Xuất khẩu thép dây Thổ Nhĩ Kỳ tăng do các nhà máy tìm kiếm nhiều thị trường
Khối lượng thép dây xuất khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ tăng đáng kể trong 9 tháng đầu năm, đạt 951.280 tấn, tăng 28% so với năm ngoái do các nhà xuất khẩu đa dạng hóa các điểm đến, bán vào Đông Nam Á và Caribbean dựa vào nhu cầu chậm ở một số thị trường xuất khẩu chính.
Theo dữ liệu mới nhất của Viện thống kê Thổ Nhĩ Kỳ (TUIK), Israel tiếp tục là nhà nhập khẩu thép Thổ Nhĩ Kỳ lớn nhất trong tháng 1 và tháng 9 với 183.570 tấn, tăng 15% so với năm trước. Các lô hàng thép cuộn của Thổ Nhĩ Kỳ sang Mỹ cũng tăng 25% trong năm lên 103.180 tấn, mặc dù nhập khẩu từ nước này đã giảm đáng kể trong Q3, trong khi lo ngại về việc điều tra Mục 232.
Singapore cũng đã trở thành một thị trường lớn, chiếm 80.120 tấn, trái ngược với cùng kỳ năm trước khi Thổ Nhĩ Kỳ không xuất khẩu rất ít sang nước này.
Các nhà xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ đã đa dạng hóa các điểm đến xuất khẩu dây thép trong tháng 1-tháng 9, với lượng đáng kể xuất sang Carribe. Xuất khẩu tới Haiti đạt 66.765 tấn, trong khi xuất khẩu sang Cộng hoà Dominica đạt 15.470 tấn.
Xuất khẩu tới một số nước Châu Âu cũng tăng. Thổ Nhĩ Kỳ đã xuất khẩu 48.220 tấn thép cuộn vào Ý trong tháng 1-tháng 9 trong khi lượng hàng đến Bỉ đạt 36.7500 tấn. Hà Lan cũng đã mua 35.000 tấn thép dây Thổ Nhĩ Kỳ trong nửa đầu năm, theo số liệu của TUIK.
Trong khi đó, giá chào bán tăng nhẹ trong tuần trước do sự gia tăng dần về chi phí phế liệu nhập khẩu và nhu cầu tiêu thụ tại thị trường nội địa mạnh mẽ. Giá phôi thép xuất khẩu của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ hiện đang ở mức 555-555 USD/tấn FOB, cao hơn 5-10 USD / tấn so với đầu tháng.
Giá thép không gỉ Châu Á ổn định do triển vọng không chắc chắn
Platts định giá CRC không gỉ 304 2mm 2B xuất xứ Đài Loan và Hàn Quốc ổn định ở mức 2.220-2.280 USD/tấn CFR Đông và các cảng Đông Nam Á trong tuần trước.
Giá thị trường vẫn được hỗ trợ bởi giá chào cao từ các nhà cung cấp trong khu vực, mặc dù thị trường nội địa Trung Quốc suy yếu khi giá niken giảm. Một thương nhân trong khu vực cho biết ông đã đặt mua CRC 304 ở mức 2.250 USD/tấn CFR Hồng Kông trong tuần.
Tuy nhiên, giá từ Posco Hàn Quốc vẫn ở khoảng 2.580 USD/tấn CFR trong tháng 12 và tháng 1/ 2018. Có thể có một số chiết khấu, nhưng giá có thể vẫn cao hơn mức 2.500 USD, theo một nguồn thị trường. Trong khi đó, giá lô hàng có thời gian giao hàng ngắn tới phía nam Trung Quốc vẫn có thể giao dịch tại mức 2.200-2.300 USD/tấn CFR miền nam Trung Quốc.
Một thương nhân Trung Quốc cho biết, do triển vọng thị trường không chắc chắn dựa vào sự biến động của giá nickel nên phần lớn các nhà máy ngưng chào bán. Chào giá giao ngay tầm 2.100 USD/tấn FOB.
