Giá xuất khẩu phế khối lượng nhỏ Mỹ vào Đài Loan tăng hơn nữa
Gía xuất khẩu phế khối lượng nhỏ Mỹ vào Đài Loan đã tăng hơn nữa trong ngày hôm qua dù áp lực dài hạn từ sự suy yếu của giá phôi thanh Trung Quốc.
Giá chốt phế đạt mức 183 USD/tấn CFR Đài Loan cho phế HMS từ mức 178-180 USD/tấn. Gía chào bán từ Mỹ đạt mức cao 185-190 USD/tấn.
Các nhà xuất khẩu phế Mỹ tăng giá chào cho nguyên liệu mới lên mức cao 157-160 USD/tấn FAS sau khi lượng phế tại cảng giảm 15-20% trong tháng này. Tuy nhiên, khối lượng phế giao dịch cũng giới hạn.
Platts định giá phế HMS 80:20 tại mức 150-160 USD/tấn FAS cảng LA, tăng 10 USD/tấn so với ngày trước đó.
Giá chào phôi thanh Trung Quốc giảm còn 295 USD/tấn CFR Đài Loan vẫn đang làm suy yếu triển vọng thị trường phế.
Chưa có đơn hàng lớn nào được chốt tại mức 220 USD/tấn CFR do đây là giá quá cao cho các nhà máy Hàn Quốc.
Giá thép cây Thổ Nhĩ Kỳ xuất khẩu tới Mỹ giảm trở lại
Gía thép cây Thổ Nhĩ Kỳ xuất khẩu tới Mỹ giảm trở lại trong tuần này do các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ không hài lòng với lượng đơn hàng hiện tại. Platts cũng giảm giá thép cây nhập khẩu xuống còn 413-424 USD/tấn CIF Houston từ mức 424-430 USD/tấn.
Nếu Thổ Nhĩ Kỳ muốn thu được nhiều hơn hàng hơn nữa thì họ phải giảm giá. Gía chào trong ngày thứ năm là 410 USD/tấn CFR Houston giao tháng 11 nhưng các thương nhân Mỹ không đặt hàng vì cho rằng giá không thể tăng thậm chí nếu phế có tăng giá.
Một thương nhân khác cho biết đã mua thép cây tuần này với giá thấp hơn 410 USD/tấn CFR Houston. Gía vẫn giảm dù các nhà máy nỗ lực tăng giá.
Thị trường HRC Mỹ suy yếu
Thị trường HRC Mỹ tiếp tục đón nhận các cảnh báo về khả năng hỗ trợ giá thép hiện tại mặc dù vài người cho rằng giá bình ổn.
Một trung tâm dịch vụ Midwest cho biết nhu cầu tiêu thụ không đi đúng hướng và các kiện chống bán phá giá gần đây không ảnh hưởng ngay lên sức mua. Theo ông thì định giá 460-470 USD/tấn cho HRC của Plattts là quá cao do giá mua tuần qua của ông cho đơn hàng dưới 500 tấn là 450 USD/tấn.
Trong khi đó, một trung tâm khác cho biết vẫn có cao hơn và thấp hơn mức giá Platts ngoài thị trường do chênh lệch chào bán giữa các nhà máy mini và các nhà máy tích hợp. Ông cho biết giá giao ngay HRC dao động tư 450-480 USD/tấn nhưng chủ yếu là 450-470 USD/tấn.
Tuy nhiên, giá HRC giao ngay vẫn chưa giảm dưới mức 460 USD/tấn trừ khi trên 500 tấn. Platts vẫn giữ giá HRC và CRC tại mức 460-470 USD/tấn và 580-590 USD/tấn xuất xưởng.
Thép cây Châu Á không đổi trong tuần thứ hai liên tiếp
Giá thép cây nhập khẩu tới Châu Á duy trì ổn định trong tuần thứ hai liên tiếp nhưng hoạt động thu mua vẫn còn chậm. Người mua cho biết do họ đã tích trữ đủ hàng và cũng vì suy đoán giá thậm chí sẽ còn thấp hơn vào thời gian tới.
