Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 21/04/2015

Wugang giảm giá tháng 05 cho tất cả các loại thép dẹt do triển vọng bi quan

Wuhan Iron & Steel (Wugang) đã giảm giá bán trong nước cho tất cả các loại thép dẹt tháng 05 xuống 50-100 NDT/tấn (8-16 USD/tấn) chủ yếu là để phản ánh sự sụt giảm gần đây trên thị trường giao ngay và triển vọng bi quan về tháng 05.

Sau điều chỉnh này, giá niêm yết của Wugang cho HRC Q235 5.5mm còn 2.770 NDT/tấn, CRC Q195 1.0mm là 3.590 NDT/tấn xuất xưởng, và thép tấm Q235 4-20mm còn 2.940 NDT/tấn. Tất cả các giá trên chưa bao gồm 17% VAT.

Thứ sáu tuần trước, Wugang đã giảm giá xuất xưởng tháng 05 do thị trường giao ngay suy yếu. “Giá niêm yết của chúng tôi vẫn còn cao hơn nhiều so với giá giao ngay, nhưng các đại lý của chúng tôi sẽ không bị lỗ do chúng tôi bù tiền cho họ vào cuối mỗi tháng dựa theo mức giá giao ngay”, nhưng ông cho biết thêm là bất cứ sự phục hồi nào cũng khó mà xảy ra vào tháng 05.

Platts định giá HRC Q235 5.5mm ở Thượng Hải trong khoảng 2.340-2.370 NDT/tấn, hôm thứ Hai gồm 17% VAT, không đổi so với thứ Sáu tuần trước.

Tuy nhiên, một nhà phân tích ở Thượng Hải tỏ ra khá lạc quan và cho rằng giá thép Trung Quốc có thể chạm đáy và đi lên trong quý 2, hoặc tháng 05 hoặc tháng 06. “Bất kỳ dấu hiệu nào của nhu cầu cải thiện đều có thể đẩy giá thép đi lên nhờ tồn kho hiện nay thấp trên thị trường giao ngay”.

Tính đến ngày 17/4, HRC tồn kho tại 33 thành phố lớn còn tổng cộng 3,08 triệu tấn mặc dù tăng nhẹ 5.600 tấn so với tuần trước, theo nhà cung cấp thông tin ở Thượng Hải, Mysteel. 

 Trung Quốc: Thép cây tăng giá, HRC ổn định sau khi giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc

Thị trường thép ở Trung Quốc chưa có sự phản ứng ngay trước động thái hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc hôm thứ Tư của Ngân hàng trung ương, nhiều người thoạt đầu hoài nghi rằng thanh khoản sẽ được chuyển vào ngành thép. Một vài thương nhân đã dự báo giá sẽ phục hồi trong tháng 05 tới.

Giá giao ngay của thép cây HRB400 đường kính 18-25 mm hôm thứ Hai được chốt ở mức cao hơn 20 NDT/tấn so với thứ sáu lên 2.290-2.300 NDT/tấn xuất xưởng Bắc Kinh trọng lượng thực tế, gồm 17% VAT.

“Động thái cắt giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đã được mọi người kỳ vọng từ tháng 02, điều này sẽ tăng thêm lượng tiền mặt vào thị trường nhưng ngành thép sẽ không có lợi vì các nhà đầu tư không sẵn sàng bơm tiền vào lĩnh vực này”, một nhà phân tích ở Thượng Hải cho biết. Ông dự đoán một đợt cắt giảm lãi suất sẽ diễn ra vào tháng tới.

Một thương nhân ở Bắc Kinh cho rằng sự phục hồi của giá là do nhiều người dự kiến tăng chào giá để thử tâm lý thị trường. Chứ tính đến tháng này, sức mua trực tiếp còn tệ hơn so với cùng kỳ năm ngoái, ông dự đoán nhu cầu sẽ cải thiện trong tháng 05.

Platts định giá giao ngay cho HRC Q235 5.5 mm ở Thượng Hải trong khoảng 2.340-2.370 NDT/tấn xuất xưởng gồm VAT hôm thứ Hai, không đổi so với thứ Sáu. Các thương nhân cho biết nhu cầu vẫn còn suy yếu, nên rất khó lấy cớ để nâng giá. Một số nhà máy đã tìm cách nâng chào giá lên 10 NDT/tấn sau động thái của Ngân hàng trung ương, nhưng điều này không được các thương nhân chấp nhận.

Ở Lecong tỉnh Quảng Đông, giá giao ngay giảm 40 NDT/tấn so với tuần trước cho thép có thông số kỹ thuật như trên xuống còn 2.480-2.520 NDT/tấn xuất xưởng, cũng do nhu cầu suy yếu. Hai thương nhân ở Thượng Hải và Lecong nghĩ rằng giá HRC sẽ phục hồi vào tháng 05 do kỳ vọng nhu cầu cải thiện.

