Thép cây ổn định ở Châu Á
Không có sự thay đổi nào trong giá giao ngay của thép cây ở Châu Á hôm thứ Tư, mặc dù một số người mua trở nên sôi nổi hơn trong việc thương lượng giá với các nhà máy. Platts định giá thép cây BS500 đường kính 16-20mm trong khoảng 245-248 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế, không đổi kể từ ngày 05/01.
Một thương nhân cho biết chào giá mua cố định ở mức 255 USD/tấn CFR Hong Kong trọng lượng thực tế (tương đương 245 USD/tấn FOB). Chào giá mua cao hơn so với mức giá mục tiêu của một số khách hàng mà Platts nghe nói hôm thứ Hai ở mức 250 USD/tấn CFR. Tuy nhiên, chào giá của các nhà máy Trung Quốc chốt ở mức 260 USD/tấn CFR Hong Kong.
Tuần trước, khoảng 20.000 tấn thép cây của Nga được bán với giá 240 USD/tấn CFR Hong Kong để giao cuối tháng 03 và đầu tháng 04. Tuy nhiên, một số nhà nhập khẩu lớn vẫn muốn mua từ các nhà cung cấp Trung Quốc do những quan ngại về chất lượng thép thanh của Nga.
“Một số khách hàng phải đặt mua một số khối lượng để tái tích trữ và có lẽ tôi cũng cần phải tham gia”, một nhà tích trữ cho biết. Ông cho rằng 255 USD/tấn CFR là có thể chấp nhận nếu giá dưới mức này không thể được đảm bảo trên thị trường.
Một người khác tin rằng mức giá 255 USD/tấn CFR Hong Kong có thể thu hút một số đơn hàng, nhưng chỉ có thể dành cho những lô hàng có khối lượng nhỏ. Một số thương nhân và nhà máy cho biết họ không nghe nói bất kỳ giao dịch nào cho thép cây của Nga gần đây đang được chốt.
Người mua đã dần theo kịp với giá Trung Quốc cao hơn mà đã tăng 10 USD/tấn hay nhiều hơn kể từ đầu tháng này.
Giá HRC Châu Á duy trì ổn định với sức mua teo tóp
Giá HRC giao ngay ở Châu Á vẫn không đổi trong ngày thứ Tư do hoạt động thu mua thưa thớt mặc dù chào giá cao từ các nhà máy Trung Quốc. Platts định giá HRC SS400 3.0mm trong khoảng 270-275 USD/tấn FOB, bằng với ngày trước đó.
Một nhà máy lớn ở miền đông chào giá 275 USD/tấn FOB cho HRC SS400, trong khi hầu hết các nhà máy Trung Quốc khác tiếp tục đẩy giá lên trên mức này, vì cho rằng giá trong nước đang khá cao.
Tuy nhiên, thật khó để chốt được hợp đồng bây giờ, một thương nhân thừa nhận rằng người mua ở nước ngoài vẫn đang giữ thái độ chờ đợi.
Các nhà máy Trung Quốc có lẽ chỉ chào giá cao để thử thị trường và rồi hạ chào giá xuống một cách nhanh chóng nếu như họ không nhận đủ đơn hàng xuất khẩu. Một nhà máy ở miền bắc hiện giờ đang xục xạo để tìm khách hàng tiềm năng, một tín hiệu cho thấy các nhà máy thiếu đơn hàng. Ông dự báo các nhà máy Trung Quốc có lẽ sẽ giảm giá bán của họ vào tuần tới cho khối lượng giao dịch hạn chế.
Đối với thép cuộn SAE1006 2.0mm, chào giá Trung Quốc duy trì ổn định quanh mức 295 USD/tấn CFR Việt Nam, mặc dù không có giao dịch nào được chốt ở mức giá này. Thép của Nga vẫn là một sự lựa chọn tốt đối với các nhà cán lại ở Việt Nam.
Các nhà máy Ấn Độ giữ giá HRC không đổi
Mặc dù thuế tự vệ ảnh hưởng đến hầu hết các loại HRC nhập khẩu nhưng các doanh nghiệp Ấn Độ tiếp tục cằn nhằn rằng họ cần phải giữ giá HRC ở mức “không ổn định” để cạnh tranh với thép cuộn nhập khẩu. Platts định giá HRC IS 2062 loại A/B dày 3mm ở mức 23.500-24.500 Rupees/tấn (346-361 USD/tấn) xuất xưởng hôm thứ Tư, không đổi so với tuần trước.
“Thép nhập khẩu giá thấp đã buộc chúng tôi phải duy trì giá trong nước ở mức thấp bất thường, mặc dù mức giá này là không bền vững. Được biết HRC nhập khẩu cập cảng tháng này được đặt mua hồi tháng 11 với giá 285 USD/tấn CFR.