Platts định giá thép cây BS460/HRB400 đường kính từ 16mm trở lên không đổi so với tuần trước và giữ ở mức 287-293 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế.
Ở Hong Kong, một số giao dịch được ký kết với giá khoảng 305 USD/tấn CFR trọng lượng thực tế, tương đương tầm 292 USD/tấn FOB với phí vận chuyển trung bình cỡ 13 USD/tấn. Mức giá có thể giao dịch hiện giờ vẫn còn phổ biến từ 300-305 USD/tấn CFR, nhưng một số người mua đã đặt mục tiêu mức giá thậm chí còn thấp hơn, dưới 300 USD/tấn CFR.
Một nhà tích trữ ở Hong Kong cho biết người mua đã bớt quan tâm do họ đã tích trữ đủ hàng, ngoài ra còn do họ bi quan về triển vọng giá của Trung Quốc.
Tại Singapore, thép thanh Trung Quốc tuần này có giá dưới 300 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết, tương đương 294 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế, sau khi trừ đi phí vận chuyển 15 USD/tấn và dung sai khối lượng 3%. Chào giá phổ biến 300-310 USD/tấn CFR, với mức giá sàn thường được các thương nhân chào bán còn giá trần là từ các nhà máy.
Một nhà tích trữ khác cũng đã đặt mua thép cây Trung Quốc trong tuần này với giá rất hấp dẫn. Tuy ông từ chối tiết lộ giá giao dịch chính xác nhưng cho biết thật khó để mua với giá 295 USD/tấn CFR trực tiếp từ các nhà máy cho đợt đặt hàng này.
Việc thu mua thép cây ngưng lại ở miền bắc Trung Quốc do Bắc Kinh bắt đầu kiểm soát giao thông nghiêm ngặt
Giá thép cây ở miền bắc Trung Quốc ổn định trong ngày thứ Năm, do hoạt động thu mua rơi vào tình trạng trì trệ khi các biện pháp kiểm soát giao thông ở Bắc Kinh được áp dụng, vì chính phủ tìm mọi cách để đảm bảo bầu không khí trong lành khi tổ chức hai sự kiện quốc tế quan trọng.
Platts định giá thép cây HRB400 đường kính 18-25mm ở Bắc Kinh duy trì mức 2.070-2.080 NDT/tấn (324-325 USD/tấn) xuất xưởng, trọng lượng thực tế và gồm 17% VAT.
Việc thu mua cho các công trình xây dựng đã ngưng trệ do việc kiểm soát chặt chẽ việc đi lại của xe tải trong thủ đô và hoạt động tại các công trình từ 20/8-4/9.
Định giá phôi thanh CIS
Platts định giá phôi thanh CIS tại mức 317 USD/tấn FOB Biển Đen, giảm 0.50 USD/tấn so với ngày trước đó.
Một nhà máy Ukraina vẫn giữ giá bình ổn tại mức 325 USD/tấn FOB Biển Đen nhưng các khách hàng Thổ Nhĩ Kỳ và Trung Đông chưa sẵn sàng chấp nhận. Các nhà máy phôi thanh CIS do dự giảm giá chào cho MENA. Trong khi đó, dự báo các khách hàng Châu Âu sẽ trở lại thị trường sớm và chấp nhận giá 325 USD/tấn FOB cho phôi tháng 9.
Một thương nhân Thổ Nhĩ Kỳ cho biết phôi thanh CIS có sẵn ở mức giá 330 USD/tấn CIF Thổ Nhĩ Kỳ, tương đương 315 USD/tấn FOB Biển Đen và có thể giảm hơn. Một thương nhân khác cho biết giá 315 USD/tấn FOB là thực tế.
Tâm lý thị trường Biển Đen đã suy yếu hơn nữa trước áp lực từ Trung Quốc, với giá đạt mức 305-308 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ.
Platts đã giảm định giá phôi thanh xuống 50 cents còn 317 USD/tấn FOB do tâm lý thị trường tiếp tục trì trệ. Mặc dù giá 315 USD/tấn FOB là có thể nhưng chưa có giao dịch nào được chốt.