Giá niêm yết chính thức trên sàn giao dịch kim loại London ở mức 11.570 USD/tấn vào ngày 16/11, giảm 660 USD/tấn so với tuần trước đó.
Giá HRC nội địa/nhập khẩu Thổ Nhĩ Kỳ có tín hiệu phục hồi
Giá HRC nội địa và nhập khẩu Thổ Nhĩ Kỳ bắt đầu có dấu hiệu phục hồi vào cuối tuần trước sau thời gian suy yếu kéo dài.
Vài nhà máy CIS tăng giá chào bán tới Thổ Nhĩ Kỳ lên 545-550 USD/tấn CFR vào cuối tuần trước sau khi các đơn hàng đã chốt ở mức 535-540 USD/tấn CFR hồi đầu tuần cho các đơn hàng lớn. Tuy nhiên, giá này được cho là không cạnh tranh.
Các giao dịch mới nhất tại thị trường trong nước chốt ở mức 550-555 USD/tấn xuất xưởng cho các đơn hàng lớn trong khi giá chào ở mức cao 560-570 USD/tấn xuất xưởng.
Vài giao dịch khối lượng lớn chốt ở mức 550 USD/tấn xuất xưởng hồi đầu tuần nhưng tiêu thụ bắt đầu có dấu hiệu phục hồi. Vài nhà máy đẩy giá chào bán tăng nhẹ 5-10 USD/tấn trong mấy ngày qua.
Cũng có vài đơn hàng nhập khẩu từ Nga hồi đầu tuần ở mức 535 USD/tấn CFR nhưng giá chào bán mới đã tăng nhẹ. Do phần lớn người mua trong trạng thái chờ đợi nên tiêu thụ tương đối chậm trong mấy tuần qua. Tuy nhiên, giá cả ổn định và tiêu thụ sẽ tăng trong vài ngày tới.
Trong khi đó, một trung tâm dịch vụ dự báo giá sẽ không giảm do giá phế nhập khẩu tăng lại và sức mua có dấu hiệu phục hồi nên giá cả sẽ tăng nhẹ vào vài tuần tới.
Chào giá xuất khẩu đã giảm xuống 550 USD/tấn FOB với vài nhà máy giảm giá chào tới Châu Âu trong tuần trước do áp lực cạnh tranh.
Giá HRC Ý gặp áp lực cạnh tranh từ hàng nhập khẩu
Nhập khẩu HRC từ Thổ Nhĩ Kỳ gây áp lực cho thị trương Ý trong tuần qua.
Giá nội địa ở mức 490-500 Euro/tấn xuất xưởng trong khi giá từ Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 490 Euro/tấn CIF cảng Ý. Hồi cuối tuần, một nhà máy lớn đã bán giá 495 Euro/tấn CIF tới Ý trong khi một nhà máy ở Izmir chào bán giá 510 Euro/tấn CFR.
Các nhà máy đang bội bán hàng trước lễ hội, với giá hiện tại vẫn đảm bảo lợi nhuận. Để tăng cạnh tranh với hàng nhập khẩu thì các nhà máy phải giảm giá, một nguồn tin cho biết.
Tuy nhiên, tâm lý thị trường khởi sắc về hội chợ thương mại gần đây ở Stuttgair cho thấy các nhà máy có thể tăng nhẹ giá chào vào Q1 tới.
Tỷ giá biến động khiến giá chào từ Thổ Nhĩ Kỳ giảm 10 Euro/tấn và các nhà máy chuộng bán vào trong nước hơn. Các số liệu hải quan gần đây cho thấy Thổ Nhĩ Kỳ đã bán 123.328 tấn HRC tới Châu Âu trong tháng 9, chủ yếu sang Tây Ban Nha và Ý.
