Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 21/01/2014

Chào giá CRC không gỉ 304 tại Trung Quốc tăng theo giá niken

Các chào giá thép cuộn cán nguội không gỉ austenite tại thị trường giao ngay Phật Sơn, Quảng Đông tăng giá sau khi niken bật tăng trở lại. Nhưng các nguồn tin cho biết giá giao dịch ít có sự thay đổi do thị trường vẫn còn trì trệ.

Chào giá CRC loại 304 dày 2mm đã tăng lên mức 15.800 NDT/tấn (2.592 USD/tấn) hôm thứ Hai, tăng so với mức giá cao nhất 15.400 NDT/tấn nghe nói được chào bán hồi đầu tháng.

Một thương nhân ở Hong Kong cho biết tuần trước công ty con của ông tại Quảng Đông đã mua CRC loại 304 trên thị trường giao ngay Phật Sơn với giá 15.300 NDT/tấn, bằng với giá mua hồi đầu tháng, trước khi niken tăng giá. “Giá niken bật tăng đã không được phản ánh ngay vào trong giá thép không gỉ”, ông nói.

Giá giao dịch không tăng do sức mua trên thị trường vẫn còn suy yếu khi sắp tới Tết. “Nguồn tiền của các công ty thường rất eo hẹp vào cuối năm vì vậy không ai mua thêm”, một đại diện nhà máy thép không gỉ ở miền đông Trung Quốc nói. Đa số đều dự đoán giá thép không gỉ sẽ tiếp tục duy trì ổn định từ đây cho đến cuối tháng 01 do hoạt động giao dịch thường chững lại vào những ngày trước Tết.

Số khác thì dự báo giá thép không gỉ sẽ cao hơn sau Tết nếu niken vẫn giữ được mức tăng cho đến tháng 02. “Thông thường, giá sẽ tăng sau Tết âm lịch, do vào tháng 02-tháng 03 người mua sẽ quay trở lại thị trường sau khi nghỉ Tết”, một thương nhân ở Quảng Châu nói.

Giá niken đã bắt đầu phục hồi từ đầu tuần trước sau khi có lệnh cấm xuất khẩu quặng niken của Indonesia bắt đầu có hiệu lực từ ngày 12/01. Giá giao dịch chính thức bằng tiền mặt của niken trên sàn LME hôm 17/01 được chốt tại 14.590-14.595 USD/tấn, tăng khoảng 800 USD/tấn so với tuần trước. 

Giá thép cây miền bắc Trung Quốc ổn định do sắp tới Tết 

Giá thép cây miền bắc Trung Quốc vẫn giữ ổn định hôm thứ Hai do sắp tới Tết âm lịch. Tại thị trường giao ngay Bắc Kinh hôm 20/01, thép cây HRB400 đường kính 18-25mm từ nhà máy Hebei Iron & Steel được chốt với giá không đổi so với thứ sáu khoảng 3.180-3.200 NDT/tấn gồm VAT 17%.

Tuy nhiên, cùng ngày hợp đồng thép cây giao kỳ hạn tháng 05 trên sàn SHFE thì lại giảm 0,55% chốt tại 3.451 NDT/tấn.

Các nguồn tin thị trường cho biết số lượng giao dịch trở nên lác đác hơn vào những ngày gần Tết. Những thương nhân muốn tích trữ thêm thép thì đã thực hiện gần xong việc thu mua của họ trong vài tuần trước, nên nhu cầu sẽ hạn chế dần trong tuần này và tuần tới. Một thương nhân Bắc Kinh nói rằng mức giao dịch hàng ngày tại công ty ông đã giảm dưới 100 tấn nhưng do hầu hết các thương nhân trên thị trường đều đang chuẩn bị đón Tết nên sức mua suy yếu không nhất thiết là giá giao ngay sẽ thấp hơn vào khoảng cuối tháng này.