Trên sàn Shanghai Futures Exchange, hợp đồng thép cây và HRC tháng 10 giảm lần lượt 40 NDT/tấn tức 1,4% và 34 NDT/tấn tức 1,3% còn tương ứng 2.279 NDT/tấn và 2.366 NDT/tấn hôm thứ Hai. 

Tokyo Steel duy trì giá niêm yết trong nước cho tháng 05 

Tokyo Steel Manufacturing sẽ duy trì giá niêm yết trong nước cho những hợp đồng tháng 05, đánh dấu tháng thứ 6 liên tiếp nhà máy mini này không thay đổi giá. Tokyo Steel nhận thấy nhiều dấu hiệu phục hồi của nhu cầu đã bắt đầu xuất hiện nhưng không cho biết công ty có ý định tăng sản lượng trong kỳ nghỉ sắp tới.

Vì vậy, giá thép dầm hình H SS400 cỡ lớn của Tokyo Steel vẫn duy trì mức 77.000 Yên/tấn (647 USD/tấn), còn HRC SPHC 1.7-22 mm có giá 63.000 Yên/tấn (529 USD/tấn), cả hai đều không đổi kể từ những hợp đồng tháng 11.

Giám đốc công ty Kiyoshi Imamura trao đổi với truyền thông hôm thứ Hai rằng nhiều dự án xây dựng thuộc lĩnh vực tư nhân đã được lên kế hoạch, nhất là gần Tokyo, vì nền kinh tế Nhật Bản dường như đã chạm đáy. “Chúng tôi dự đoán cân bằng cung cầu dành cho thép dài sẽ tự điều chỉnh sau Tuần lễ Vàng (Golden Week), và thép dẹt sẽ diễn ra trong quý này hay quý tới bởi vì các nhà sản xuất bắt đầu cắt giảm sản lượng từ tháng này.

Tokyo Steel hiện đang nhận được giá đặt mua cho thép dầm hình H từ những khách hàng nước ngoài là 520-540 USD/tấn FOB, giảm 10-30 USD/tấn so với 1 tháng trước, HRC có giá 410-460 USD/tấn, giảm 10 USD/tấn so với tháng 03. Nhưng Imamura miêu tả hoạt động kinh doanh xuất khẩu rất trì trệ vì giá bán thấp.

Tokyo Steel dự kiến sẽ sản xuất 175.000 tấn thép thành phẩm trong tháng này. Trong đó, sản lượng thép dầm hình H sẽ đạt 80.000 tấn, HRC khoảng 60.000 tấn (50.000 tấn để cung cấp trong nước), thép tấm vẫn duy trì mức 15.000 tấn.

Như thường lệ, các nhà máy mini Nhật Bản tăng cường sản xuất trong tuần nghỉ lễ để tranh thủ hưởng giá điện giảm ngoài giờ cao điểm. Nhưng Imamura xác nhận hôm thứ Hai rằng Tokyo Steel sẽ không tăng sản lượng trong tuần nghỉ lễ sắp tới để ưu tiên cho việc đạt được cân bằng cung cầu. 

Thị trường HRC và CRC Mỹ khởi đầu im ắng

Thị trường HRC và CRC Mỹ đã bước vào tuần mới với khởi đầu trì trệ và hầu như không có thay đổi gì so với cuối tuần qua.

Platts vẫn duy trì giá HRC và CRC hàng ngày tại mức 445-455 USD/tấn và 570-590 USD/tấn xuất xưởng Midwest (Indiana).

Người mua vẫn chỉ giữ xu hướng thu mua đủ dùng. Gía CRC và tấm nhúng nóng đạt mức 560 USD/tấn trong khi giá sàn HRC tại Midwest là 440 USD/tấn. 

Một nhà máy Midwest cho biết đã đặt mua vài đơn hàng CRC trong tuần qua với khối lượng dưới 100 tấn, với chênh lệch giá chào bán giữa các nhà máy là 40 USD/tấn. Một nhà máy tích hợp chào bán tại mức 600 USD/tấn cho CRC trong khi một nhà máy khác chào bán tại mức 560 USD/tấn. Trong khi đó, thị trường cũng có giá chào bán HRC dưới mức 440 USD/tấn.

Giá thép không gỉ giao ngay của Trung Quốc tiếp tục lao dốc do cầu yếu 

Giá giao ngay của thép cuộn không gỉ austenite và ferrite ở thị trường Phật Sơn, tỉnh Quảng Đông tiếp tục giảm trong hai tuần qua do lực cầu trì trệ và nguồn cung dư thừa.