Giá HRC Nam Âu theo Platts ở mức 498.50 Euro/tấn vào thứ sáu tuần trước. Giá CRC Ý giảm nhưng giảm nhẹ. Giá CRC nội địa ở mức 575-585 Euro/tấn xuất xưởng do với giá nhập khẩu 575 Euro/tấn CIF.
HDG là mặt hàng mạnh nhất trong các loại thép cuộn và các thảo luận tấm mỏng mỗi năm và nửa năm giữa các nhà máy và OEM ở Bắc Âu đang trong tiến trình đàm phán. Người mua dự báo trả cao hơn cho tấm mạ mặc dù giá HRC giữ nguyên. Tại Nam Âu, các đàm phán này tiếp tục, tăng 50-80 Euro/tấn so với cùng kỳ năm ngoái.
Giá thép cuộn Nga khả năng giảm trong tháng 12
Giá thép cuộn Nga có thể giảm trong tháng 12 do giá chào từ các nhà môi giới giảm và chênh lệch giá nội địa-xuất khẩu lớn.
Trong 30 ngày qua, giá HRC xuất khẩu CIS đã giảm 30 USD/tấn từ mức 552 USD/tấn giữa tháng 10 trong khi giá tính theo đồng dolla giảm 40 USD/tấn nhưng ở mức 585 USD/tấn CPT Maxcova.
Giá giảm do vào mùa đông khiến nhu cầu tiêu thụ thép cuộn tháng 12-tháng 1 Nga và Ukraina ở thời điểm suy yếu nhất. Do đó, khối lượng xuất khẩu tăng 40%.
Nguyên nhân giá giảm là do lợi nhuận cao gần đây và giá khá tốt cũng thúc giục các nhà máy ở Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ và Trung Quốc tăng sản xuất. Do xuất khẩu mang lại lợi nhuận nên các nhà máy cũng tăng sản xuất, khiến giá giảm lại.
Hai nhà máy Nga chào bán HRC tới Thổ Nhĩ Kỳ tại mức 535-540 USD/tấn CFR và thép cuộn Ukraina có sẵn ở mức 525 USD/tấn CFR. Phôi phiến được chào ở mức 475 USD/tấn CFR với giao dịch có thể ở mức 470 USD/tấn CFR do các nhà máy Braxin đang chào bán phôi phiến của họ ở mức 465 USD/tấn CFR. Lý do đằng sau là chống bán phá giá từ EU nên vài nhà máy bán nhiều hơn vào Thổ Nhĩ Kỳ và các khu vực khác.
Một thương nhân khác cho biết giá chào từ Nga cho các lô hàng sản xuất tháng 12/giao tháng 1 tới Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 480 USD/tấn CFR, tầm 465-470 USD/tấn FOB Biển Đen. Giá phế tăng có thể trợ giá phôi phiến nhích nhẹ vào tuần trước nhưng do giá HRC giảm và tiêu thụ thấp nên giá phôi phiến vẫn chịu áp lực.
Một nhà máy Nga gần đây đã bán 30.000 tấn HRC tới Việt Nam với giá 554 USD/tấn (phí vận chuyển 25 USD/tấn) từ cảng phía đông Nga. Giá sẽ rẻ hơn 10 USD/tấn nếu bán từ Biển Đen.
Platts duy trì giá HRC và CRC CIS ổn định ở mức 520-525 USD/tấn và 570-575 USD/tấn FOB Biển Đen vào hôm thứ sáu. Giá phôi phiến tuần giảm 7.5 USD/tấn so với tuần trước đó xuống 460-470 USD/tấn FOB Biển Đen.
Giá phôi thanh Châu Á ổn định do không còn bán khống
Thị trường phôi thanh Đông Nam Á ổn định trở lại vào tuần trước. Tại Manila, giá phôi thanh Q275 120mm chào ở mức 495-497 USD/tấn CFR. Chào giá cho phôi thanh Trung Đông tăng lên 505 USD/tấn CFR Manila cho phôi thanh Q275 130MM/150mm giao tháng 1. Chào giá cho phôi thanh Indonesia ổn định ở mức 490-495 USD/tấn CFR cho phôi thanh Q275 120mm. Không có chào bán khống trong tuần dù có vài giao dịch ở mức thấp do người bán thiếu tiền mặt.
