen nhưng sẽ nhanh chóng có giá này trong thời gian tới.
Platts cũng giảm giá phôi phiến xuất xưởng CIS xuống 14 USD/tấn, còn 310 USD/tấn FOB Biển Đen.
Sức mua phôi thanh Đông Nam Á chậm chạp do thiếu xu hướng thị trường
Thị trường nhập khẩu phôi thanh Đông Nam Á im ắng trong tuần trước, các nhà cung cấp nhìn chung vẫn duy trì chào giá mặc dù quặng sắt bất ổn và nhu cầu thép cây thấp gây kìm hãm niềm tin thị trường.
Ở Philippines, các giao dịch phôi vuông Trung Quốc 120mm được đặt mua 1-2 tuần trước với giá 360 USD/tấn CFR cho loại Q235 và 365 USD/tấn CFR cho Q275.
Người mua chỉ mua đủ dùng vì tin rằng giá có thể giảm thêm nếu quặng sắt suy yếu. “Tôi nghĩ rằng phôi thanh có thể sẽ giảm thêm một vài đôla nhưng không đáng kể”, ông nói.
Mặt khác, các nhà cung cấp Trung Quốc cũng cố gắng nâng chào giá phôi thanh tuần trước lên 370-375 USD/tấn CFR Philippines do quặng sắt phục hồi gần đây.
Chào giá phôi thanh Q255 150mm đã giảm từ 345 USD/tấn CFR Việt Nam hôm thứ Hai xuống còn 342 USD/tấn CFR. Một đơn đặt hàng được thực hiện khoảng 1 tuần trước với giá 343 USD/tấn CFR.
Thị trường Indonesia trầm lắng trong tuần trước. Các nhà cung cấp Trung Quốc không đưa ra chào giá cố định nhưng lại yêu cầu người mua. Do thị trường thép cây trong nước dư thừa nguồn cung và giá quặng sắt bất ổn, công ty ông không muốn mua phôi thanh.
Tương tự thị trường Thái Lan cũng trì trệ với phôi thanh Trung Quốc Q275 130mm được chào giá 370 USD/tấn CFR và phôi thanh Đài Loan 380-385 USD/tấn CFR. Chào giá phôi thanh Nhật Bản là 390 USD/tấn CFR so với giao dịch 380 USD/tấn CFR hồi cuối tháng 03.
Người mua Thái Lan không còn chịu mức giá 380 USD/tấn CFR cho phôi thanh Trung Quốc. Họ muốn đặt mua với giá dưới 370 USD/tấn CFR nhưng sẽ không thể chốt được hợp đồng.
Hôm 17/4, Platts tăng giá niêm yết cho phôi thanh Đông Á nhập khẩu lên 365-380 USD/tấn CFR từ mức giá 370-380 USD/tấn CFR của tuần trước.