HRC loại 304 dày 3mm và CRC 304 dày 2mm có giá lần lượt là 13.300-13.500 NDT/tấn (2.145-2.177 USD/tấn) và 14.000-14.100 NDT/tấn hôm 20/4. Mức giá này thấp hơn một chút so với hôm 01/4, khi giá hai loại thép này ở mức lần lượt 13.400-13.800 NDT/tấn và 14.200-14.600 NDT/tấn.

Giá ferrite bị kéo xuống thấp hơn 200-250 NDT/tấn trong hai tuần qua do sự sụt giảm trong giá austenite, quặng sắt và phế. CRC loại 430 dày 2mm có thể được giao dịch ở mức 7.750-7.900 NDT/tấn hôm 20/4.

 “Mọi người đang thận trọng về việc thu mua do giá niken giảm. Triển vọng về nhu cầu và giá vẫn còn ảm đạm trong thời gian tới”.

Thế nhưng đại diện một nhà máy ở miền nam cho biết giá thép không gỉ có lẽ sẽ sớm được hỗ trợ do các nhà cán lại có thể sẽ bắt đầu cắt giảm hay ngưng sản xuất vì khoảng cách giữa giá HRC và CRC thu hẹp lại, do giá HRC không giảm nhiều như CRC. “Nguồn cung sẽ giảm khi các nhà cán lại bắt đầu giảm sản lượng. Và nếu nhu cầu tăng một cách đột ngột thì giá thép không gỉ có lẽ sẽ phục hồi”.

Giá giao dịch chính thức bằng tiền mặt của niken trên sàn London Metal Exchange từ 12.725-12.730 USD/tấn hôm 17/4, dao động từ 12.200-12.900 USD/tấn kể từ đầu tháng 04. 

Định giá phôi thanh CIS

Platts định giá phôi thanh tại mức 370 USD/tấn FOB Biển Đen trong ngày thứ 2, bình ổn so với ngày trước đó.

Thị trường không có nhiều biến động với giá chào không đổi so với tuần trước. Một thương nhân Bắc Phi cho biết giá chào từ Nga cho các lô hàng tháng 5 đạt mức 395-400 USD/tấn CFR Tunisia, tương đương mức 370-375 USD/tấn FOB Biển Đen nhưng người mua chuẩn bị trả thấp hơn 10 USD/tấn. 

Tại Ai Cập, vài đơn hàng được chốt tại mức 390-393 USD/tấn CFR Alexandria, tương đương mức 368-373 USD/tấn FOB.

Đài Loan: Feng Hsin lại giảm giá thép cây trong nước  

Feng Hsin Iron & Steel đã giảm giá bán trong nước cho thép thanh chịu lực xuống thêm 200 Đài tệ/tấn (6 USD/tấn) trong tuần này do giá phế thế giới thấp hơn.

Giá niêm yết trong nước của nhà máy này cho thép cây đường kính 13mm giảm còn 14.300 Đài tệ/tấn (461 USD/tấn) xuất xưởng Taichung áp dụng từ thứ Hai.

Công ty cũng đã hạ giá niêm yết vào tuần trước xuống 200 Đài tệ/tấn, và giá đã giảm tổng cộng 400 Đài tệ/tấn trong hai tuần liên tiếp.

Feng Hsin cũng đã giảm giá mua phế xuống 200 Đài tệ/tấn còn 6.800 Đài tệ/tấn thứ Bảy tuần trước. Công ty chủ yếu mua phế HMS 1&2 80:20.

Hôm thứ sáu tuần trước, giá nhập khẩu vào cảng Đài Loan của phế 80:20 giảm 4 USD/tấn so với tuần trước còn 230 USD/tấn CFR, theo The Steel Index. 

Đồng dolla và giá nguyên liệu thô hỗ trợ giá thép cây Thổ Nhĩ Kỳ

Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng giá thép cây trong nước và xuất khẩu trong mấy ngày gần đây, do đồng Lira, giá phế nhập khẩu và phôi thanh tăng trong bối cảnh tiêu thụ tương đối tốt.

Gía niêm yết thép cây 12-32mm nhìn chung đạt mức 1.435-1.460 TRY/tấn xuất xưởng trong thứ hai, tương đương mức 450-460 USD/tấn chưa tính VAT 18%, cao hơn 10-15 USD/tấn so với đầu tuần trước.

Gía bán mới của Kardemir có thể được chấp nhận trên thị trường, đạt mức 1.228 TRY/tấn (456 USD/tấn) xuất xưởng ngày 16/04, tăng mạnh thêm 80 TRY/tấn so với giá niêm yết ngày 24/3.