Hầu hết HRC nhập vào Ấn Độ đều bị áp thuế nhập khẩu 12.5%, cộng thêm 20% thuế tự vệ kể từ tháng 9 năm ngoái, và sẽ sớm cần phải tuân thủ theo chứng nhận phù hợp từ Cục Tiêu chuẩn Ấn Độ. Nhưng các nhà máy than phiền rằng một khối lượng HRC lớn tiếp tục được nhập về trong tháng 12.
Ngược lại, các thương nhân ở Mumbai lại càu nhàu rằng những biện pháp này đã dẫn đến sự sụt giảm trong việc đặt hàng nhập khẩu trong tháng này. Điều này là do những nhà máy ở nước ngoài nào mà có HRC không đạt chứng nhận BIS thì đang bị người mua ngó lơ vì sợ thép cuộn sẽ về đến sau khi giấy chứng được đưa ra vào ngày 18/3. Việc vận chuyển từ Trung Quốc thông thường có thể mất hai tháng.
Ngoài ra, các nhà nhập khẩu đã ngừng đặt mua thép ở nước ngoài vì họ sợ nhiều biện pháp hơn sẽ được chính phủ áp dụng.
Chào giá cho HRC API của Trung Quốc (không chịu thuế tự vệ) đã được tăng 10 USD trong tuần qua lên 305 USD/tấn CFR Mumbai. Chào giá cho HRC loại non-API 1.2-2mm từ Hàn Quốc được nghe nói cao hơn, khoảng 310-315 USD/tấn CFR.
Giá cuộn trơn Châu Á nhích nhẹ theo thị trường Trung Quốc
Giá cuộn trơn giao ngay ở châu Á đã tăng nhẹ từ ngày 14-20/1. Hôm thứ Tư, Platts định giá thép dây dạng lưới 6.5mm tăng 0,5 USD/tấn lên 260-265 USD/tấn FOB.
Giá đã tăng trong 4 tuần liên tiếp nhưng mức tăng vẫn còn khiêm tốn, vì người mua vẫn đang giữ giá mua thấp hơn so với chào giá.
Tuần này, một nhà máy xuất khẩu lớn ở miền bắc Trung Quốc đã nâng chào giá thêm 3 USD/tấn so với tuần trước lên 268 USD/tấn FOB-mức giá này bằng với hai tuần trước đó. Trong khi đó, hôm thứ Tư, Jiujiang Iron & Steel, một nhà xuất khẩu lớn khác ở tỉnh Hà Bắc lại nâng giá thép dây trong nước thêm 21 NDT/tấn (3 USD/tấn) lên 1.790 NDT/tấn (270 USD/tấn).
Một thương nhân ở miền đông đang chào giá 270 USD/tấn CFR TP.HCM (tương đương 262 USD/tấn FOB) để vận chuyển cuối tháng 02. Một người khác nghe nói chào giá 268 USD/tấn CFR TP.HCM cho hàng vận chuyển vào cuối tháng 3. Một thương nhân khác cho biết chào giá của ông là 269 USD/tấn CFR TP.HCM xếp lên tàu vào tháng 3, nhưng không được người mua chấp nhận.
Một người khác cho biết ông đã chào giá khoảng 283 USD/tấn CFR tới Philippines trong tuần này mặc dù không có chào giá mua nào được nhắc đến. Mức giá này tương đương 266 USD/tấn FOB, phí vận chuyển 17 USD/tấn.
Tại thị trường giao ngay Thượng Hải hôm thứ Tư, cuộn trơn Q195 6.5mm được định giá 1.890-1.900 NDT/tấn (285-287 USD/tấn) gồm 17% VAT, tăng 75 NDT/tấn so với tuần trước đó.
Kyoei Steel duy trì giá thép cây tháng 02
Kyoei Steel, nhà sản xuất thép cây lớn nhất Nhật Bản, sẽ duy trì giá thép cây cho những hợp đồng tháng 02 và cam kết sẽ bảo vệ giá của công ty một cách vững chắc.
Kyoei không tiết lộ giá niêm yết của mình nhưng theo các nguồn tin thì giá thị trường hiện nay cho thép cây cỡ thường SD295 ở Tokyo là 49.000-50.000 Yên/tấn (418-426 USD/tấn), giảm 1.000 Yên/tấn so với 1 tháng trước đó. Giá ở Osaka vẫn duy trì mức 44.000-45.000 Yên/tấn.
