Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 20/2/2014

Benxi I&S giữ giá hầu hết các loại thép không đổi trong tháng 03

Benxi Iron & Steel (Bengang) đã thông báo hôm 19/02 rằng sẽ giữ giá xuất xưởng của HRC, CRC, cuộn cán nóng thép ngâm và cuộn mạ màu cho những hợp đồng trong tháng 03. Ngoại trừ sẽ nâng giá HDG và thép silic lên thêm lần lượt 70 NDT/tấn (12 USD/tấn) và 30 NDT/tấn.

Theo đó, giá xuất xưởng HRC Q235 5.5mm của nhà máy trong tháng 03 sẽ vẫn duy trì tại 3.670 NDT/tấn (604 USD/tấn) chưa có VAT 17%, còn CRC SPCC 1.0mm tiếp tục chốt ở 4.080 NDT/tấn chưa có VAT.

Các thương nhân buôn HRC ở Thượng Hải và Lecong (Quảng Đông) cho biết giá HRC của Bengang không đổi là một bằng chứng rõ ràng hơn nữa cho thấy sự ảm đạm hiện nay trên thị trường có lẽ sẽ còn kéo dài cho đến tháng 03 và thậm chí là lâu hơn nữa.

Hôm thứ Tư, HRC Q235 5.5mm tại Thượng Hải và Lecong có giá lần lượt 3.420-3.450 NDT/tấn và 3.510-3.530 NDT/tấn đã có VAT, cả hai đều không đổi so với ngày trước đó. Nhưng nhiều thương nhân cho biết khối lượng giao dịch rất ít nên dự đoán mức giá trên sẽ được duy trì trong thời gian tới.

Tuy nhiên, Bengang vẫn đang giữ chào giá xuất khẩu HRC quanh mức 535 USD/tấn FOB. Một nhà xuất khẩu cho hay mức giá này không hấp dẫn người mua nước ngoài nhưng cho đến nay, Bengang không có ý định giảm bớt xuống. Nguyên nhân là do nhà máy đã có đủ hạn ngạch xuất khẩu trong tháng 03 vì họ nhận được nhiều đơn đặt hàng từ tháng 12 đến tháng 01.

HRC Saudi suy yếu mặc dù cầu mạnh

Một số nhà máy cung cấp HRC tới Ả Rập Saudi đã giảm giá bán vì nhu cầu sau Tết tại Trung Quốc không đủ mạnh để các nhà máy ở đó nâng giá bán lên. Tuy nhiên, với nguồn cung thiếu và giá có thể sẽ tăng do nhu cầu tại Saudi từ đầu năm đến nay vẫn còn cao.

Mặc dù hoạt động thu mua từ các nhà tiêu dùng trực tiếp được biết là đang cải thiện sau khi bị gián đoạn trong quý IV năm ngoái vì thiếu nhân công trong ngành xây dựng, giá cơ bản hiện nay phụ thuộc nhiều vào mức giá ở Trung Quốc, trong khi khách hàng tại nước này cũng đang phản đối chuyện tăng giá.

SABIC đã hạ giá xuống còn 610 USD/tấn giao tới Riyadh. Nếu tính thêm 5% thuế nhập khẩu và 2% phí bốc dỡ thì chào giá nhập khẩu sẽ phải nằm trong khoảng 560-570 USD/tấn CFR để có thể cạnh tranh. Tuy nhiên, các chào giá giao tháng 04 từ Ấn Độ và Trung Quốc được biết hiện nay là 570-600 USD/tấn CFR Dammam, còn các nhà máy Nhật Bản và Hàn Quốc vẫn còn đứng ngoài thị trường. Một nhà máy Ukraina trong tuần này đã yết giá sản phẩm với một nhà tích trữ tại 530 USD/tấn FOB.