Gía thép cây 8-12mm từ các nhà môi giới cũng tăng lên mức 1.440-1.460 TRY/tấn tại Iskenderun trong khi giá tại khu vực Marmara đạt mức 1.470-1.490 TRY/tấn trong ngày thứ hai.

Nhu cầu tiêu thụ trong nước dần tăng nhưng tiền mặt thiếu hụt tiếp tục kìm hãm giao dịch trên thị trường.

Nhu cầu tiêu thụ từ các thị trường ngoài nước tương đối tốt trong mấy ngày gần đây mặc dù thấp hơn dự báo. Các nhà xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng giá chào bán thêm 5-10 USD/tấn trong mấy ngày gần đây dựa vào chi phí sản xuất tăng, đạt mức 440-450 USD/tấn FOB nhưng người mua chưa chấp nhận giá này. Platts định giá thép cây xuất khẩu tại mức 437.50 USD/tấn FOB trong ngày thứ hai.

 Định giá HRC EU

Platts vẫn giữ giá HRC Tây Bắc Âu bình ổn tại mức 407.50 Euro/tấn xuất xưởng Ruhr.

Các nguồn tin Benelux cho biết thị trường có giá 400-410 Euro/tấn nhưng tại Đức, gái đạt mức 405-410 Euro/tấn và 410-415 Euro/tấn.

Gía chào HRC Trung Quốc đạt mức 380-385 Euro/tấn CIF Antwerp nhưng không thu hút do thời gian giao hàng dài.

Gía thép cuộn Châu Âu bình ổn, giá CRC nhập khẩu cạnh tranh

Gía thép cuộn Châu Âu bình ổn trong 2 tuần qua do tâm lý thị trường vẫn xáo trộn và giá quặng thấp.

Gía HRC Bắc Âu vẫn ở mức 405-410 Euro/tấn xuất xưởng, và tại Nam Âu, giá đạt mức 385-390 Euro/tấn xuất xưởng. Thời gian giao hàng 6-7 tuần.

Tại Ý, Arvedi vẫn bán cao hơn Ilva 10 Euro/tấn  do Arvedi dựa vào giá phế đang tăng. Trong khi đó, nhà máy Cremona đang cân bằng giá nguyên liệu thô dựa vào giá gang thỏi suy yếu sau khi thâu tóm nhà máy Servola từ Lucchini. 

Nhập khẩu đã không ảnh hưởng tới thị trường HRC nhưng khối lượng CRC nhập khẩu khá lớn trước sự suy yếu của giá thép từ Trung Quốc. CRC nhập khẩu đạt mức 440-445 Euro/tấn CIF Ý và 490-500 Euro/tấn CIF cảng Bắc Âu giao tháng 9 trong khi giá xuất xưởng là 475-480 Euro/tấn xuất xưởng từ các nhà máy Nam Âu.

Gía xuất khẩu thép cây TNK bình ổn, chênh lệch giá chào bán-mua mở rộng

Gía xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ bình ổn trong ngày thứ hai, tiếp tục xu hướng bình ổn nhiều tuần trước. Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đang tìm cách tăng giá xuất khẩu dựa vào giá phế tăng, tuy nhiên, người mua không sẵn sàng chấp nhận giá tăng do thị trường thép thành phẩm vẫn ổn định và giá quặng xuống dưới 50 USD/tấn.

Gía chào từ các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đạt mức cao 455 USD/tấn, tăng 10 USD/tấn theo giá phế. Platts định giá phế HMS nhập khẩu vào Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 267.50 USD CFR Thổ Nhĩ Kỳ, mở rộng chênh lệch giá phế/thép cây ra mức 170 USD/tấn, dưới mức lợi nhuận 180 USD/tấn của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ.

Gía các đơn hàng gần đây từ Thổ Nhĩ Kỳ tới UAE cách đây 1 tuần có giá 435 USD/tấn CFR, 438 USD/tấn và 440 USD/tấn trọng lượng lý thuyết, tương đương giá 427.50 USD/tấn, 431 USD/tấn FOB và 433 USD/tấn FOB trọng lượng lý thuyết. Chi phí vận chuyển là 25 USD/tấn tới Dubai và chênh lệch giá trọng lượng lý thuyết và trọng lượng thực tế 4.3%. Khoảng 25.000-30.000 tấn thép cây đã được bán.

Một nhà máy lớn cũng bán thép cây tới Mỹ với giá 453-454 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết, tương đương mức 455-450 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế tùy thuộc vào khối lượng đơn hàng.

Platts định giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ tại mức giá 437.50 USD/tấn trong ngày thứ hai, bình ổn so với thứ sáu tuần trước do khối lượng mua vào khác nhau và chênh lệch 30 USD/tấn giữa giá chào bán và dự thầu.