Mặc dù đại diện Kyoei không bình luận gì nhưng trong một thông báo công ty nhấn mạnh rằng việc trì hoãn các dự án xây dựng đã làm sức mua thép chậm lại. Tuy nhiên, Kyoei tự tin rằng sẽ không có thêm sự chậm trễ nào nữa và nhu cầu thép cây sẽ bắt đầu gia tăng trong ngắn hạn.
Bộ Đất đai, Cơ sở hạ tầng và Giao thông Nhật Bản (MLIT) dự báo rằng nhu cầu thép thanh nhỏ trong tháng 02 sẽ tăng trưởng 3,1% so với tháng 01 và 1,3% so với năm ngoái đạt 630.000 tấn.
Một nhà kinh doanh thép xây dựng ở Tokyo cho biết các dự án xây dựng lớn được lên kế hoạch cho năm tài khóa sắp tới trong đó gồm những dự án liên quan tới Thế vận hội Tokyo 2020 và các trung tâm phân phối cũng như hậu cần quy mô lớn.
Nhu cầu thép dùng trong nhà ở cũng được dự báo sẽ tăng trước khi thuế tiêu thụ được tăng thêm lần nữa từ tháng 4/2017. “Nhưng chúng tôi không nghĩ sức mua sẽ cải thiện đáng kể bởi vì chúng tôi vẫn còn thiếu công nhân xây dựng lành nghề”.
Theo Liên đoàn sắt thép Nhật Bản, đơn hàng thép thanh được đặt mua trong tháng 11 đạt 599.000 tấn, giảm 5,9% so với tháng 10 và 7,7% so với năm trước.
Người mua hoài nghi về khả năng thép cuộn tăng giá
Mặc dù giá thép cuộn hầu như ổn định trong ngày thứ tư, nhiều người mua vẫn không chắc chắn về đà tăng này có thể chống chọi được sự suy yếu của nhu cầu tiêu thụ HRC hay không.
Dù vậy, thậm chí các nhà máy có thời gian giao hàng ngắn nhất cũng đang chào bán tại mức 420 USD/tấn xuất xưởng cho HRC và thậm chí các nhà máy đã tăng giá lên 540 USD/tấn cho CRC và HDG. Trong khi đó, người mua vẫn thận trọng trước bất cứ lô hàng giao dài hơn dựa vào nhu cầu tiêu thụ suy yếu.
Platts vẫn duy trì giá HRC và CRC lần lượt tại mức 400-420 USD/tấn và 520-540 USD/tấn xuất xưởng Midwest (Indiana). HRC giảm xuống còn 360-370 USD/tấn ngày 18/12 khi CRC đạt mức 490-500 USD/tấn.
CRC chào bán tại mức 540 USD/tấn trước khả năng giá cao hơn và HDG có sẵn ở mức 530 USD/tấn. Tuy nhiên, HRC lớn hơn 400-420 USD/tấn.
Các nhà máy tích hợp chào bán HRC ở mức tối thiểu 400 USD/tấn. Tuy nhiên, các đơn hàng lớn có thể phá vỡ mốc 400 USD/tấn.
Thị trường HDG Thổ Nhĩ Kỳ ổn định, giá vẫn gặp áp lực
Giá xuất khẩu và nội địa HDG Thổ Nhĩ Kỳ vẫn găp áp lực từ nhu cầu tiêu thụ thấp kể từ đầu năm do hầu hết người mua ưa chuộng mua thép hơn với hàng tồn thấp trong mùa đông. Nhu cầu tiêu thụ từ thị trường xuất khẩu vẫn thấp trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt từ đối thủ cũng tiếp tục gây áp lực cho giá HDG Thổ Nhĩ Kỳ.
Giá niêm yết HDG 0.5mm của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ vẫn tương đối ổn định tại mức 570-600 USD/tấn xuất xưởng kể từ tuần qua trong khi giá chào nội địa PPGI 9002 0.5mm ở mức 670-700 USD/tấn xuất xưởng kể từ tuần qua.
Giá chào xuất khẩu HDG 0.5mm cũng vẫn ổn định ở mức 540-560 USD/tấn FOB trong khi giá PPGI 9002 0.5mm vẫn ở mức 640-660 USD/tấn FOB với chiết khấu có sẵn cho các đơn hàng lớn.
Tuy nhiên, do các bất ổn tài chính gia tăng từ tỷ giá dao động trong bối cảnh điều kiện thị trường toàn cầu không có lợi, sự phục hồi nhu cầu tiêu thụ và giá không có sẵn cho tới Q2.
Định giá HRC EU
Platts vẫn giữ giá HRC Bắc Âu tại mức 320-325 Euro/tấn xuất xưởng Ruhr. Giá tại Đức và Benelux ở mức 320-325 Euro/tấn Bắc Âu trong Q1 với các khách hàng trả thấp hơn 5-10 Euro/tấn trong tháng 12 cho hàng giao nhanh. Tuy nhiên, hàng tồn vẫn thấp với hầu hết người mua sẵn sàng giữ hàng tồn ở mức thấp trước khả năng giá giảm nữa trong Q2.