HRC tồn kho loại dưới 2mm hiện nay còn ít, và SABIC chủ yếu đang phân phối loại thép này cho các nhà sản xuất thép ống hơn là tới các nhà tích trữ. “Nếu chúng tôi tiếp tục thấy thiếu hàng thì chúng tôi sẽ phải trả một khoản phí cao hơn cho những mặt hàng này”, ông nhận xét. Các nhà máy Đài Loan hiện đang yết giá HRC 1.2mm tại 660 USD/tấn CFR, trong khi loại thép này của Ai Cập được chào bán 695 USD/tấn CFR tới các thương nhân. Thế nhưng một nhà sản xuất thép ống nghe nói giao dịch từ Nhật Bản được ký kết với giá chỉ có 645 USD/tấn CFR tới Dammam trong 10 ngày trước.

Việc giao hàng chuyển sang sớm hơn trong tháng 05 nên các khách hàng không còn nhiều thời gian để thu mua trước khi lễ chay Ramadan bắt đầu vào cuối tháng 06, nghĩa là hoạt động thu mua sẽ rất náo nhiệt. Tuy nhiên, tâm lý bi quan trên thị trường thế giới có thể cản trở giá tăng. “Hiện nay, có một cảm nhận chung là giá sẽ có một sự điều chỉnh xuống nhẹ 5-10 USD/tấn”, một nhà tích trữ kết luận. 

 

Giá FeCr Trung Quốc ổn định trong bối cảnh đang đợi giá mua của các nhà máy

Hôm thứ Tư, giá giao ngay trong nước của ferrochrome hàm lượng cacbon cao (50% Cr) tại Trung Quốc không đổi so với tuần trước và duy trì tại 6.750-6.900 NDT/tấn (84-86 cents/pound) do thị trường đang chờ giá mua ferrochrome tháng 03 của các nhà sản xuất thép không gỉ trong nước. Chào giá từ các nhà sản xuất ferrochrome hiện nay không thay đổi nhiều so với trước Tết, trong khi giao dịch chậm lại do một số nhà máy chỉ mới mở cửa trở lại trong tuần này.

Các tranh cãi xung quanh việc các nhà sản xuất thép không gỉ sẽ đưa ra giá mua như thế nào. Một nhà phân tích thị trường ở Bắc Kinh đã nhìn thấy được yếu tố hỗ trợ cho giá ferrochrome tháng 03. “Giá thép không gỉ hiện nay bình ổn và khó mà giảm sau khi có lệnh cấm xuất khẩu quặng niken của Indonesia. Giá thép không gỉ thậm chí sẽ tăng và điều này là tín hiệu tích cực cho giá ferrochrome”, bà nói.

Tuy nhiên, một thương nhân ở Thượng Hải thì có ý kiến ngược lại, cho rằng giá ferrochrome tháng 03 sẽ bị áp lực nhiều hơn vì cho đến nay nhu cầu dường như vẫn suy yếu sau khi các nhà máy mở cửa kinh doanh lại sau Tết. “Sức mua từ các nhà sản xuất thép không gỉ còn chậm. Tôi không thấy bất kỳ tín hiệu nào cho thấy giá giao ngay sẽ tăng trong thời gian tới”, bà nói.

Các nhà sản xuất thép không gỉ lớn trong nước thường đưa ra giá mua hàng tháng trong hai tuần cuối của tháng trước đó và giá giao ngay thường được lấy từ giá của các nhà sản xuất đặt mua.

Trong tháng 01, Shanxi Taigang Stainless Steel, Jiuquan Iron & Steel và Baosteel đã đưa ra giá mua ferrochrome tháng 02 tại các mức giá lần lượt là 6.650 NDT/tấn, 6.750 NDT/tấn và 6.850 NDT/tấn, tất cả đều bằng với tháng 01.

 

Giá HRC Ấn Độ không đổi do nhu cầu “im hơi lặng tiếng”

 

Giá HRC tại Ấn Độ vẫn không đổi do nhiều nhà tiêu dùng không có nhu cầu. Nhiều khách hàng tiếp tục phản đối việc tăng giá 1.000 Rupee/tấn (16 USD/tấn) mà các nhà sản xuất thép đã công bố hôm 01/02.