Chào giá cho phôi thanh Việt Nam ở mức 510-520 USD/tấn CFR, không đổi so với thứ sáu tuần trước. giá bán trong nước có thể đạt mức 495-500 USD/tấn xuất xưởng cho lò cao và 485-490 USD/tấn xuất xưởng cho lò hồ quang điện. giá tương đương mức 535-540 USD/tấn CFR Manila, khiến thị trường xuất khẩu không thu hút đối với các nhà máy.
Giá lý tưởng từ người mua là 480-485 USD/tấn CFR Manila. Một giao dịch chốt ở mức 480 USD/tấn CFR giao đầu tháng 12, rẻ vì giao nhanh.
Trong ngày thứ sáu, Platts giảm giá phôi thanh 120/130mm nhập khẩu CFR Đông Á ổn định ở mức 490-495 USD/tấn CFR.
Giá xuất khẩu thép cây Trung Quốc ổn định
Giá xuất khẩu thép cây Trung Quốc ổn định ngày thứ hai liên tiếp tính tới hôm qua. Platts vẫn duy trì giá xuất khẩu thép cây BS500 đường kính 16-20mm Trung Quốc tại mức 511.50 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế.
Các khách hàng ngoài nước đang chuyển sang hàng nhập khẩu giá rẻ từ nước thứ ba do giá Trung Quốc cao. Tại Hồng Kông, một lô hàng 10.000 tấn thép cây 10-40mm Nga chốt ở mức 515 USD/tấn CFR trọng lượng thực tế giao tháng 1.
Một nhà môi giới cho biết giá chào từ Ấn Độ ở mức 515 USD/tấn CFR Hồng Kông trọng lượng thực tế. Giá từ Trung Quốc không thể cạnh tranh khi mà luôn cao hơn 540 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế.
Chênh lệch giá thép cây Trung Quốc với Nga và Ấn Độ là 5-10 USD/tấn.
Một thương nhân miền đông Trung Quốc cho biết một lô hàng 30.000 tấn thép cây 10-40mm Ấn Độ được bán sang Singapore tại mức giá 508 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết giao tháng 1 trong tuần 12/11.
Giá chào từ Ấn Độ vẫn ở mức 510-515 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết. Các khách hàng Singapore không chấp nhận giá này do họ đã mua khối lượng lớn với giá rẻ hơn từ nước thứ ba.
Các nhà máy Trung Quốc tiếp tục duy trì giá chào bán cao do họ lạc quan về thị trường nội địa ngắn hạn. Một nhà máy lớn giữ giá chào không đổi ở mức 530 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng lý thuyết, tương dương 546 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế với 3% chênh lệch khối lượng.
Thị trường xuất khẩu HRC Trung Quốc ổn định
Giá xuất khẩu HRC Trung Quốc ổn định ngày thứ tư liên tiếp tính tới cuối tuần qua do giao dịch khan hiếm.
Platts duy trì giá xuất khẩu HRC SS400 3.0mm tại mức 545-547 USD/tấn FOB Trung Quốc. Giá nhập khẩu vào Đông Á ổn định ở mức 555-557 USD/tấn CFR Đông Á.
Tại thị trường giao ngay, giá HRC Q235 5.5mm giảm 55 NDT/tấn xuống 4.060-4.080 NDT/tấn (612-615 USD/tấn) xuất xưởng có thuế. Tại sàn giao kỳ hạn, hợp đồng HRC chốt tháng 1/2018 giảm 85 NDT/tấn xuống 3.934 NDT/tấn.