Vài nhà máy nỗ lực tăng giá đầu năm thêm 20-25 Euro/tấn. Gía nhập khẩu ở mức 300 Euro/tấn CIF Antwerp, cũng ổn định nhưng ít người thu mua. Vài nguyên liệu có thêm boron có sẵn ở dưới mức 300 Euro/tấn.
Kardemir giảm giá phôi thanh, nhận được các đơn hàng lớn
Kardemir ngưng bán phôi thanh trong chiều thứ tư, một ngày sau khi mở cửa bán lại với giá giảm mạnh. Công ty này giảm giá niêm yết phôi thanh và phôi lai bloom trong ngày thứ ba dựa vào sự tăng mạnh của đồng dolla so với Lira và nhu cầu tiêu thụ tiếp tục suy yếu. Gía bán phôi thanh chuẩn của Kardemir ở mức 275-280 USD/tấn xuất xưởng, giảm 12 USD/tấn so với giá niêm yết trước đó trong khi phôi lai bloom giảm cùng mức xuống còn 383 USD/tấn xuất xưởng.
Công ty này không bình luận thêm gì về các đơn hàng lớn nhưng cho biết đã mua hơn 130.000 tấn phôi thanh kể từ đầu tháng và điều này gây áp lực hơn nữa cho các nhà máy nội địa cũng như giá phôi thanh nhập khẩu có dấu hiệu tăng trong mấy ngày gần đây.
Hầu hết các nhà máy Thổ Nhĩ kỳ nhìn chung chào bán phôi thanh chuẩn tại mức 285-290 USD/tấn xuất xưởng trong tuần này trong khi giá chào từ CIS ở mức 263-268 USD/tấn CFR.
Vài nguồn tin dự báo giá phôi thanh nhập khẩu sẽ bắt đầu suy yếu trong mấy tuần tới cùng với sự suy yếu của giá phế nhập khẩu.
Định giá thép cây FOB Thổ Nhĩ Kỳ
Giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ giảm trong ngày thứ ba, còn 321.50 USD/tấn FOB theo định giá Platts.
Một nhà máy EAF đã bán một lô hàng 20.000 tấn tại mức 330 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết (319 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế).
Phí vận chuyển tầm 20 USD/tấn cho đơn hàng 20.000 tấn, 18 USD/tấn cho đơn hàng 30.000 tấn và 15 USD/tấn cho đơn hàng 60.000 tấn.
Một nhà máy khác đã bán hai đơn hàng khối lượng 20.000 tấn, một tới Oman và một tới UAE cùng loại tàu. Lô hàng tới Oman ở mức 328 USD/tấn trọng lượng lý thuyết và giá bán tới UAE ở mức 330-332 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết (321-323 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế).
Một thương nhân Thổ Nhĩ Kỳ cho biết giá ở mức 325 USD/tấn FOB tới các thị trường xuất khẩu với các nhà máy nỗ lực tăng giá lên mức 330 USD/tấn.
Định giá phôi thanh CIS
Platts giảm giá phôi thanh CIS xuống 10 USD/tấn còn 245 USD/tấn FOB Biển Đen.
Một thương nhân cho biết một đơn hàng từ Ukraina tới Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 265 USD/tấn CFR, tương đương mức 250 USD/tấn FOB. Tuy nhiên, thông tin này chưa được xác nhận.
Các nhà máy CIS đang chào bán phôi thanh 130mm tại mức 250-255 USD/tấn FOB, nhưng thị trường thiếu vắng giao dịch đã kéo giá giao dịch xuống mức 245 USD/tấn FOB. Phôi thanh 100mm được Nga chào bán ở mức 242 USD/tấn FOB, thấp hơn giá phôi thanh 130mm.
Trong khi đó, phôi thanh 150mm Iran được chào bán ở mức 260-265 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ trong khi một thương nhân chào bán ở mức 245 USD/tấn FOB.
Đồng Rub Nga suy yếu cùng với giá thu hút từ Iran nên tâm lý thị trường suy yếu hơn nữa trong khi các nguồn tin khác cho biết triển vọng Trung Quốc trở lại thị trường với giá cạnh tranh sẽ khiến thị trường giảm hơn nữa.
Trung Quốc chào bán tại mức 260 USD/tấn CFR nhưng một thương nhân Anh dự báo họ trở lại với giá ở mức 255 USD/tấn CFR tuần tới và không cạnh tranh.