Giá giao dịch trong nước của HRC loại IS 2062 A/B dày từ 3mm trở lên, từ ngày thứ Tư là 38.000-39.000 Rupee/tấn (611-627 USD/tấn) xuất xưởng, không đổi so với tuần trước và tăng 1,3% tức 1.000 Rupee/tấn theo giá cơ bản so với tháng trước. Mức giá này tương đương với giá nhập khẩu khoảng 568-581 USD/tấn CFR Mumbai trong đó có thuế nhập khẩu 7,5%.

Một thương nhân ở New Delhi cho biết hầu hết người mua hiện nay đều đang tìm mua thép Trung Quốc.

Các nguồn tin trong ngành chốt giá HRC tiêu chuẩn hàng hóa loại nhập từ Trung Quốc khoảng 565-575 USD/tấn CFR Mumbai. Họ cho biết thêm rằng giá sàn của Trung Quốc cũng có thể giảm do tình hình kinh tế tại Trung Quốc đang suy yếu. “Chúng tôi đã nghe một số khách hàng nói lại rằng các nhà máy Trung Quốc hiện đang giải phóng hàng tồn để giảm bớt những căng thẳng về tiền mặt. Kết quả là, giá các hợp đồng tháng 03 của thép nhập khẩu từ Trung Quốc có khả năng sẽ còn giảm thêm nữa”, một thương nhân ở Mumbai nói.

Tuy nhiên, nhân viên cấp cao của Essar cho hay mức giá phổ biến của Ấn Độ vẫn đang được một số người mua chấp nhận vì họ muốn rút ngắn thời gian giao hàng so với khi mua hàng nhập khẩu.

Một nguồn tin từ Bhushan Steel xác nhận rằng công ty ông đã giảm bớt kế hoạch tăng giá xuống một nửa chỉ còn 500 Rupee/tấn mà thôi. Bhushan Steel sẽ tiếp tục theo dõi tâm lý thị trường trước khi đưa ra quyết định liệu có quay trở lại mức giá hồi tháng 01 hay không.  

Thị trường HDG Trung Quốc vẫn còn im ắng; thiếu động lực tăng giá

Giá HDG Trung Quốc vẫn tiếp tục không đổi trong ngày thứ Tư, nhưng nhiều thương nhân vẫn đang gặp khó khăn do giao dịch chậm lại. Hàng tồn nhiều, thanh khoản hạn chế, nhu cầu trì trệ và nguồn cung dư thừa vẫn là những vấn đề mấu chốt chưa được giải quyết triệt để đang gây sức ép lên giá thép và cũng không có động lực để hỗ trợ cho giá HDG bật tăng trở lại.

Hôm thứ Tư, HDG DX51D dày 1.0mm phủ 80 gram kẽm trên một mét vuông được giao dịch phổ biến với giá 4.460-4.530 NDT/tấn (734-745 USD/tấn) xuất xưởng gồm VAT 17% tại Thượng Hải, bằng với giá niêm yết của ngày 12/02.

Một đại lý lớn ở Thượng Hải cho biết giao dịch ế ẩm đã buộc bà phải cắt giảm giá HDG xuống 20 NDT/tấn trong vài ngày qua để kích cầu, và mưa liên tục ở Thượng Hải cũng đã làm hạn chế việc kinh doanh cho đến tuần này. Bà tỏ ra bi quan về triển vọng thị trường, tất cả các yếu tố tiêu cực đều đổ dồn lên giá thép.

Hôm 14/02, HDG tồn kho tại các nhà kho lớn ở Thượng Hải còn tổng cộng 137.200 tấn, tăng 3.600 tấn so với tuần trước đó, theo thống kê từ nhà cung cấp thông tin ở Thượng Hải, MySteel.

Một đại lý khác ở Thượng Hải cho biết công ty đã chuyển sang tập trung vào kinh doanh loại thép cuộn mạ kẽm dập sâu thay vì các sản phẩm HDG bình thường của công ty, để phù hợp hơn với tình hình sức mua trì trệ từ ngành công nghiệp ô tô.

Nguồn cung HDG không mạ kẽm trở nên ít hơn tại Thượng Hải do chào giá xuất xưởng từ các nhà máy lên cao và một số đại lý đã ngừng đặt mua loại thép này từ hai nhà máy hàng đầu ở miền bắc. Điển hình như một đại lý bán sản phẩm của nhà máy Shougang thú nhận rằng bà không còn bán HDG không mạ kẽm nữa. 

