Thổ Nhĩ Kỳ: Giá phế trong nước tăng cùng với giá nhập khẩu
Giá mua phế tháo dỡ từ tàu tính bằng đồng đôla Mỹ và phế ô tô (loại DKP) tính bằng đồng lira của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng trong những ngày gần đây cùng với việc tăng giá của các nhà máy, phù hợp với xu hướng mạnh lên đang diễn ra trong giá phế nhập khẩu. Giá mua phế HMS 1&2 (80:20) mới đây nhất của một nhà máy từ Mỹ trong tuần trước đã đạt mức cao 283 USD/tấn CFR.
Các nhà máy sản xuất thép dài ở miền tây Thổ Nhĩ Kỳ (Ege Celik, IDC, Cebitas, Ozkan) đã nâng giá mua phế HMS từ tàu cũ lên 249-250 USD/tấn trong ngày thứ Hai, tăng 10 USD/tấn so với tuần trước đó.
Giá mua phế loại DKP bằng đồng lira của các nhà máy cũng tăng mạnh thêm trong những ngày gần đây.
Nhà máy Eregli thuộc Erdemir Group nằm ở miền bắc Thổ Nhĩ Kỳ đã bắt đầu mua phế loại DKP với giá 975 TRY/tấn (269 USD/tấn) tính tới ngày 16/2, tăng 25 TRY/tấn (79 USD/tấn), trong khi nhà máy Iskenderun của tập đoàn này ở miền nam mua phế cùng loại với giá 965 TRY/tấn (266 USD/tấn) hôm thứ Hai, cũng tăng đáng kể 45 TRY/tấn (12,5 USD/tấn) so với tuần trước đó.
Giá mua cho DKP tại một trong những nhà máy dùng lò hồ quang điện lớn nhất nước, Colakoglu, cùng với nhà sản xuất thép hợp kim Asil Celik đạt mức lần lượt là 900 TRY/tấn (248 USD/tấn) và 960 TRY/tấn (248 USD/tấn), tính tới ngày 17/2.
Chào giá phôi thanh CIS tăng vọt nhưng thị trường càng kháng cự hơn
Thị trường xuất khẩu phôi thanh CIS vẫn lạc quan hôm thứ Hai với giá chào bán đạt mức cao mới lên tới 410-420usd/tấn FOB Biển Đen, mặc dù giá chào dưới 400usd/tấn FOB cũng đang còn trên thị trường, các nguồn tin thị trường cho biết.
Các nhà sản xuất ở Nga và Ukraine đang dự kiến sẽ chốt nhiều đơn đặt hàng hơn trong tuần này, có thể với giá cao hơn so với tuần trước, một số người tham gia thị trường nói, ghi nhận rằng tâm lý thị trường là tăng bất chấp một ngày ổn định ở thị trường phế.
Một thương nhân ở Trung Đông cho biết không ai trả hơn 390usd/tấn FOB Biển Đen cho đến nay, điều này có nghĩa rằng chào giá mới tăng đến 410usd/tấn FOB và trên vẫn là một mục tiêu khá tham vọng, ngay cả đối với các thị trường Viễn Đông mạnh mẽ, nơi Trung Quốc chào bán trong khoảng 440-445usd/tấn CFR Manila.
Giá thấp hơn vẫn có sẵn từ các thương nhân. Tuần trước, một thương nhân ở châu Âu đặt phôi thanh CIS sang Thổ Nhĩ Kỳ tại mức 398usd/tấn CIF (383-388usd/tấn FOB). Hôm thứ Hai, một thương nhân khác cho biết ông vẫn đang cố gắng để bán tại mức 380usd/tấn FOB Biển Đen, với hy vọng sẽ chốt vị thế của mình. "Nếu Thổ Nhĩ Kỳ mua sẽ rất khó để đạt mức nhiều hơn 395usd/tấn CIF, khoảng 380usd/tấn FOB Biển Đen," một thương nhân người Ukraine nhận xét.