Dù giá trong nước suy yếu nhưng các nhà máy từ chối giảm giá dựa vào nhu cầu tiêu thụ tăng và họ chọn cách bình ổn giá ở mức 560 USD/tấn FOB Trung Quốc.
Một nhà máy phía đông chào giá 565 USD/tấn CFR Việt Nam (phí vận chuyển 11 USD/tấn) giao tháng 1. Tuy nhiên, không ai quan tâm giá này.
Một giao dịch chốt hôm thứ sáu có khối lượng 10.000 tấn thép cuộn SAE từ một nhà máy phía đông Trung Quốc là 563 USD/tấn CFR Việt nam. Một giao dịch khác nghe hôm thứ năm ở mức 560 USD/tấn CFR Việt Nam khối lượng 5.000 tấn giao tháng 12.
Tuy nhiên, các nhà máy Ấn Độ vẫn chào bán ở mức 560-565 USD/tấn CFR Việt Nam.
Bản tin quặng tuần: cắt giảm sản xuất thép làm giảm nhu cầu tiêu thụ
Thị trường quặng xuất khẩu chỉ tăng trưởng nhẹ trong tuần trước do các cắt giảm sản lượng trong mùa đông đã bắt đầu và kìm hãm tiêu thụ.
Trong ngày thứ sáu tuần trước, Platts tăng giá quặng sắt 62% sắt thêm 0.95 USD/tấn so với ngày thứ năm và 0.05 USD/tấn so với tuần trước đó lên 62.75 USD/tấn CFR Bắc Trung Quốc.
Trong khi thông báo chính thức cho biết 50% sản lượng thép được cắt giảm ở 26+ 2 thành phố thuộc phía bắc Trung Quốc từ 15/11-15/3 thì các cắt giảm sản xuất thép thực tế được nghe tầm 25-80% tùy vào khu vực, nhu cầu dùng nhiệt và mức độ ô nhiễm. Một nhà máy ở Hà Bắc cho biết sễ cắt giảm khoảng 30% trong khi vài nhà máy ở Đường Sơn nghe nói giảm 70-0%.
Các nhà máy không vội mua quặng dự trữ dựa vào tồn kho tăng sau khi cắt giảm sản xuất thép. Nhiều nguồn tin khá bi quan về triển vọng tiêu thụ quặng ngắn hạn tới cuối năm.
Trong khi dó, nhiều lô hàng đang cập bến cảng Trung Quốc. Ngày càng có nhiều người sẵn sàng hạ giá để kích cầu nhằm thu lại vốn tiền mặt.
Nhu cầu tiêu thụ tại cảng cũng trì trệ vì người mua chỉ thu mua đủ dùng. Các nhà máy đang giảm quặng sắt tồn kho với sản xuất thép giữ ở mức cao.
Trong khi đó, giá thép lại được hỗ trợ từ cắt giảm sản xuất. Giá giao ngay phôi thanh Đường Sơn ở mức 3.780 NDT/tấn (570.33 USD/tấn) xuất xưởng vào hôm thứ sáu, giảm 100 NDT/tấn.
Thị trường quặng cục cũng tăng trưởng với người bán vẫn thu được lợi nhuận tại cảng dù hoài nghi không biết duy trì được bao lâu dựa vào nguồn cung tăng.
Platts giảm chênh lệch quặng cục với quặng cám giao ngay xuống 0.0085 USD/tấn so với tuần trước đó còn 0.1950 USD/tấn trong ngày thứ sáu. So với thứ năm, mức chênh lệch trên ổn định.
Giá tấm mỏng Mỹ tăng
Giá HRC và CRC theo ngày Mỹ tăng sau khi thị trường dần hấp thụ thông báo tăng giá mới đây.
Tuần trước, các nhà máy Mỹ thông báo tới khách hàng rằng họ sẽ tăng giá tấm mỏng thêm 30 USD/tấn áp dụng ngay lập tức. Các thông báo này đã đẩy giá chào HRC lên trên 600 USD/tấn xuất xưởng.