Các nhà  máy CIS xem xét giá dự thầu trước khi bán hàng phôi thanh tháng 3

Các nhà  máy CIS đang xem xét giá chào mua phôi thanh từ  Thổ Nhĩ Kỳ, Trung Đông, Bắc Phi trước khi quyết định khối lượng hàng sản xuất trong tháng 3.   

Trong ngày thứ tư (19/2), giá chốt bỏ  thầu 28.500 tấn  phôi thanh từ Kardemir tới các người mua trong nước đạt mức 507-512 USD/tấn xuất xưởng Karabuk.

Một đơn hàng 10.000 tấn phôi thanh tháng 3 từ CIS tới một nhà cán lại Thổ Nhĩ Kỳ đạt mức 499 USD/tấn CFR Bartin trong khi nhu cầu tiêu thụ tại Aliaga dưới mức chào bán  505 USD/tấn CFR.

Trong khi đó, các nhà cán lại tại Vịnh Ba Tư hoặc đã có đẩy đủ hàng hoặc tìm thấy nguồn khác tốt hơn mua từ CIS. Một nhà cán lại ở Omani mua 25.000 tấn bán thành phẩm  Trung Quốc tại mức 527 USD/tấn CFR Sohar, hiện đang trên đường giao.

Các nhà máy thép Thổ Nhĩ Kỳ đang tìm cách bán phôi thanh sang Bắc Phi, vơi sự trở lại thu mua 30.000 tấn hàng tháng 1 của Morocco. Các thương nhân cho biết mức giá 510 USD/tấn FOB-ST là giá chào từ các nhà máy thép lớn Thổ Nhĩ Kỳ.

Platts vẫn duy trì giá phôi thanh CIS tại mức 485 USD/tấn FOB Biển Đen trong ngày 19/2 mặc dù giá chào mua từ các nhà cán lại đã giảm 5 USD/tấn so với mức giá này. 

 Cuộn trơn miền đông Trung Quốc ổn định; một số chào giá xuất khẩu tăng

Giá cuộn trơn tại miền đông Trung Quốc suy yếu nhẹ hồi đầu tuần này nhưng do giá phôi thanh ở miền bắc tăng mạnh nên đã hỗ trợ và giữ cho giá cuộn trơn ổn định trong ngày thứ Tư. Tại thị trường giao ngay Thượng Hải, cuộn trơn Q195 đường kính 6.5mm được chốt tại 3.260-3.270 NDT/tấn gồm VAT 17%, giảm so với mức giá 3.280-3.300 NDT/tấn của ngày 12/02.

Một thương nhân trong nước cho biết một số khách hàng vẫn chưa hoạt động trở lại sau Tết, làm sức mua sau Tết rất hạn chế đang gây sức ép lên giá. Do đó, giá cuộn trơn vẫn thiếu động lực để đi lên mặc dù giá phôi thanh đã tăng mạnh 60 NDT/tấn tại thành phố Đường Sơn, tỉnh Hà Bắc.

Nhưng giá phôi thanh tăng đã khiến một số nhà máy ở Đường Sơn nâng giá xuất khẩu cuộn trơn lên thêm khoảng 5 USD/tấn từ tuần trước tới 505-510 USD/tấn FOB. Một thương nhân ở miền đông cũng nói với Platts rằng công ty ông đã nâng chào giá thêm 10-15 USD/tấn lên 515 USD/tấn FOB.

Một thương nhân khác nghe nói có một lô nhỏ từ nhà máy ở miền bắc được chốt với giá 510 USD/tấn FOB. Còn một nhà sản xuất lớn được biết đã chốt các hợp đồng với giá cao hơn 510 USD/tấn FOB một chút, nhưng mức giá này được cho là không phản ánh thị trường một cách chính xác.

Nhưng đa số các thương nhân mà Platts đã liên hệ đều cho rằng những người mua ở khu vực Đông Nam Á tỏ ra quan ngại về việc liệu giá cuộn trơn Trung Quốc tăng có duy trì được lâu không và nhiều người muốn đứng ngoài thị trường chờ cho đến khi rõ ràng hơn. Một vài thương nhân cho biết mức giá giao dịch vẫn không đổi nằm trong khoảng 500-510 USD/tấn FOB. Vì vậy, Platts cũng định giá cuộn trơn SAE1008 đường kính 6.5mm xuất xứ Trung Quốc tầm 500-510 USD/tấn FOB hôm 19/02, bằng với mức giá trong ngày 12/02.  

Giá phế tàu Thổ Nhĩ Kỳ giảm xuống mức 350 USD/tấn

Giá phế tàu Thổ Nhĩ Kỳ đã giảm thêm nữa trong tuần này theo dòng suy yếu của giá phế nhập khẩu. Gía thu mua phế tàu của Ozkan và  Ege Celik hiện tại đạt mức 355 USD/tấn trong khi phế nóng chảy từ xác tàu thuyền vỡ được chào tới các nhà máy Tây Thổ Nhĩ Kỳ (IDC, Cebitas, Habas)   tại mức thấp 350 USD/tấn. Cả hai mức giá trên cùng giảm 10 USD/tấn so với tuần qua.

Các nhà máy thép Thổ Nhĩ Kỳ cũng hạ giá mua phế DKP. Tại thị trường trong nước, giá phế DKP đạt mức 785-855 TRY/tấn (358-390 USD/tấn) giao tới các nhà máy trong tuần này.

Nhà máy Erdemir giảm giá thu mua phế DKP tính bằng đồng Lira xuống 25 TRY/tấn trong ngày thứ sáu tuần trước, còn 855 TRY/tấn (390 USD/tấn). Nhà máy Kardemir cũng hạ giá DKP xuống cùng mức trong ngày 11/2.

Trong khi đó, giá mua từ nhà máy Colakolgu giảm 45 TRY/tấn, còn 785 TRY/tấn (358 USD/tấn) trong khi Asil Celik đồng thời giảm giá mua DKP xuống 30 TRY/tấn, còn 800 TRY/tấn (365 USD/tấn).     

Posco nâng giá HRC trong nước từ tháng 03 

Posco sẽ nâng giá bán trong nước của HRC lên thêm 30.000-50.000 Won/tấn (28-47 USD/tấn) áp dụng cho các đơn đặt hàng mới trong tháng 03. “Việc tăng giá lần này nằm trong dự đoán, thông qua nhu cầu trong nước cải thiện hơn trong mùa tiêu thụ cao điểm từ tháng 03 đến tháng 06”, phát ngôn viên nhà máy cho biết. Posco đang thương lượng với từng khách hàng nên mức giá tăng sẽ khác nhau tùy theo từng người.

Được biết Posco đã dự tính chuyện tăng giá trong một thời gian và sự xác nhận của công ty hôm thứ Tư có phần chậm hơn so với thời gian mà thị trường đã dự đoán. “Posco dường như đã cân nhắc đến việc tăng giá trong một thời gian dài vì cả thị trường trong nước và xu hướng giá HRC tại Trung Quốc vẫn còn ảm đạm kể từ tháng 01”, một  nhà bán lẻ ở Seoul đưa tin với Platts.

Theo tin đã đưa, các nhà sản xuất thép Trung Quốc lớn chẳng hạn như Baosteel và Wuhan Iron & Steel đã giữ giá xuất xưởng tháng 03 của HRC để phù hợp với tình hình nhu cầu trì trệ.

Kể từ tháng 01, nhà sản xuất HRC lớn thứ hai của Hàn Quốc, Hyundai Steel, đã và đang thương lượng với các khách hàng trong nước nhằm thuyết phục họ chấp nhận mức giá mới tăng thêm từ 10.000-30.000 Won/tấn. “Cho đến nay, vẫn chưa thấy phản ứng gì từ phía người tiêu dùng về việc tăng giá của Hyundai nhưng nhờ quyết định của Posco nên giá HRC hiện nay có xu hướng tăng mạnh hơn so với tháng trước”, một  nhà bán lẻ khác nói.

Giá HRC loại SS400 dày 3.0mm sản xuất từ Posco được chốt khoảng 690.000-710.000 Won/tấn (647-666 USD/tấn) tại thị trường bán lẻ ở Seoul hôm thứ Tư. Tổng sản lượng HRC của Hàn Quốc trong năm 2013 cán mốc 33,08 triệu tấn, giảm 2% so với năm 2012, theo số liệu gần đây từ Hiệp hội Sắt thép Hàn Quốc. 

Thổ Nhĩ Kỳ hạ giá chào xuất khẩu thép cây sang Yemen và UAE

Trong ngày 19/2, giá chào  thép cây Thổ Nhĩ Kỳ sang Yemen và UAE tiếp tục giảm.

Tâm lý các nhà máy đã phần nào lạc quan hơn nhờ vào khoảng cách giá giữa thép cây và phế dần thu hẹp và người tiêu thụ cuối cũng đã đặt mua hàng tháng 3, tuy nhiên, giá đã giảm lại.

  Một lô hàng 20.000 tấn thép cây tháng 3  được chốt tại mức 565 USD/tấn CFR Aden tới các nhà tích trữ hàng hóa Yemeni. Trong khi đó, giá bán gần đây nhất tới UAE là 565 USD/tấn CFR Dubai đối với lô hàng tháng 4 từ các nhà máy thép lớn Thổ Nhĩ Kỳ.

Các thương nhân cũng đang phàn nàn rằng các chào giá FOB tương đương không có lợi cho họ, trong khi các khách hàng Trung Đông vốn từ lâu đã nhận được giá ưu đãi. Một thương nhân than phiền rằng họ không nhận được giá chào 550-555 USD/tấn FOB mà chỉ có các khách hàng Trung Đông và Bắc Phi mới nhận được các mức giá này.

Platts hạ giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ xuống 5 USD/tấn, còn 553 USD/tấn FOB cảng Thổ Nhĩ Kỳ . 

Giá PPGI Thổ Nhĩ Kỳ giảm xuống  dưới mức 900 USD/tấn

Giá PPGI Thổ Nhĩ Kỳ đã giảm 50 USD/tấn kể từ đầu tháng 2, trong bối cảnh giá  HRC suy yếu, giảm xuống mức 900 USD/tấn do nhu cầu tiêu thụ thấp tại cả hai thị trường nội địa lẫn xuất khẩu đã gây áp lực lên giá chào bán của các nhà máy.

Giá PPGI 9002 0.5mm đã giảm xuống mức 900 USD/tấn, tuy nhiên, giá HDG dường như ổn định hơn. Tình hình tiêu thụ tại nội địa và thị trường xuất khẩu đều suy yếu. Bên cạnh đó, giá HRC giảm cũng có rác động tới giá thép mạ. Tuy nhiên, các thương nhân dự báo giá sẽ không giảm thêm nữa do mức này đã chạm đáy. Với lợi nhuận bị thu hẹp, các nhà máy hy vọng với các mức chiết khấu hiện tại có thể kích cầu trở lại.

Các nhà máy PPGI mới đã tạo nên nguồn cung quá mức trên thị trường. Cung cầu không cân bằng cộng với nền kinh tế thiếu chắc chắn và chính trị bất ổn càng gia tăng áp lực lên các nhà máy. Theo dự báo, nhu cầu tiêu thụ cũng như giá cả thép tới tháng 4 mới có thể khôi phục được sau cuộc bầu cử trong khu vực.

Giá chào PPGI 9002 0.5mm từ các nhà máy hiện đạt mức 890-920 USD/tấn xuất xưởng, thấp hơn giá tháng 1 khoảng 60-70 USD/tấn. Công suất quá mức cũng làm tăng áp lực lên giá chào bán HDG. Tuy nhiên, giá chào HDG 0.5mm hiện đã ổn định hơn, đạt mức 780-790 USD/tấn xuất xưởng, trong khi loại 1mm đạt mức 740-760 USD/tấn xuất xưởng. Cả 2 mức giá này đều giảm 20 USD/tấn so với giá cuối tháng 1.