Hôm thứ Hai, chỉ số Platts ổn định đánh giá hàng ngày từ thứ Sáu tại mức 385usd/tấn FOB, một mức trung điểm giữa giá chào bán thấp nhất và giá mua tìm kiếm bởi người mua.
Định giá phôi thanh CIS
Platts định giá xuất khẩu phôi thanh CIS hàng ngày ở mức 385usd/tấn FOB Biển Đen hôm thứ Hai, ổn định từ thứ Sáu.
Một nhà sản xuất Ukraina cho hay giá chào bán đã tăng lên đến 410-420usd/tấn FOB Biển Đen, cho thấy mức tăng thêm 10usd/tấn nữa so với tuần trước. Tuy nhiên phía mua trên thị trường vẫn ổn định, tuy nhiên. Chào giá ở mức 390usd/tấn FOB nhưng vẫn chưa có người đồng ý, theo một thương nhân ở Trung Đông. Một thương nhân ở châu Âu lưu ý rằng ông đã tìm cách chốt mua ở mức 380usd/tấn FOB, nhưng mối quan tâm đó của thị trường ở mức thấp. Một thương nhân người Ukraine nói rằng chào giá ở mức cao nhưng không có giao dịch mới được chốt.
Tại Thổ Nhĩ Kỳ là một nhà kinh doanh sẵn sàng trả tối đa 390usd/tấn CFR Marmara, tương đương với 375-380usd/tấn FOB, một giá dưới mức chấp nhận được đối với các nhà sản xuất. Một thương nhân Thổ Nhĩ Kỳ ước tính rằng dựa vào vào chào giá phôi thanh trong nước là 415usd/tấn xuất xưởng, giá chấp nhận được đối với hàng nhập khẩu không được vượt quá 390usd/tấn CFR cho phôi CIS, mức giá mà ông nghi ngờ rằng bất kỳ nhà máy nào sẽ chấp nhận.
Định giá thép cây Thổ Nhĩ Kỳ
S&P Global Platts định giá thép cây xuất khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 427,5 USD/tấn FOB (425-430 USD/tấn) trong ngày thứ Hai, tăng 2,5 USD/tấn so với thứ Sáu tuần trước.
Một thương nhân tại Thổ Nhĩ Kỳ cho biết chào giá 445-450 USD/tấn FOB, bị phản đối rộng rãi trên thị trường. Ông đánh giá mức thực tế cao nhất là 430 USD/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ.
Các nhà sản xuất vẫn duy trì chào giá ở mức 440-450 USD/tấn FOB Marmara và Izmir. Các nguồn tin thị trường dự báo xu hướng giá đi lên sẽ tiếp tục trong những ngày tới. Một vài thương nhân Thổ Nhĩ Kỳ ghi nhận rằng ngày càng trở nên khó hơn để đặt mua với giá dưới 435 USD/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ trọng lượng thực tế. Một thương nhân khác đưa ra mức giá khả thi nằm trong phạm vi 430-435 USD/tấn FOB. Tuy nhiên, không có giao dịch nào đáng kể được nghe nói trong ngày thứ Hai.
Một người thu mua tại Balkans đã nhận được chào giá 435 USD/tấn FOB nhưng lưu ý đây không phải là mức khả thi vì thép cây trong nước đã được định giá một cách cạnh tranh. Ông đánh giá ngay cả mức 420 USD/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ thì cũng là quá cao đối với thị trường của ông. Một thương nhân ở Lebanon ghi nhận thị trường tại đây trầm lắng với không có sự quan tâm tới chào giá cao từ Thổ Nhĩ Kỳ sau khi đặt mua một lượng lớn thép cây Ukraina với giá 390 USD/tấn FOB Biển Đen vào 10 ngày trước đó.
Platts đã nâng định giá của mình khi một số nguồn tin thị trường đại diện đưa ra mứcgiá khả thi tăng trong bối cảnh nhiều kỳ vọng của xu hướng tăng thêm.
Nucor, NLMK thông báo tăng giá tấm mỏng 30usd/st
Nucor cho biết sẽ tăng giá tấm mỏng 30usd/tấn ngắn hôm thứ Hai. Đây là đợt tăng giá đầu tiên tại thị trường Mỹ kể từ 10/01.
Trong một bức thư gửi cho khách hàng, nhà sản xuất thép này cho biết sẽ tăng giá thép cuộn cán nóng, thép cuộn cán nguội và mạ kẽm tối thiểu là 30usd/tấn ngắn, có hiệu lực tức thì.
NLMK USA cũng tăng giá 30usd/tấn ngắn sau đó cho tất cả các sản phẩm, do nhu cầu tăng, thời gian giao hàng kéo dài và chi phí đầu vào tăng.
Quyết định tăng giá của các nhà máy trong nước trong tháng Một là một nỗ lực để thúc đẩy giá HRC lên đến 640usd/st và hầu hết đều thành công. Vào đầu tháng Hai, một số giao dịch có giá thấp hơn đã được nghe nói đến trong thị trường HRC với mức đáy khoảng 600usd/tấn ngắn. Tuy nhiên, giá phế tháng Hai đã giảm ít hơn dự kiến và thời gian giao hàng kéo dài đã hỗ trợ giúp chào giá các nhà máy ổn định suốt tháng.
Platts định giá HRC và CRC hôm thứ Sáu là 620-630usd/st và 820-840usd/st, tương ứng. Cả hai giá theo cơ sở giá xuất xưởng Midwest (Indiana). Không có định giá cho ngày thứ hai 20/02 Mỹ nghỉ lễ.
Định giá HRC EU
S&P Global Platts đã hạ định giá HRC Bắc Âu bớt 5 EUR/tấn trong ngày thứ Hai xuống mức 565-575 EUR/tấn (599,95-610,57 USD/tấn) xuất xưởng Ruhr.
Các nhà máy Bắc Âu vẫn đang chào giá khoảng 590-600 EUR/tấn; tuy nhiên, các nguồn tin cho biết mức giá thị trường thấp hơn mức đó nhiều. Một người mua tại Đức cho biết ông thậm chí sẽ không mua với giá 570 EUR/tấn, trông khi chào giá nhập khẩu từ Thổ Nhĩ Kỳ hiện nay khoảng 510 EUR/tấn CIF Antwerp.
Tuy nhiên, trên thực tế các nhà máy Châu Âu đã nhận được nhiều đơn đặt hàng và không vội bán. Nhiều nguồn tin giữa bên bán và bên mua nhất trí rằng thị trường gần mức đỉnh khoảng 570-575 EUR/tấn, nhưng không nghĩ là sẽ có một sự điều chỉnh giảm đáng kể. Số khác thì dự báo khối lượng nhập khẩu sẽ giảm cùng với các biện pháp chống bán phá giá và thị trường tiếp tục mạnh lên.
Nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ nâng giá HDG trong nước, HRC vẫn đi ngang
Một doanh nghiệp sản xuất thép cuộn mạ của Thổ Nhĩ Kỳ đã nâng giá bán trong nước cho HDG lên khoảng 15 USD/tấn vào cuối tuần trước, mặc dù nhu cầu tiếp tục chậm chạp. “Chúng tôi đã nhận được chào giá cao hơn từ một nhà sản xuất lớn nằm ở khu vực của chúng tôi hôm thứ Bảy. Tuy nhiên, vì giá của công ty này vẫn còn dưới mức giá niêm yết của các nhà máy khác nên chúng tôi có thể nói rằng đó là một sự điều chỉnh thay vì tăng giá”, giám đốc một trung tâm dịch vụ tại khu vực Marmara cho biết.
“Nhu cầu vẫn còn chậm trên thị trường nội địa, mặc dù biến động tỷ giá hối đoái đang giảm dần trong những tuần gần đây. Những vấn đề dòng tiền mặt vẫn là rắc rối chính cho thị trường. Người mua vẫn đang cư xử một cách thận trọng trong bối cảnh bất ổn tiếp diễn. Dường như chúng ta sẽ không thấy bất cứ sự phục hồi đáng kể nào trong nhu cầu trong nước trước cuộc trưng cầu dân ý của Tổng thống vào giữa tháng 4 tới”.
“Sự cạnh tranh gia tăng do các cơ sở mới được thêm vào cũng đã tiếp tục gây sức ép lên báo giá trong nước của các nhà máy, vì vậy họ đã tập trung nhiều hơn vào thị trường xuất khẩu trong những tuần gần đây”, ông quan sát.
Một chuyên gia bán hàng tại một nhà máy trong nước cũng xác nhận sự thay đổi trong giá niêm yết. “Lần điều chỉnh 10-15 USD/tấn này chỉ là cho giá HDG trong nước, giá này thậm chí vẫn còn thấp hơn giá xuất khẩu của chúng tôi trong những tuần gần đây. Tuy có một sự phục hồi nhẹ về nhu cầu trong nước trong những ngày gần đây, nhưng nhu cầu xuất khẩu, nhất là từ Châu Âu thì cải thiện hơn nhiều so với nhu cầu trong nước”, bà nói.
“Giá HRC tại Thổ Nhĩ Kỳ vẫn còn tương đối ổn định, nhưng nếu các nhà sản xuất HRC nâng giá bán của họ trong những ngày tới vì chi phí đầu vào cao thì chúng tôi có lẽ cũng sẽ buộc phải phản ánh mức tăng này trong giá niêm yết của mình”, bà lưu ý.
Chào giá HDG 0.5mm của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ tới thị trường nội địa là 700-730 USD/tấn xuất xưởng hôm thứ Hai, trong khi HDG dày 1mm có giá 640-670 USD/tấn xuất xưởng.
Trong khi đó, mặc dù giá nguyên liệu cao hơn đã làm tăng áp lực lên báo giá của các nhà máy thép dẹt nhưng các nhà sản xuất HRC trong nước mà muốn tận hưởng nhu cầu xuất khẩu tốt hơn trong những tuần gần đây, vẫn chưa phản ánh mức tăng của giá nguyên liệu vào trong giá niêm yết của họ. Giá HRC trong nước của các nhà máy vẫn còn tương đối ổn định ở mức 520-540 USD/tấn xuất xưởng hôm thứ Hai, trong khi chào giá xuất khẩu là 515-525 USD/tấn FOB.
Thép dài Châu Âu tăng giá đột biến khi thời tiết ấm áp trở lại
Theo nhiều nguồn tin thì thị trường thép dài Châu Âu đã bắt đầu khởi sắc với giá hiện nay đang đi lên.
“Chúng tôi hiện đang tích lũy đà để tăng giá ngay lập tức, trước khi chúng tôi thực sự kỳ vọng. Tại Châu Âu giá cho các sản phẩm thép dài đang đi lên được thúc đẩy bởi phế trong nước”, một nguồn tin từ một nhà máy hàng đầu bình luận. “Sau khi hợp đồng phế tháng 2 được chốt ở mức trung bình giảm khoảng 20 EUR/tấn so với tháng 1 và giá thép thành phẩm đi xuống thì bây giờ để mua thêm khối lượng phế các đại lý trên thị trường giao ngay đang tăng 10-20 EUR/tấn, do thị trường quốc tế với giá phế tới Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng thêm 50 USD/tấn”.
“Trên toàn bộ thị trường quốc tế, từ Trung Quốc tới CIS tới Mỹ, giá phế và nguyên liệu bán thành phẩm đều tăng trong hai tuần qua. Tại thị trường Trung Quốc giá thép cây đã biến động trong vài ngày từ 456 USD/tấn lên 471 USD/tấn. Trung Quốc không xuất khẩu nhiều, nhưng tại Châu Á chúng tôi đã nhìn thấy giá lên 470 USD/tấn CFR các cảng Đông Nam Á, phôi thanh CIS hiện có giá 425-430 USD/tấn CFR. Sự phục hồi của giá thế giới đang duy trì tâm lý tích cực tại Châu Âu với người mua bây giờ sẵn sàng chấp nhận giá cao hơn”, đại diện nhà máy cho biết, ngoài ra sự cải thiện về thời tiết tại Châu Âu cũng đang hỗ trợ tâm lý tích cực.
Một nguồn tin từ một nhà tích trữ lớn ở Hà Lan khẳng định rằng trên thị trường của ông định hướng đã thay đổi và giá đang tăng vọt. “Nếu anh cần mua thép cây bây giờ, anh phải trả với giá 210-230 EUR/tấn giao tới nơi, trong khi mới hôm thứ Năm và thứ Sáu anh có thể mua được với giá chỉ có 190 EUR/tấn giao tới nơi”, ông này lý giải.
“Nhu cầu thép cây đã trì trệ, nhưng bây giờ với thời tiết tốt hơn thì nhu cầu cũng đang trở nên cải thiện hơn và anh có thể thực sự nhìn thấy tâm lý thay đổi. Thời tiết tại châu Âu đang cải thiện và tất nhiên đây là một yếu tố quan trọng để xem xét. Đối với thép thanh thương phẩm và thép hình thì nhu cầu tăng không được tốt như chúng tôi đã chứng kiến cho thép dây và thép cây nhưng nó cũng đã tăng và chúng tôi khá thoải mái về đơn hàng tháng 3 nhận được”.
Theo định giá Platts, giá phế nhập khẩu từ Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng thêm 45 USD/tấn kể từ đầu tháng 2, trong khi thị trường phôi thanh CIS tăng 25 USD/tấn kể từ đầu tháng. Hôm 20/2, định giá của Platts cho thép cây Tây bắc Âu đã tăng 12,5 EUR/tấn lên 462,5 EUR/tấn áp dụng xuất xưởng khu vực Ruhr.
Tokyo Steel duy trì giá niêm yết tháng 3, đợi thị trường bắt kịp mức tăng trước đó
Tokyo Steel Manufacturing, nhà máy mini hàng đầu của Nhật, đã quyết định giữ giá thép cho các hợp đồng tháng 3, công ty cho biết cần thêm ít thời gian trước khi tăng giá lần nữa.
Tokyo Steel cho biết các đại lý đã chấp nhận mức tăng lớn trong phạm vi giá 9.000-13.000 Yên/tấn (80-115 USD/tấn) mà công ty đã thông báo cho các hợp đồng tháng 11, nhưng giá thị trường vẫn chưa theo kịp. “Tùy vào sản phẩm, vẫn còn khoảng cách 3.000-5.000 Yên/tấn giữa giá bán của chúng tôi với thị trường”, giám đốc quản lý Tokyo Steel -Kiyoshi Imamura cho biết.
Do độ trễ 1-2 tháng giữa thời gian đặt hàng và giao hàng nên hầu hết các đại lý và nhà phân phối đã bắt đầu nhận được thép ở mức giá tháng 11 cao hơn vào tháng 1 và hiện nay đang có những cuộc thương lượng khẩn cấp với người mua để thông qua mức tăng. “Chúng tôi hiện nay đang duy trì giá của mình –để các nhà phân phối hoàn tất việc nâng giá của họ và để chuẩn bị cho năm tài khóa mới sẽ bắt đầu từ tháng 4”, ông Imamura giải thích.
Quyết định duy trì giá của Tokyo Steel đồng nghĩa với thép dầm hình H cỡ lớn SS400 sẽ vẫn được niêm yết ở mức 78.000 Yên/tấn cho tháng 3 và HRC SPHC 1.7-22mm vẫn có giá 62.000 Yên/tấn.
Giá thị trường hiện nay cho thép dầm hình H cỡ lớn SS400 vào khoảng 72.000-73.000 Yên/tấn tại Tokyo và thép tấm SPHC 1.6mm sheet (1,219x2,438mm) đang có giá 63.000-65.000 Yên/tấn. Giá thép dầm hình H của Tokyo Steel cao hơn 5.000-6.000 Yên/tấn và HRS cao hơn 4.000-6.000 Yên/tấn.
Về xuất khẩu, ông Imamura cho biết công ty đang nhận được nhiều giá chào mua từ các khách hàng nước ngoài cho HRC khoảng 530-550 USD/tấn FOB, tăng từ 430-540 USD/tấn FOB một tháng trước đó, và 570-590 USD/tấn FOB cho thép dầm hình H, không đổi so với 1 tháng trước. “Chúng tôi đang nhìn thấy sự gia tăng trong yêu cầu, một phần là bởi vì các nhà máy Trung Quốc đã giảm bớt xuất khẩu, nhưng chúng tôi vẫn đang chọn lựa đơn hàng để chấp nhận, thêm vào đó khối lượng xuất khẩu của công ty sẽ không tăng đáng kể. Tokyo Steel dự kiến sản xuất 15.000 tấn HRC để xuất khẩu trong tháng này.
Nhìn chung, sản lượng thép thành phẩm của công ty trong tháng 2 sẽ đạt tổng cộng 175.000 tấn, giảm 5.000 tấn so với tháng 1. Trong số này, sản lượng thép dầm hình H và HRC sẽ lần lượt là 90.000 tấn và 55.000 tấn, và thép tấm là 10.000 tấn.
Toyota tăng giá thép tấm ô tô tới các nhà máy sản xuất phụ tùng
Toyota Motor Corp sẽ thêm 14.000 Yên/tấn (124 USD/tấn) vào giá thép tấm ô tô bán tới các doanh nghiệp sản xuất phụ tùng từ tháng 4 tới tháng 9.
Các doanh nghiệp sản xuất phụ tùng – thành viên của chương trình thu mua tập trung của Toyota- đang được khuyến cáo rằng họ phải trả nhiều hơn cho thép được cấp từ Toyota cho thấy gã khổng lồ ô tô đã thiết lập giá cao hơn với các nhà máy thép trong giai đoạn từ tháng 10/2016 đến tháng 3/2017.
Các đại diện của Toyota Motor và nhà sản xuất phụ tùng Aishin Seiki đã từ chối bình luận về giá hôm thứ Hai, nhưng các thương nhân tại Tokyo đã dự báo là giá tăng. Toyota đã giảm 3.000 Yên/tấn cho giá bán từ tháng 4 đến tháng 9/2016 tới các doanh nghiệp sản xuất phụ tùng nhưng lại duy trì giá cho tháng 10 đến tháng 3.
Một nhà kinh doanh có trụ sở tại Tokyo cho biết các nhà máy liên hợp Nhật Bản đã có ý định tăng giá thép tấm ô tô trong nước lên thêm khoảng 20.000 Yên/tấn trong giai đoạn từ tháng 10/2016 tới tháng 3/2017, do chi phí đầu vào cao hơn chẳng hạn như than đá. “Tôi không nghĩ Toyota chấp nhận tất cả mức tăng của các nhà máy nhưng phải chấp nhận một phần- có khả năng là khoảng 14.000 Yên/tấn. Vì vậy kết quả là công ty đang chuyển giá cao hơn tới các doanh nghiệp sản xuất phụ tùng”.
Một thương nhân khác cho biết mức tăng 20.000 Yên/tấn mà các nhà máy này đang nhắm tới là quá lớn để các nhà sản xuất ô tô chấp nhận. “Nhưng chi phí đầu vào của các nhà máy cũng chắc chắn đã và đang tăng, nên việc yêu cầu giá cao hơn là không thể tránh khỏi. Mức tăng hơn 10.000 Yên/tấn là rất lớn, nhưng tôi nghĩ Toyota đã thỏa hiệp và chấp nhận một mức tăng lớn hơn”.
Thỏa thuận giữa Toyota với các nhà máy liên hợp luôn là một điểm tham khảo cho các cuộc thương lượng với các khách hàng có hợp đồng lâu dài khác chẳng hạn như doanh nghiệp sản xuất thiết bị và đóng tàu. “Các nhà máy đóng tàu sẽ từ chối một mức tăng lớn như vậy bởi vì điều kiện kinh doanh đối với họ xấu hơn. Các doanh nghiệp đóng tàu sẽ cố gắng và giảm bớt mức tăng mặc dù họ sẽ phải chấp nhận một số việc tăng giá để đảm bảo là họ nhận được nguồn cung thép một cách suôn sẻ”.
HRC Châu Á không đổi khi thanh khoản hạn chế
Giá HRC khu vực Châu Á tiếp tục duy trì ổn định trong ngày thứ Hai giữa bối cảnh thiếu hoạt động thị trường. Giá giao sau tăng nhẹ đẩy thị trường giao ngay lên cao hơn.
Platts định giá HRC SS400 3.0mm ở mức 495-500 USD/tấn FOB Trung Quốc, không đổi so với thứ Sáu tuần trước. Thị trường giao ngay Thượng Hải được định giá 3.840-3.860 NDT/tấn (558-561 USD/tấn) xuất xưởng gồm 17% VAT, tăng 30 NDT/tấn so với thứ Sáu tuần trước. Chào giá cho HRC SAE1006 2.0mm từ các thương nhân ở miền đông cho thấy cao hơn 10 USD/tấn so với loại thương phẩm, không đổi từ định giá trước.
Trong khi đó chào giá Ấn Độ được nghe nói từ 505-510 USD/tấn CFR Việt Nam, thấp hơn nhiều so với mức mà người bán Trung Quốc sẵn sàng thỏa thuận. “Hầu hết người mua sẽ không quan tâm về việc liệu nó được chở từ bờ tây hay bờ đông Ấn Độ”, một thương nhân ở miền đông Trung Quốc nói, và thêm rằng “chênh lệch phí vận chuyển chỉ 2-3 USD/tấn”.
Các giao dịch cho thép cuộn chất lượng thương phẩm từ Trung Quốc tới Pakistan được nghe nói khoảng 500-505 USD/tấn FOB, với một giao dịch có giá cao 520 USD/tấn CFR. Giá giao dịch cao hơn có thể là do kích thước lô hàng nhỏ được bán tới Pakistan.
“Thị trường vẫn đang trải qua một thời kỳ ảm đạm”, một thương nhân ở miền đông Trung Quốc cho biết. “Chúng tôi không thể làm gì nhiều ngoài chờ đợi thời điểm tốt hơn”.
Giá thép cây Châu Á tăng do giá Trung Quốc vượt lên mốc cao 4 năm
Giá giao ngay cho thép cây nhập khẩu tại Châu Á được định giá cao hơn trong ngày đầu tuần, khi thị trường giao ngay Trung Quốc có một sự gia tăng mạnh mẽ, cùng với thị trường giao sau tăng vọt. Giá của cả hai thị trường tăng đã dẫn tới nhiều thương nhân và nhà máy Trung Quốc ngưng báo giá. Platts định giá thép cây BS500 đường kính 16-20mm ở mức 435-437 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế hôm 20/2, tăng 2 USD/tấn so với thứ Sáu tuần trước.
Thị trường thép cây Trung Quốc tăng mạnh trong ngày thứ Hai- phần lớn là được hậu thuẫn bởi giá phôi thép Đường Sơn và giá giao sau tại Thượng Hải- đã khiến cho một nhà máy ở miền đông đưa ra chào giá 460 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế, tăng từ 450 USD/tấn FOB vào cuối tuần trước. Trong khi đó, một nhà máy khác báo giá 440 USD/tấn FOB trọng lượng lý thuyết, tương đương 454 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế.
Một nhà tích trữ Singapore cho biết người mua trong nước không vội đặt hàng trong bối cảnh thị trường bất ổn như vậy vì sợ giá rớt đột ngột. Ông dẫn ra một chào giá khác từ một nhà máy ở miền đông Trung Quốc là 450 USD/tấn FOB trọng lượng lý thuyết (464 USD/tấn FOB), và nói rằng vẫn còn một khoảng cách giá lớn rõ rệt.
Người mua trong khu vực có khả năng sẽ dần bị buộc phải trả thêm tiền cho thép cây Trung quốc. Tuy nhiên, hầu hết khách hàng bây giờ đều đang chọn cách chờ đợi bên lề do còn hàng dự trữ mà họ đã mua từ Thổ Nhĩ Kỳ trước đây.
Hôm 20/2, tại thị trường bán lẻ Bắc Kinh, giá giao ngay cho thép cây HRB400 đường kính 18-25mm là 3.680-3.700 NDT/tấn (535-538 USD/tấn) xuất xưởng FOB trọng lượng thực tế, gồm 17% VAT, tăng 135 NDT/tấn so với thứ Sáu tuần trước. Đây là mức định giá cao nhất kể từ ngày 8/3/2013.
Cùng ngày, hợp đồng thép cây giao kỳ hạn tháng 5/2017 trên sàn Shanghai Futures Exchange đã tăng vọt 73 NDT/tấn (2.1%) so với ngày trước đó chốt tại 3.546 NDT/tấn, mức cao nhất kể từ đầu năm 2014.
Hyundai Steel nâng giá bán buôn HRC do quặng sắt tăng
Hyundai Steel sẽ nâng giá bán buôn cho HRC và tấm mỏng thêm 30.000 Won/tấn (26 USD/tấn) có hiệu lực từ tháng 3, đây là lần tăng giá thứ 3 của nhà máy này cho HRC trong nhiều tháng.
Quay lại tháng 12 khi công ty nâng giá tháng 1 và 2, Hyundai lấy lý do chính là do giá than cốc tăng trong vài tháng trước nhưng lần này công ty lại viện cớ giá quặng sắt lên cao trong 1 năm.
“Chúng tôi cần phải nghiêm túc phản ánh mức tăng trong chi phí quặng sắt, chủ yếu là trong năm ngoái”, đại diện nhà máy cho biết. “Xem xét đến tỷ trọng quặng sắt được sử dụng trong việc sản xuất HRC, giá HRC hợp lý sẽ phải gấp đôi so với mức hiện nay”. Tính tới ngày thứ Hai quặng cám 62% Fe IODEX của Platts có giá 93.25-94.25 USD/tấn CFR miền bắc Trung Quốc, hơn gấp đôi so với mức 42-43 USD/tấn CFR hồi đầu tháng 1/2016.
Hiện tại, giá thị trường trong nước cho HRC SPHC 4.5mm của Hyundai đang phổ biến khoảng 770.000 Won/tấn (671 USD/tấn), tăng từ 600.000-620.000 Won/tấn của đầu tháng 1/2016. Hyundai không bao giờ tiết lộ giá niêm yết của mình cho bất cứ sản phẩm nào.
Hồi đầu năm nay, Posco đã nâng giá HRC trong nước từ tháng 1 thêm 120.000 Won/tấn và Hyundai tăng 50.000 Won/tấn cho tháng 1 và mức tương tự cho tháng 2.
Đồng thời, cả hai nhà máy đang lên kế hoạch bảo trì dây chuyền cán nóng bắt đầu từ tháng 3, điều này sẽ dẫn đến khoảng 900.000 tấn sản lượng HRC bị mất. Thời gian bảo trì đã làm dấy lên đồn đoán trên thị trường rằng việc đóng cửa có liên quan tới những nỗ lực của hai nhà máy nhằm đạt được giá HRC cao hơn.
Quả thực, có tin đồn thị trường rằng Posco đặt mục tiêu sớm nâng giá HRC tới các doanh nghiệp sản xuất ống thép trong nước. “Chúng tôi đã nghe nói nhiều tin đồn nhưng vẫn chưa được thông báo vì các cuộc đàm phán giá của chúng tói với Posco thường diễn ra vào cuối mỗi tháng”, đại diện từ một doanh nghiệp sản xuất ống thép lớn cho biết.