Có nhiều ý kiến trái chiều nhau khi đưa ra dự đoán về xu hướng giá sau Tết. Một số thương nhân nghĩ rằng mức giá và lượng hàng tồn kho thấp hiện nay sẽ hỗ trợ cho giá thép cây tăng lên khi thị trường mở cửa trở lại vào tháng 02. Nhưng số khác lại cho rằng với nhu cầu tiêu thụ vẫn còn chậm sẽ làm hạn chế đà tăng nên giá sẽ tiếp tục ở mức thấp trong tháng 02. Hàng tồn kho tại các đại lý lớn sẽ nhiều hơn sau Tết nhưng sức mua không thể quay trở lại mức thường ngày ngay được, nghĩa là thanh khoản hạn chế sẽ vẫn là vấn đề nan giải. 

Giá phế Nga bình ổn, có thể suy yếu tại phía Nam

Giá phế Ferrote Nga dường như suy yếu tại phía Nam cũng như tại Tây Bắc di dự bái giá phế xuất khẩu giảm. Các nhà máy théo vẫn giữ giá dự thầu ở mức ngang bằng với tháng trước một phâng so sức mua không thường xuyên và mùa tích trữ hàng thấp đã tách họ ra khỏi thị trường.

Tại thị trường xuất khẩu, giá phế loại 3A cảng Saint-Petersburg ( tương đương HMS 1&2 80:20) vẫn bán tại mức 9.200 Rub/tấn (272 USD/tấn), tại Nam Nga, giá tại cảng Rostov-on-Don là 9.400-9.450 Rub/tấn (278-280 USD/tấn) chưa tính phí xử lý và 12.5% thuế hải quan. Tại cả 2 điểm xuất cảnh, giá phế dự báo sẽ xuống tới 200 Rub/tấn trong tuần tới.

Các nhà máy tại phía Nam, Krasnodar, Rostov và  Volgograd ở vị trí gần cảng, đang trả giá 9.500-9.600 Rub/tấn đã gồm phí vận chuyển bằng xe tải, mặc dù đây là các nhà máy đang thiếu tiền mặt nghiêm trọng và chưa kịp thanht oán đúng hạn. Các thương nhân cho biết thậm chí các nhà máy lớn cũng thiếu tiền và đang giảm sản xuất mà điều này sẽ có ảnh hưởng xấu tới nhu cầu tiêu thụ thép.

Các nhà máy sử dụng phế dược thu gom tại miền trung nước Nga (tất cả các vùng ở Nga thuộc Châu Âu  tới  Urals) có giá thu mua 8.000-8.200 Rub/tấn (237-243 USD/tấn) chưa tính phí vận chuyển bằng xe lửa. Chỉ có các nhà máy tại Uralstăng nhje giá mua so với thnags trước, lên mức 7.900-8.100 Rub/tấn (234-240 USD/tấn) chưa tính phí vận chuyển.

Nhà máy ZapSib và Novokuznetsk (NKMK), các nhà thu mua phế khối lượng lớn tại Siberia đang duy trì giá chào mua phế A3 tại mức 9.100-9.200 Rub/tấn (269-272 USD/tấn) đã gồm phí vận chuyển, không đổi so với cuối tháng 12. 

Feng Hsin hạ giá thép cây trong nước xuống thấp hơn nữa 

Một trong những nhà sản xuất thép cây hàng đầu của Đài Loan, Feng Hsin Iron & Steel, hôm thứ hai đã giảm giá thép cây xuống 200 Đài tệ/tấn (7 USD/tấn) do giá phế thế giới thấp hơn và sức mua suy giảm.

Theo đó, thép cây cỡ thường của Feng Hsin có giá 17.600 Đài tệ/tấn (582 USD/tấn) xuất xưởng Đài Trung, áp dụng từ thứ Hai. Nhà máy đã hạ giá thép cây xuống 200 Đài tệ/tấn vào thứ ba tuần trước sau khi ra thông báo trước đó một ngày rằng sẽ giữ giá không đổi, nên tính đến nay giá thép cây đã giảm tổng cộng 400 Đài tệ/tấn trong tuần qua.