Giá HRC xuất xưởng Mỹ theo Platts tăng 3 USD/tấn lên 617.75 USD/tấn. Một nhà máy cho biết giá giao dịch trong ngày thứ tư và thứ năm là 622 USD/tấn và 625 USD/tấn. Trong khi đó, giá CRC theo Platts tăng 1 USD/tấn lên 783.75 USD/tấn. Một nhà máy Mỹ báo cáo giá giao dịch CRC là 785 USD/tấn trong tuần trước.
Áp lực ngày càng tăng trên thị trường phế thúc đẩy nhiều thương lượng và giao dịch hơn từ đầu tuần trước nhưng quá sớm để biết các thông báo tăng giá gần đây được hỗ trợ hay bị cản.
Chào giá CRC và HDG hiện cũng trên mức 800 USD/tấn.
Có nhiều nhân tố trên thị trường hiện tại có thể hỗ trợ giá thép cây gồm chi phí đầu vào, tồn kho và thời gian sản xuất.
Giá phế tháng 12 có thể tăng 20 USD/tấn, tháng tăng mạnh kỷ lục cho giá phế. Thêm vào đó, cơ sở DRI của Nucor ở Lousiana đã ngưng sản xuất có thể hỗ trợ giá phế chất lượng cao trong khi thời tiết mùa đông dự báo hỗ trợ giá phế cũ.
Cung cầu dường như đang cân bằng với nhu cầu tiêu thụ hiện tại suy yếu và triển vọng năm 2018 lạc quan. Áp lực hàng nhập khẩu giảm cũng hỗ trợ giá.
Giá giao ngay trong nước tăng hỗ trợ thị trường xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ
Giá thép cây nội địa Thổ Nhĩ Kỳ tăng lại, hỗ trợ cho thị trường xuất khẩu. Các nhà máy tăng nhẹ giá chào hoặc từ chối giảm giá xuống thấp hơn mức chào bán ban đầu.
Thị trường nội địa rất tốt, giá cả tăng nên các nhà máy không tập trung vào thị trường xuất khẩu. Một nhà máy đẩy giá chào lên 530 USD/tấn FOB Marmara, cao hơn nhiều so với mức dự báo của người mua. Thậm chí chào giá cao nhất là 525 USD/tấn FOB cũng bị từ chối. Giá chào bán hiện tại là từ 520 USD/tấn FOB trở lên nhưng thị trường kháng cự.
Một nhà máy cho biết giá phế HMS tăng đã giúp tâm lý thị trường khởi sắc. Sự vắng mặt của thép Trung Quốc trên thị trường quốc tế cũng hỗ trợ các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ mặc dù không có đơn hàng lớn nào từ Thổ Nhĩ Kỳ tới Châu Á dạo gần đây. Các khách hàng Châu Á muốn giá 500 USD/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ nhưng các nhà máy không chấp nhận.
Các nhà máy từ GCC và Châu Á cũng đang tăng cạnh tranh hơn so với Thổ Nhĩ Kỳ về giá. Không giống Thổ Nhĩ Kỳ, thị trường vịnh Gulf vẫn chưa tăng trưởng với giá tại UAE giảm còn 550 USD/tấn xuất xưởng từ mức 570 USD/tấn xuất xưởng tháng trước.
Các thương nhân giảm giá chào xuống thấp hơn phía nhà máy. Một thương nhân tự tin giá 510 USD/tấn FOB vẫn còn thậm chí cho các đơn hàng nhỏ. Các nhà máy phủ nhận mức này trong khi một thương nhân khác cho rằng giá 510 USD/tấn FOB chủ yếu đầu cơ hoặc là giá chào mua chứ không phải giá giao dịch. Mức tối thiểu ông nghe được là 510 USD/tấn FOB thực tế.
Trong ngày thứ sáu, Platts tăng giá thép cây thêm 2.5 USD/tấn lên 517.5 USD/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ.