Các xưởng nghiền phế ferrous Mỹ chuẩn bị cho một thị trường tháng 1 u ám bất thường
Các xưởng nghiền phế ferrous của Mỹ đã giảm giá mua nguyên liệu trong tuần này khi họ chuẩn bị xu hướng giảm phế liệu tháng 1 lần đầu tiên trong 13 năm.
Sự vắng mặt của Thổ Nhĩ Kỳ khỏi thị trường phế Bờ Đông Mỹ trong tháng này kết hợp với việc tình hình thời tiết không khắc nghiệt đáng kể trên khắp nước Mỹ đã chấm dứt dự đoán tăng giá theo mùa của các nhà cung cấp phế đã chứng kiến sự tăng giá trong tháng 1 trong 5 năm qua và 11 lần tăng trong 12 năm qua.
“Chúng tôi đã giảm giá 10-15 USD một tấn ròng [tại xưởng nghiền phế] mặc dù thực tế là chúng tôi không thể có đủ phế trong tháng này,” nhà cung cấp Trung Tây cho biết. “Bạn có tin rằng các nhà máy sẽ đi ngang trong tháng 1 không? Không."
Nhà cung cấp này nói rằng các nhà máy đã nói với ông rằng họ sẽ không hủy khối lượng phế chưa được giao trong tháng 12 vào tháng tới nhưng họ cũng muốn giảm giá tới 20 USD một tấn dài.
Thỏa thuận bulk Bờ Đông Mỹ trước đây đến Thổ Nhĩ Kỳ từ cuối tháng 11 đã được bán ở mức 329 USD/tấn CFR HMS 80:20. Tuần này Mỹ chào giá bán cho Thổ Nhĩ Kỳ trung bình khoảng 300 USD/tấn CFR, mức mà một nguồn tin Thổ Nhĩ Kỳ mô tả là nằm ngoài phạm vi giá của họ.
“Phế vụn vẫn còn do xuất khẩu yên ắng,” một nhà môi giới cho biết. “Câu hỏi đặt ra là, bao nhiêu trong số đó có thể được vận chuyển từ Bờ Đông trong vài tháng tới?”
Việc thiếu khả năng sẵn có của xe lửa đã khiến một số người đặt câu hỏi về vai trò của phế vụn ở Bờ Đông có thể có ở Trung Tây.
“Có vẻ như HMS xuất khẩu đang hướng tới 280 USD/tấn CFR trước khi mọi thứ được giao dịch,” một người mua nhà máy ở Trung Tây nói. “Tôi nghĩ rằng các đại lý sẽ giảm một lần nữa vào cuối tuần này hoặc tuần tới. Tôi chưa bị thuyết phục được là giá cả sẽ yêu hơn trong tháng 1, nhưng ngày càng có nhiều người nói như vậy.”
Nhiều nhà cung cấp đã cho biết họ sẽ chấp nhận giá đi ngang cho tháng 1.
“Bất cứ khi nào chúng tôi hy vọng cho một thị trường đi ngang, nó luôn luôn giảm,” một nhà cung cấp ở đông bắc Mỹ cho biết. Một nhà cung cấp khác trong khu vực tin rằng thị trường phế Mỹ có thể giảm 20-30 USD/lt nhưng tin rằng tháng 1 là quá sớm để điều chỉnh.
“Tôi nghĩ rằng sẽ có một số sự miễn cưỡng giảm giá trong tháng 1,” ông nói. Nếu các nhà máy không hủy đơn hàng tháng 12 vào tháng 1, sẽ rất khó để giảm giá. Có một lượng phế cần được mua trong tháng 1.”
Các nhà máy thép thường hủy phế không được giao trong ngày làm việc cuối cùng của một tháng khi họ tự tin rằng họ có thể mua nó thấp hơn trong tháng tới.
Một xưởng nghiền phế ở Trung Tây chưa điều chỉnh giá vật liệu đầu vào trong tháng này đã ghi nhận dòng chảy khá tốt và ông nghĩ rằng các nhà máy cuối cùng sẽ đi ngang mặc dù một nhóm nhà máy đã phát tín hiệu rằng tháng 1 giảm 20 USD/lt.
Giá HDG Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục suy yếu do tâm lý trì trệ
Do nhu cầu đối với các mạ kẽm nhúng nóng của Thổ Nhĩ Kỳ vẫn chậm chạp ở cả thị trường trong nước và xuất khẩu, trước thềm năm mới, áp lực lên giá cuộn mạ của các nhà máy vẫnđang diễn ra, trong bối cảnh giá cuộn cán nóng suy yếu.
Trong khi hầu hết các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đang cố gắng duy trì giá chào bán ổn định với kỳ vọng nhu cầu phục hồi sau năm mới, giảm giá là có sẵn cho các đặt mua lớn, các nguồn tin cho biết.
Một nguồn tin nhà sản xuất cuộn mạ lớn đã nói hôm thứ Tư rằng giá chào bán của họ cho HDG DX51D với lớp phủ kẽm 100 gram/mét vuông, 0,5 mm, ở mức 640-650 USD/tấn, tùy thuộc vào trọng tải, trong khi chào giá CRC cho cả thị trường trong nước và xuất khẩu ở mức 590 USD/tấn xuất xưởng. "Nhu cầu, tuy nhiên vẫn chậm chạp trước năm mới", nguồn tin lưu ý.
"Một số giá chào bán của một số nhà cung cấp Ấn Độ cho thị trường EU cũng làm tăng áp lực lên giá của chúng tôi, vì các chào giá của họ cho HDG thấp hơn khoảng 30 USD/tấn so với chào giá của chúng tôi", vị giám đốc điều hành ghi nhận rằng việc mở rộng điều tra tự vệ của Ủy ban châu Âu thêm 2 tháng thông báo hôm thứ Tư, có thể sẽ có ảnh hưởng hạn chế đến khối lượng xuất khẩu của họ, vì vẫn còn đủ thép dẹt sẵn có theo hạn ngạch. "Nhưng điều này có thể là một vấn đề cho các nhà sản xuất thép dài."
Các nhà máy cuộn mạ Thổ Nhĩ Kỳ đã cố gắng duy trì giá chào bán ổn định kể từ tuần trước trong một tâm lý thị trường giảm giá. Họ chào giá HDG DX51D với lớp phủ kẽm 100 gram/mét vuông, 0,5 mm, trong phạm vi 640-670 USD/tấn xuất xưởng vào thứ Ba, nhưng cũng có sẵn giảm giá cho các đặt mua lớn.
Chào giá cuộn cán nóng trong nước của nhà sản xuất Thổ Nhĩ Kỳ, trong khi đó đã giảm xuống mức thấp nhất là 500-510 USD/tấn, tùy thuộc vào trọng tải và xuất xứ, trong khi mức dưới 500 USD/tấn cũng có thể có sẵn cho các đặt mua xuất khẩu trọng tải lớn, các nguồn tin cho biết.
Giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ giảm do giao dịch trì trệ
Platts định giá thép cây xuất khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 459 USD/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ vào thứ Tư, giảm 1 USD/tấn so với ngày hôm trước.
Những người tham gia trong ngành cho thấy mức 460 USD/tấn FOB là giá trị có thể đạt được nhất trong khi một số người đề cập đến một mức sát dưới mức này hoặc thậm chí chạm mức 455-460 USD/tấn FOB do thiếu giao dịch kéo dài, theo một nguồn tin giao dịch . Không có giá hỏi mua, giá chào bán hoặc giao dịch mới nào được báo cáo trên thị trường trong bối cảnh thiếu nhu cầu.
Tâm lý tại thị trường Thổ Nhĩ Kỳ đã giảm và bị áp lực thêm bởi sự không chắc chắn mới được thêm vào bởi quyết định của Ủy ban châu Âu về việc gia hạn các quy định tự vệ cho đến ngày 1 tháng 2 năm 2019, khiến các thị trường sản phẩm dài như thị trường Thổ Nhĩ Kỳ không thể ước tính khối lượng cốt thép sẽ được phép ở EU cho năm 2019 là bao nhiêu.
“Tôi nghĩ rằng động thái khôn ngoan nhất đối với các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ là đóng cửa, thực hiện công việc bảo trì hoặc giảm sản xuất cho đến khi mọi thứ ổn định trở lại - vì hiện tại chúng tôi không thể dự đoán được tương lai,” một nguồn tin có trụ sở tại Thổ Nhĩ Kỳ cho biết.
Nhu cầu về thép cây được coi là không có, đặc biệt là từ các quốc gia đã sẵn sàng cho thời kỳ lễ hội, và đã đóng đặt hàng trong năm nay.
Sự không chắc chắn kéo giá nhập khẩu phế Thổ Nhĩ Kỳ đi xuống
Giá nhập khẩu phế HMS của Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục giảm trong bối cảnh thị trường không chắc chắn.