“Giá phế ở Mỹ đã giảm. Các đơn đặt hàng tuần trước không nhiều do khách hàng tỏ ra thận trọng hơn và hiện nay muốn quan sát thị trường. Nhà máy cũng hy vọng với việc giảm giá bán trước Tết sẽ giúp thu hút được nhiều đơn đặt hàng mới”, phát ngôn viên nhà máy nói.

Thứ ba tuần trước, Feng Hsin cũng đã giảm giá mua phế xuống 200 Đài tệ/tấn và hôm thứ Hai lại giảm thêm 200 Đài tệ/tấn, nên giá mua phế HMS 1&2 80:20 hiện nay còn 10.100 Đài tệ/tấn.

Được biết, phế 80:20 (lô nhỏ) nhập khẩu vào Đài Loan hôm thứ sáu tuần trước có giá 361 USD/tấn CFR cảng Đài Loan, giảm 5 USD/tấn so với tuần trước đó, theo TSI. 

Erdemir tăng giá thu mua phế nội địa do đồng Lira mất giá

Nhà máy Erdemir thông báo sẽ tăng giá thu mua phế DKP nội địa kể từ ngày 20/1  do đồng Lira mất giá. Gía mua mới của nhà  máy này là 880 TRY/tấn (393 USD/tấn).

Trước đó, một nhà máy khác - Kardemir đã thông báo tăng giá mua phế DKP thêm 35 TRY/tấn, đạt mức 880 TRY/tấn (393 USD/tấn) trong ngày 14/1, thông báo tăng lần 2 chỉ trong mấy ngày. Trong khi đó, nhà máy Colakoglu cũng tăng giá mua thêm 30 TRY/tấn, đạt mức 825 TRY/tấn (368 USD/tấn) trong ngày 10/1 trong khi nhà máy thép hợp kim Asil Celik đồng thời tăng giá mua thêm 35 TRY/tấn, đạt mức 830 TRY/tấn (371 USD/tấn).

Trong khi đó, giá phế tàu tính bằng đồng dolla vẫn ổn định trong tuần. Tại khu vực Ege (Aegean), IDC duy trì giá mua tại mức 390 USD/tấn. Phế HMS từ xác tàu thuyền vỡ vẫn được chào bán tới các nhà máy Tây thổ Nhĩ Kỳ (Habas, Ozkanlar) tại mức 385 USD/tấn giao tới nhà máy. Tuy nhiên, nhà máy Ege Celik lại hạ giá mua phế xuống 5 USD/tấn, còn 380 USD/tấn trong ngày 21/1. 

Nhà máy  Icdas tiếp tục nâng giá thép cây nội địa do đồng Lira suy yếu

Nhà máy Icdas tiếp tục nâng giá thép cây và cuộn trơn  nội địa  thêm 50 TRY/tấn đối với các đơn hàng từ ngày 20/1 trở đi do đồng Lira suy yếu từ sự bất ổn chính trị trong nước mặ dù nhu cầu tiêu thụ cả trong lẫn ngoài nước đều chậm.

Giá mới của thép cây 12-32mm là 1.565 TRY/tấn xuất xưởng (699 USD/tấn). Gía thép cây 10mm tăng lên mức 1.575 TRY/tấn xuất xưởng (704 USD/tấn) trong khi loại 8mm là 1.585 TRY/tấn (708 USD/tấn) xuất xưởng. Do đồng Lira mất giá so với đồng dolla nên nếu tính bằng  đồng dolla thì giá mới này vẫn không đổi so với giá niêm yết ngày 7/1.

Nhà máy này cũng tăng giá cuộn trơn cùng mức tương tự lên 1.575-1.640 TRY/tấn (704-735 USD/tấn) xuất xưởng đã gồm 18%  VAT.

Trong khi đó, nhà máy Kardemir vẫn duy trì giá thép  cây nội địa tại mức 1.272 TRY/tấn (584 USD/tấn) xuất xưởng và 12mm tại mức 1.255 TRY/tấn (576 USD/tấn) xuất xưởng chưa tính 18% VAT kể từ ngày 7/1. 

Benxi I&S giữ giá hầu hết các loại thép dẹt không đổi, nhưng lại nâng giá HDG 

Nhà máy Benxi Iron & Steel (Bengang) ở miền bắc Trung Quốc đã thông báo hôm thứ Hai rằng sẽ giữ giá xuất xưởng của thép cuộn cán nóng, thép cuộn cán nguội, thép cuộn mạ màu và thép silic không đổi từ tháng 01 đến tháng 02, riêng chỉ nâng giá thép cuộn mạ kẽm nhúng nóng lên thêm 50 NDT/tấn (8 USD/tấn).

Kết quả là, HRC Q235 5.5mm có giá xuất xưởng vẫn duy trì tại 3.640 NDT/tấn và CRC SPCC 1.0mm có giá 4.080 NDT/tấn, còn HDG SPGC 1.0mm tăng lên 4.530 NDT/tấn; tất cả các giá này đều chưa có VAT 17%.

Chiến lược giá của Bengang đúng như dự đoán của thị trường do hầu hết các nhà máy khác như Wuhan Iron & Steel, Shougang và Anshan Iron & Steel đều giữ giá thép dẹt không đổi trong tháng 02.

Thị trường giao ngay tại Thượng Hải và Lecong khá im ắng trong tuần này do người mua và bán đã bắt đầu đóng cửa nghỉ Tết. Tuy nhiên, do giá giao dịch trên sàn SSE hôm thứ Hai bị rớt nên giá giao ngay của HRC Q235 5.5mm ở cả Thượng Hải và Lecong đều giảm 5 NDT/tấn so với ngày thứ sáu tuần trước còn lần lượt 3.450-3.490 NDT/tấn và 3.570-3.590 NDT/tấn gồm VAT.

Các thương nhân nghĩ rằng giá không thể giảm thêm quá nhiều tại thời điểm hiện nay do thị trường sẽ đóng cửa dần từ tuần này. Thế nhưng họ quan ngại rằng lượng hàng tồn kho đang tăng trong những ngày nghỉ Tết sẽ gây sức ép lên giá thép trong tháng 02.

Theo các nguồn tin thị trường, HRC tồn kho tại 33 thành phố lớn của Trung Quốc tăng hơn so với tuần trước do sức mua chậm lại. Tính đến thứ sáu hàng tồn kho còn khoảng 3,82 triệu tấn. 

Triển vọng giá tăng tại thị trường xuất khẩu thép cuộn Biển Đen chưa chắc chắn

Các nhà máy CIS đang trong tiến trình đầm phán giá xuất khẩu với mong muốn tăng giá hoặc giữ nguyên giá đạt được trong tháng 12 tùy thuộc vào mỗi nhà máy và khách hàng.

Tại Châu Âu, tình hình năm nay diễn ra chậm hơn so với thường lệ. Bên cạnh đó, hàng tháng 2 sẵn có tại Nga và Ukraina cũng đang nằm ở mức khá, cộng thêm giá quặng giao ngay giảm sẽ gây áp lực tới giá thép cuộn hoặc chí ít là gây khó khăn cho các nhà máy CIS trong việc đạt được giá đã đặt ra.

Giá chào cao hơn từ các nhà máy CIS phần lớn xuất khẩu tới thị trường Mỹ. Không có gì đáng ngạc nhiên, các nhà máy CIS đang tận dụng hết hội có thể để bán hàng tháng 2 sang thị trường tiềm năng này.

Nhà máy Metinvest Ukraina đang đàm phán giá 540-545 USD/tấn (398-402 Euro/tấn) FOB Biển Đen, tăng 10-15 USD/tấn so với giá trước đó. Gía này chỉ có thể thực thi tại thị trường Mỹ . Đối với thị trường Bắc Phi, giá chào HRC đạt mức 530 USD/tấn FOB Biển Đen và 540 USD/tấn đối với tấm cắt. Một thương nhân cho biết giá HRC Ukraina dương như không thu hút được bất cứ khách hàng nào so với giá 510 USD/tấn FOB Biển Đen tại thị trường EMEA (Châu Âu, Trung Đông và Bắc Phi).

Giá chào bán từ nhà máy Magnitogorsk Iron & Steel (MMK) Nga tăng 5-10 Euro/tấn trong tháng  này, đạt mức 405-410 Euro/tấn (550-556 USD/tấn) FOB Biển Đen  đối với HRC vả 465-470 USD/tấn (631-638 USD/tấn) FOB Biển Đen  đối với CRC . Gía chaò FOB St Petersburg cũng tăng 5 Euro/tấn. Một thương nhân cho biết đã dự thầu giá HRC tại mức 530 USD/tấn FOB Biển Đen nhưng nhà máy đó vẫn chưa chấp nhận giá mua dưới mức 540 USD/tấn.

Platts vẫn duy trì giá HRC và CRC FOB Biển Đen tại mức lần lượt 535 USD/tấn và 605 USD/tấn trong ngày 20/1. 

Tokyo Steel sẽ giữ giá thép dẹt và thép dài trong tháng 02 

Tokyo Steel Manufactur sẽ giữ giá bán trong nước của tất cả các hợp đồng tháng 02, với mục đích để chắc chắn rằng mức giá tăng trước đây đã được thị trường đón nhận.

“Nhu cầu xây dựng trong nước vẫn rất tốt và chúng tôi dự đoán nguồn cung sẽ tiếp tục hạn chế. Vì vậy chúng tôi đã quyết định giữ giá bán tháng 02 không đổi nhưng lại có mục tiêu nâng giá trở lại vào những tháng sau đó”, Kiyoshi Imamura, giám đốc marketing Tokyo Steel nói.

Kết quả là, thép dầm hình H SS400 cỡ lớn của nhà máy có giá bán tháng 02 vẫn duy trì tại 80.000 Yên/tấn (769 USD/tấn) còn HRC SPHC dày 1.7-22mm tiếp tục giữ mức giá 66.000 Yên/tấn (634 USD/tấn).

Trong các hợp đồng tháng 01, Tokyo Steel đã tăng thêm 1.000-2.000 Yên/tấn (10-20 USD/tấn) cho hầu hết các loại thép có trong danh mục nhà máy để phản ánh nhu cầu trong nước cao. “Tuy nhiên, giá hợp đồng thực tế của Tokyo Steel thấp hơn khoảng 1.000-2.000 Yên/tấn so với giá niêm yết nên tôi nghĩ đây chỉ là việc đánh dấu thời gian cho một tháng khác với giá hợp đồng thực sự của công ty để đạt được giá niêm yết của họ”, một thương nhân ở miền tây nước Nhật nói.

Tokyo Steel dự định sản xuất 170.000 tấn thép thành phẩm trong tháng này- giảm khoảng 10.000 tấn so với tháng 12- trong đó thép dầm hình H sẽ có sản lượng 80.000 tấn, HRC 45.000 tấn và 20.000 tấn thép tấm.

“Chúng tôi không có ý định sản xuất cho xuất khẩu bởi vì giá đặt mua từ các khách hàng thấp hơn nhiều so với giá trong nước. Mặc dù Yên Nhật tiếp tục suy yếu hơn nữa nhưng mức giá mà họ đưa ra vẫn còn quá thấp để có thể chấp nhận. Cụ thể, giá đặt mua HRC chỉ khoảng 560-570 USD/tấn FOB và thép dầm hình H là 700 USD/tấn”, Imamura nói.