Platts định giá nhập khẩu HMS 1/2 (80:20) của Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 292 USD/tấn CFR, giảm 0,5 USD/tấn trong ngày. Một nguồn tin giao dịch chỉ ra các giá chào HMS 1/2 (80:20) có nguồn gốc Baltic được nghe vào thứ Tư ở mức 295 USD/tấn CFR, trong khi một nguồn tin khác báo cáo các giá chào cho HMS 1/2 (80:20) có nguồn gốc từ Mỹ ở mức 300 USD/tấn CFR.
Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ hỏi mua HMS 1/2 (80:20) là khoảng 275-280 USD/tấn CFR. Không có giao dịch đã được báo cáo trên thị trường.
“Các nhà máy của Thổ Nhĩ Kỳ hiện đang gặp rất nhiều vấn đề trong việc kinh doanh các sản phẩm của chính họ, vì vậy tôi nghi ngờ việc họ sẽ cần một lượng lớn phế nhập khẩu để vận hành các nhà máy có khả năng đóng cửa hoặc cắt giảm sản lượng,” một thương nhân nói.
Một nguồn tin công nghiệp tại Thổ Nhĩ Kỳ cũng báo cáo rằng có một khoảng cách đáng kể giữa giá mua của nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ và giá chào bán từ các nhà cung cấp phế của Mỹ, châu Âu và Baltic, được coi là không thể thực hiện được và không dành cho thị trường Thổ Nhĩ Kỳ.
Do đó, cuối năm nay không có triển vọng cho thị trường phế nhập khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ, cũng chứng kiến Ủy ban châu Âu mở rộng điều tra tự vệ đến ngày 1 tháng 2 năm 2019 đối với các sản phẩm thép dài nhập khẩu, ảnh hưởng trực tiếp đến xuất khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ.
“Tất cả sự không chắc chắn này đã hạn chế ảnh hưởng đến các giao dịch và mọi người sẽ không mua phế trừ khi họ biết họ sẽ bán được thép thành phẩm - đó là một chiến lược chờ đợi vào thời điểm này,” một nguồn tin cho biết.
Nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục giảm mua phế trong nước
Một số nhà sản xuất thép lớn của Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục giảm giá mua phế trong nước vào thứ Tư, trong bối cảnh tình hình giá thành sản phẩm giảm liên tục và giá phế nhập khẩu giảm.
Một trong những nhà sản xuất thép EAF lớn nhất của Thổ Nhĩ Kỳ, Colakoglu bắt đầu mua phế nội địa DKP với giá 1.660 lira/tấn (310 USD/tấn) và phế extra tại 1.520 lira/tấn (285 USD/tấn) vào thứ Tư, đều giảm 50 lira/tấn trong tuần.
Giá mua DKP của nhà sản xuất thép hợp kim lớn nhất của Thổ Nhĩ Kỳ, Asil Celik đã giảm xuống còn 1.660 lira/tấn (310 USD/tấn) vào thứ Tư, trong khi giá mua phế extra nội địa của công ty giảm xuống còn 1.540 lira/tấn (288 USD/tấn).
Nhà sản xuất thép dài tích hợp lớn của Thổ Nhĩ Kỳ Kardemir đã giảm giá mua phế DKP thêm 130 lira/tấn xuống còn1.680 lira/tấn (314 USD/tấn) vào ngày 19 tháng 12.
Sau khi giảm 30 USD/tấn vào tuần trước, giá phế shipbreaking Thổ Nhĩ Kỳ cũng tiếp tục giảm vào ngày giao dịch đầu tiên của tuần này. Phế shipbreaking chào giá đến hầu hết các nhà máy ở miền tây Thổ Nhĩ Kỳ (Habas, IDC, Ege Celik, Ozkan) với giá 285 USD/tấn vào thứ Tư, thấp hơn 5 USD/tấn trong tuần.
Một số nhà máy ở khu vực Aegean, miền tây Thổ Nhĩ Kỳ, cũng đã giảm giá mua phế trong nước đối với phế DKP xuống mức thấp 1.490 lira (277 USD/tấn) trong tuần này.
Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đã tiêu thụ khoảng 30 triệu tấn phế mỗi năm và đang thu mua khoảng một phần ba trong số đó từ thị trường nội địa.Thép cây châu Á đi ngang trong bối cảnh giá Trung Quốc ổn định
Giá thép cây châu Á ổn định hôm thứ Tư, do người bán duy trì chào giá trong bối cảnh xu hướng thị trường không rõ ràng, trong khi người mua vẫn chờ đợi bên ngoài thị trường.
S & P Global Platts định giá thép cây BS500 đường kính 16-20 mm ở mức 462 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế hôm thứ Tư, không thay đổi so với thứ Ba.
Tại thị trường bán lẻ Bắc Kinh, giá thép cây HRB400 đường kính 18-25 mm được định giá ở mức 3.715 NDT/tấn (538 USD/tấn) xuất xưởng trọng lượng thực tế hôm thứ Tư, bao gồm thuế giá trị gia tăng 16%, tăng 5 NDT/tấn so với ngày trước đó.
Hợp đồng thép cây giao tháng 5 trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải đóng cửa ở mức 3.425 NDT/tấn (497 USD/tấn), giảm 10 NDT/tấn.
Tại Hồng Kông, chào giá bán của các nhà máy lớn Trung Quốc cho thép cây 10-40 mm duy trì ở mức 475 USD/tấn CFR. Mức giá này tương đương với 462 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế, phí vận chuyển hàng hóa là 13 USD/tấn.
Người mua sẽ cân nhắc mua ở mức giá này, một thương nhân miền đông Trung Quốc cho biết. Người mua đã có một số ý định mua, nhưng đã không làm như vậy, rất có thể là do vẫn hy vọng rằng giá sẽ giảm thêm nữa trong tương lai.
Một nguồn tin nhà máy ở đông Trung Quốc cho biết ông sẽ không xem xét bán ở mức giá 475 USD/tấn CFR Hồng Kông trọng lượng thực tế, nói thêm rằng chào giá của họ là 515 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng lý thuyết. "Giá thấp nhất mà chúng tôi có thể bán là 480 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng lý thuyết," một nguồn tin của nhà máy ở miền bắc Trung Quốc cho biết, nói thêm rằng chào giá của ông khó mà đạt được khi ông nghe tin một nhà máy ở đông bắc có thể bán với giá 450 USD/tấn FOB (464 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế) cho thép cây đường kính 10-32 mm.
Các nhà tích trữ ở Hồng Kông đã chờ đợi bên ngoài thị trường, với giá mua không đổi ở mức 460- 470 USD/tấn CFR Hồng Kông. Có lẽ sẽ không có giao dịch nào trước kỳ nghỉ lễ do tồn kho còn nhiều, một nhà tích trữ cho biết.
Tại Singapore, thị trường yên ắng với hoạt động giao dịch thưa thớt. Các chào giá không thay đổi ở mức 480- 485 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết cho thép cây 10-40 mm, một thương nhân cho biết. Chào giá này tương đương với 474- 479 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế, phí vận chuyển hàng hóa là 20 USD/tấn và dung sai trọng lượng 3%.
Giá thép cuộn CIS cảm thấy áp lực hơn nữa do giá mua từ Thổ Nhĩ kỳ giảm
Các nhà xuất khẩu thép cuộn CIS trong thị trường giao ngay Biển Đen đang tìm cách duy trì giá hoặc giảm thiểu sự nhượng bộ giá cho người mua trong thị trường giảm giá mạnh trong tuần này, đặc biệt là ở Thổ Nhĩ Kỳ, các nguồn tin cho biết.
Giá thầu từ người mua đã giảm mạnh trong vài ngày qua, cho đến nay không được xác nhận bởi các đặt mua mới. Ví dụ, một thương nhân ở Thổ Nhĩ Kỳ đã trích dẫn giá thầu cho vật liệu Ukraina ở mức 450 USD/tấn CFR, tương đương với mức giá 430-435 USD/tấn FOB Biển Đen/Biển Azov.
Trong khi đó, giá mục tiêu từ một nhà sản xuất ở Ukraine được đặt ở mức 470-475 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ, tương đương 450-455 USD/tấn FOB và có thể thương lượng, một người tham gia thị trường ở bên mua cho hay. Do đó, điểm giữa giữa già chào bán và giá mua cho vật liệu Ukraina là ở mức 460 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ, tương đương 440-445 USD/tấn FOB.
Cuộn dây nhỏ từ Nga đã có sẵn ở mức 460 USD/tấn CIF Thổ Nhĩ Kỳ, hai nguồn tin thị trường cho biết.
Các đặt mua mới nhất của các cuộn lớn có nguồn gốc từ Nga gần với 470-475 USD/tấn FOB Biển Đen, hoặc 490-495 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ. Hai người mua Thổ Nhĩ Kỳ cho biết 490 USD/tấn CIF đại diện cho các giao dịch cũ. “Nó phải là 475-480 USD/tấn CFR (455-465 USD/tấn FOB Biển Đen), một trong số họ nói.
Trong khi đó, một nhà sản xuất Nga cho biết doanh số bán hàng cuối cùng đã đạt mức 475 USD/tấn FOB và công ty này không có mặt trên thị trường trong tuần này.
Vào thứ Tư, định giá hàng ngày về HRC và CRC của Platts đã giảm 5 USD/tấn xuống còn 460 USD/tấn và 535 USD/tấn, FOB Biển Đen, tương ứng.
Giá thép tấm châu Á ổn định do chào giá bán và mua không thay đổi
Giá thép tấm châu Á đã ổn định trong tuần này, vì cả người mua và người bán đều giữ chào giá bán và chào mua không thay đổi.
S & P Global Platts định giá thép tấm Q235/SS400 dày 12-25 mm, hoặc tương đương, ở mức 513 USD/tấn CFR Đông Á vào thứ Tư, bằng với tuần trước.
Các nhà máy lớn của Trung Quốc đã giữ giá chào bán không đổi ở mức 505- 515 USD/tấn FOB Trung Quốc cho tấm SS400 dày 12-25mm, cho lô hàng tháng hai, các nhà máy và thương nhân cho biết.
Một nhà máy lớn của Trung Quốc được nghe nói đã bán tấm SS400 và A36 với giá khoảng 500 USD/tấn FOB Trung Quốc cho Việt Nam trong tuần này. Không có chênh lệch giữa giá tấm SS400 và tấm A36 đối với nhà máy này, các nguồn tin thị trường cho biết. Tuy nhiên, một số nhà máy Trung Quốc khác mong muốn chênh lệch ít nhất 3- 5 USD/tấn trở lên, họ nói thêm.
"Người mua Hàn Quốc vẫn thờ ơ trước các chào giá của Trung Quốc, vì hầu hết trong số họ đã có đủ hàng trong tay được mua trước đó", một nguồn tin của nhà máy Trung Quốc cho biết, nói thêm rằng nhu cầu từ Nam Mỹ tương đối tốt hơn và người mua ở đó có thể chấp nhận mức giá 505 USD/tấn FOB Trung Quốc cho tấm SS400.
Mặc dù nhu cầu từ Việt Nam ổn định, nhưng giá chào mua vẫn khá thấp, nguồn tin của nhà máy Trung Quốc cho biết. Có rất ít người mua Việt Nam mới có thể chấp nhận mức 515 USD/tấn CFR Việt Nam cho tấm A36, thấp hơn so với giá bán lý tưởng khoảng 520 USD/tấn CFR Việt Nam của một số thương nhân, các thương nhân cả ở Trung Quốc và Việt Nam cho biết.
Thép tấm A36 thường cao hơn 5 USD/tấn so với tấm SS400.
Giá CRC nhập khẩu Mỹ giảm do chào giá Việt Nam thấp hơn
Giá CRC của Mỹ đã giảm mạnh vào thứ Tư sau các chào giá thấp hơn của Việt Nam đến thị trường. Mặc dù quan tâm với giá chào thấp hơn là trái chiều.
Định giá nhập khẩu CRC hàng ngày của Platts đã giảm 75 USD/st xuống còn 775 USD/st DDP Houston trong khi định giá nhập khẩu HRC hàng ngày của Platts duy trì ở mức 670 USD/st DDP Houston. Các chào giá đã giảm mạnh cho hàng cập cảng dự kiến vào cuối tháng 3 và tháng 4 sau khi duy trì quanh mức gần 840-860 USD/st DDP tháng trước.
Hai nguồn tin trung tâm dịch vụ đã nhận được già chào bán CRC từ Việt Nam ở mức 772 USD/st và 775 USD/st DDP, trong khi một trung tâm dịch vụ thứ ba chỉ ra giá chào bán ở mức 795 USD/st cho hàng cập cảng cuối tháng 3. Nguyên liệu từ Việt Nam là đối thủ cạnh tranh nhất ở thị trường Mỹ với Thổ Nhĩ Kỳ đang phải vật lộn để xuất khẩu nguyên liệu sau khi thuế quan của Mỹ tăng gấp đôi lên 50% vào tháng 8 bởi Tổng thống Donald Trump.
Giấy phép nhập khẩu tháng 11 và tháng 12 cho CRC từ Việt Nam đã vượt 20.000 tấn với tháng 12 đã cho thấy giấy phép của 26.685 tấn cho dữ liệu tính đến ngày 18 tháng 12, gần mức cao trong năm là 28.962 tấn vào tháng 5.
Tuy nhiên, việc mua nguyên liệu đến vào tháng 3 hoặc tháng 4 có thể bị hạn chế. “Tôi nghĩ rằng người mua không quá ấn tượng với vật liệu được chào giá trong phạm vi 760-780 USD/st cập cảng tháng 3 hoặc tháng 4.
“Giá trong nước có thể đạt đến các mức đó và không có quan ngại thuế quan hoặc bán phá giá trong tương lai,” một người giao dịch cho biết. Thu mua trong nước có thể là một “thỏa thuận tốt hơn mà không cần phải đầu cơ vào hàng tồn kho,”ông nói thêm.
“Ngược lại, giá nhập khẩu gần như ở điểm không thể rẻ hơn, trong khi hàng trong nước vẫn có thể. Vì vậy, các nhà giao dịch không thể bán được nhiều tấn và giá mua mà họ đang nhận được quá thấp để một số người tham gia chấp nhận,” nhà giao dịch cho biết.
Việc giảm giá nhập khẩu khiến mức chênh lệch với giá giao ngay trong nước hiện tại ở mức 85 USD/st với định giá Platts cho CRC hàng ngày ở mức 860 USD/st vào thứ Tư. Chênh lệch giữa HRC trong nước và nhập khẩu hẹp hơn ở mức 70,75 USD/st với định giá HRC hàng ngày của Platts ở mức 740,75 USD/st.
Chào giá nhập khẩu cho HRC cao tới 720 USD/st cho các đợt giao hàng tháng 1 từ Mexico nhưng nguyên liệu có thời gian giao hàng dài hơn từ Ai Cập và Hàn Quốc thấp hơn đáng kể. Tuần trước, một nguồn tin trung tâm dịch vụ đã đặt 600 tấn ngắn HRC từ Hàn Quốc ở mức 685 USD/tấn DDP, loaded truck Houston, tương đương 675 USD/st DDP, bốc dỡ trực tiếp tại cảng.
Các chào giá cho HRC từ Ai Cập đã còn 670 USD/st DDP Houston trong tuần này cho hàng đến vào tháng 3, theo nguồn tin của trung tâm dịch vụ.
Giá HRC châu Á nằm trong một phạm vi giao dịch, thị trường chờ sự cải thiện
Giá giao ngay cho cuộn cán nóng châu Á chủ yếu dao động trong một phạm vi nhất định vào thứ Tư, khi những người trên thị trường đang chờ hoạt động giao dịch cải thiện vào cuối tuần này.
S & P Global Platts định giá HRC SS400 dày 3 mm không thay đổi so với thứ Ba ở mức 480 USD/tấn FOB Trung Quốc vào thứ Tư. Tính theo giá CFR Đông Nam Á, thép cuộn cùng loại được định giá tăng 2 đô la/tấn lên 487 đô la/tấn.
"Hiện tại chúng tôi chưa có phân bổ thép cho Việt Nam. Mức chênh lệch giữa chào giá mua –bán là quá rộng để thực hiện được giao dịch ở đó", một nguồn tin nhà máy Trung Quốc cho biết thêm rằng lượng HRC phân bổ của nhà máy cho Việt Nam đã được chuyển hướng sang các thị trường khác.
Người mua Hàn Quốc đã có thể chấp nhận thép cuộn thương phẩm ở mức giá 480 USD/tấn FOB Trung Quốc, các nguồn tin thị trường cho biết. Đối với số lượng nhỏ hơn khoảng 1.000-2.000 tấn, mức giá giao dịch đã được nghe thấy ở khoảng 485 USD/tấn FOB Trung Quốc cho lô hàng tháng hai. Do đó, một số nhà máy Trung Quốc đã chuyển sự tập trung của họ sang Hàn Quốc thay vì Việt Nam trong tuần này, những người trên thị trường cho biết.
Tại Việt Nam, sự quan tâm mua đối với các lô hàng từ các nguồn gốc khác đã tăng nhẹ vào chiều thứ Tư. Một thỏa thuận cho 1.000-2.000 tấn HRC SS400 của Trung Quốc đã được thực hiện với giá 490- 495 USD/tấn CFR Việt Nam.
"Tôi cảm thấy rằng sẽ có nhiều thỏa thuận hơn sẽ được ký kết vào cuối tuần này", một nguồn tin nhà máy Trung Quốc khác cho biết.
Trong khi đó, giá chào mua HRC SAE1006 vẫn ở mức thấp 465- 475 USD/tấn CFR Việt Nam, trong khi chào giá bán được nghe ở mức 485- 500 USD/tấn CFR Việt Nam cho thép của Trung Quốc và Nga.
Tại Thượng Hải, giá giao ngay của HRC Q235 5,5 mm được định ở mức 3.810-3.820 NDT/tấn (553- 554 USD/tấn), xuất xưởng bao gồm thuế giá trị gia tăng vào thứ Tư, với mức trung bình là 3.815 NDT/tấn, tăng 15 NDT/tấn ngày trong ngày.
Trên sàn giao dịch tương lai Thượng Hải, hợp đồng giao tháng 5 đóng cửa tại 3.448 NDT/tấn vào thứ Tư, cũng tăng 15 NDT/tấn.
Giá HRC Ấn Độ đi xuống khi nhu cầu chậm lại
Giá cuộn cán nóng Ấn Độ vẫn chịu áp lực do nhu cầu nội địa suy yếu, trong khi thị trường xuất khẩu ảm đạm nên không hấp dẫn đối với các nhà sản xuất thép Ấn Độ.
S & P Global Platts định giá HRC IS2062 dày 2,5-10 mm được giao tới Mumbai ở mức 42.500 Rupee/tấn (604,63 USD/tấn), giảm 500 Rupee/tấn so với tuần trước. Định giá này không bao gồm thuế hàng hóa và dịch vụ GST 18%.
Việc giảm giá của các nhà sản xuất thép vào đầu tháng đã không giúp làm tăng nhu cầu nhiều, khi nhu cầu từ phân khúc thiết bị tiêu dùng và ô tô đang suy yếu, ngay cả khi hai lĩnh vực này theo truyền thống đã phục hồi trong quý IV và quanh thời gian diễn ra lễ hội Diwali.
“Mức tồn kho rất cao tại các đại lý cũng như những người bán sỉ, "một nhà máy ở Karnataka nói.
Tuy nhiên, các nhà sản xuất HRC Ấn Độ vẫn tiếp tục duy trì giá chào bán trong nước trên 43.000-44.000 Rupee/tấn trong suốt cả tuần qua. Hoạt động giao dịch vẫn ở mức rất thấp, vì hầu hết kỳ vọng giá của người mua đã giảm xuống mức thấp 42.000 Rupee/tấn ở khu vực phía tây, trong bối cảnh các vấn đề thanh khoản kéo dài trên thị trường và thậm chí giá quốc tế cũng thấp hơn, có nghĩa là xuất khẩu cũng không khả thi. Việc giảm giá căn cứ theo từng trường hợp tiếp tục được áp dụng trên thị trường HRC.
"Như một chiến lược, chúng tôi muốn thưởng cho những khách hàng đang đặt hàng trước. Thông điệp mà chúng tôi muốn đưa ra là nếu như bạn đặt hàng thì có thể có những lợi ích tích lũy cho bạn", một nguồn tin nhà máy cho biết.
Kỳ vọng của thị trường là các nhà sản xuất trong nước sẽ phải hạ giá niêm yết cho HRC xuống thấp hơn nữa cho tháng 1 cũng góp phần làm hạn chế nhu cầu.
"Tôi hiện không mua và chỉ thanh lý hàng tồn của mình. Giá phải giảm hơn nữa vào tháng 1", một người mua nói.
CRC Trung Quốc giảm do sức mua yếu
Giá xuất khẩu cuộn cán nguội của Trung Quốc giảm trong tuần này do sức mua hạn chế và mức giá ký hợp đồng thấp hơn.
S & P Global Platts định giá CRC SPCC dày 1 mm ở mức 520 đô la/tấn FOB Trung Quốc hôm thứ Ba, giảm 5 đô la/tấn so với tuần trước. Chênh lệch giữa CRC và giá xuất khẩu cuộn cán nóng loại thương phẩm đã thu hẹp 10 USD/tấn xuống còn 40 USD/tấn so với tuần trước.
Một nhà máy lớn ở đông bắc Trung Quốc đã giữ chào giá cho cuộn và tấm thương phẩm không thay đổi ở mức lần lượt 545 USD/tấn và 555 USD/tấn FOB Trung Quốc. Nhưng nếu người mua có thể đưa ra giá chào giá chắc chắn, các nhà máy có thể sẵn sàng giao dịch ở mức giá thấp hơn nhiều so với mức mà họ đã báo, những người trên thị trường cho biết.
Chào giá bán từ các nhà máy khác của Trung Quốc là 530- 535 USD/tấn FOB Trung Quốc cho lô hàng tháng hai. Các giao dịch đã được thực hiện vào tuần trước và đầu tuần này với giá 518-520 USD/tấn FOB Trung Quốc cho lô hàng tháng hai.
Vì đây là mùa Giáng sinh nên hầu hết người mua, đặc biệt là những người ở Nam Mỹ, đã ở bên ngoài thị trường. "Nhu cầu về CRC rất yếu, vì vậy rất nhiều thương nhân Trung Quốc đang trong tâm trạng nghỉ lễ vào những ngày này. Tôi tự hỏi những người mua đang ở đâu", một thương nhân ở Thượng Hải nói.
Tại thị trường đại lý Thượng Hải, Platts định giá CRC cùng loại ở mức 4.250 NDT/tấn (616 USD/tấn), xuất xưởng bao gồm VAT, tăng 65 NDT/tấn so với tuần trước.
Cuộn trơn châu Á nhích lên do chào giá từ nhà máy cao hơn
Giá cuộn trơn châu Á đã phục hồi một cách khiêm tốn trong tuần này, sau một số điều chỉnh giảm mạnh được nhìn thấy trong tuần trước.
Hoạt động thị trường đang ít dần đi trong khu vực khi lễ Giáng sinh và năm mới đang đến gần. S & P Global Platts định giá thép dây dạng lưới SAE1008 đường kính 6,5 mm ở mức 484 USD/tấn FOB Trung Quốc hôm thứ Tư, tăng 3 USD/tấn so với tuần trước.
Tại Thượng Hải, cuộn trơn Q195 6,5 mm giao ngay được định giá ở mức 3.855 NDT/tấn (559 USD/tấn), xuất xưởng bao gồm 16% thuế giá trị gia tăng, giảm 45 NDT/tấn so với tuần trước. Thị trường giao ngay đã biến động nhiều hơn trong thời gian gần đây, so với xu hướng rõ ràng được nhìn thấy cách đây hai tuần, các thương nhân cho biết. Thật khó để nói xu hướng giá trong ngắn hạn.
Hôm thứ Tư, hợp đồng thép cây giao tháng 5 trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải đã đóng cửa ở mức 3.425 nhân dân tệ/tấn, giảm 10 nhân dân tệ/tấn tức 0,3%.
Mặc dù nhu cầu rất yếu trong thời gian mùa đông nhưng thị trường giao ngay được hỗ trợ bởi lượng tồn kho tương đối thấp và các chào giá kiên định từ các nhà máy, họ nói.
Một nhà máy xuất khẩu lớn ở đông bắc Trung Quốc đã chào bán 490 USD/tấn FOB cho lô hàng tháng ba, sau khi họ hạ giá chào xuống 5 USD/tấn còn 485 USD/tấn FOB vào cuối tuần trước cho lô hàng tháng hai, theo các nguồn tin giao dịch và nhà máy. Nhà máy này bây giờ chưa vội vàng cho các lô hàng hóa vận chuyển tháng ba, một thương nhân miền đông Trung Quốc cho biết.
Một nhà máy thứ hai ở đông bắc đã chào bán 495 USD/tấn FOB cho lô hàng tháng hai, một nguồn tin nhà máy cho biết, và nhà máy đã không đưa ra chào giá vào tuần trước. Một nhà máy ở miền đông Trung Quốc đã chào giá 515 đô la/tấn FOB cho lô hàng tháng 2, sau khi họ ký kết giao dịch với giá 490 USD/tấn FOB trong những tuần qua cho lô hàng tháng 1, các nguồn tin cho biết.
Các thương nhân thấy chào giá của người mua tăng lên một chút tính đến thứ Tư, mặc dù một số đã thụt lùi vào cuối tuần trước. Họ cho biết 500- 505 USD/tấn CFR Manila (478- 483 USD/tấn FOB) là mức giá mà người mua muốn chấp nhận.
Một thương nhân miền Đông Trung Quốc thứ hai cho biết: "50 USD/tấn CFR hiện nay là có thể giao dịch được, vì một số người mua muốn đặt hàng trước ở mức này." Tuy nhiên, ông nói rằng ông muốn thận trọng hơn do sự không chắc chắn.
Trong khi đó, một số người mua địa phương cho biết chào giá mua ở mức 490 USD/tấn CFR Hồ Chí Minh, tương đương với khoảng 475 USD/tấn FOB Trung Quốc. Không có giao dịch nào được nghe nói thực hiện với mức giá này trong ngày.
Hebei's Jiujiang Wire, một nhà sản xuất được theo dõi chặt chẽ để biết xu hướng giá cuộn trơn, vẫn chưa công bố giá niêm yết trong nước hàng tuần trong tuần này. Giá thường được công bố vào mỗi thứ Ba.