Kyoei Steel duy trì giá thép cây trong nước
Kyoei Steel- nhà sản xuất thép cây lớn nhất Nhật Bản đã quyết định sẽ giữ giá thép cây trong nước không đổi cho những hợp đồng tháng 9. “Chúng tôi chỉ đang ưu tiên cho việc duy trì mức giá hiện nay vào lúc này”, đại diện nhà máy cho biết.
Kyoei không tiết lộ giá niêm yết của mình nhưng ông này cho biết mức giá trung bình mà công ty ký hợp đồng cho thép cây cỡ thường được sản xuất tại nhà máy Hirakata, Osaka tháng này khoảng 52.000 Yên/tấn (419 USD/tấn). Mức giá này giảm 2.000 Yên/tấn so với 1 tháng trước.
Nhà máy kỳ vọng sẽ có sự cải thiện trong đầu tư cơ sở sản xuất từ các công ty tư nhân đang được hưởng lợi từ sự suy yếu của đồng Yên. Nhưng có lẽ sẽ có một vài trì hoãn khi thiếu công nhân xây dựng và mùa hè quá nóng có thể sẽ làm suy yếu giá thị trường. “Việc sản xuất của chúng tôi đã chậm hơn trong tháng 7 và 8 và không có sự thay đổi nào trong cân bằng cung-cầu. Chúng tôi chỉ đang đợi đơn đặt hàng để sức mua trong mùa thu trở nên sôi động”.
Kyoei cho biết đã xuất khẩu khoảng 20.000 tấn thép cây trong quý trước, chủ yếu là tới Mỹ và Canada. “Nhưng chúng tôi không cần phải tăng khối lượng xuất khẩu để duy trì công suất hoạt động bởi vì chúng tôi đã và đang cắt giảm sản lượng. Ngoài ra, tháng trước và tháng này, chúng tôi đã không tin xuất khẩu sẽ tạo ra lợi nhuận và vì vậy chúng tôi đã không tăng cường xuất khẩu”.
Theo số liệu từ Liên đoàn sắt thép được công bố hôm thứ Năm, trong tháng 7, sản lượng thép thanh nhỏ của cả nước (khoảng 90% là thép cây) đạt 7,31 triệu tấn, giảm 5% so với tháng 6 và 4,1% so với năm ngoái.
Ngành xây dựng EU tiếp tục giảm, thép cây rớt theo
Trong tháng 6, sản xuất ngành xây dựng EU giảm 1.1% so với tháng trước trong khi khu vực 19 nước sử dụng đồng tiền Euro giảm 1.9%. Nếu so với cùng kỳ năm ngoái thì sẽ giảm tương đương là 2.3% và 0.4%.
Trong đó, xét theo so sánh hàng tháng thì Romania gia tăng mạnh nhất với 3.55, Bulgaria với 2.6% và Anh với 2.5%. Mức giảm mạnh nhất là Đức với -4.5%, Ba Lan với -4.2%, Thụy Điển với -2.7% và Pháp -2.5 %.
Sản xuất ngành xây dựng EU trong tháng 6/2015 giảm so với tháng 5 do sản xuất trong xây dựng hạ tầng giảm 1.6% và ngành k kỹ thuật dân sự 2.7%. Tại khu vực EU 28, mức giảm 1.1% dựa vào xây dựng hạ tầng giảm 0.9% và 1.1% trong ngành kỹ thuật dân sự.
Các nguồn tin nghi ngờ về triển vọng ngắn hạn của khu vực đồng Euro trong bối cảnh kinh tế chỉ tăng trưởng 0.3% trong Q2 theo ước tính chính thức, chậm chạp hơn Q1. Tuy nhiên, chính sách tiền tệ căng thẳng từ Ngân hàng trung ương Châu Âu dự báo sẽ giúp thúc đẩy tăng trưởng về mặt trung hạn.
Sự suy yếu chung của nganh xây dựng đã được phản ánh vào giá thép cây Tây bắc Âu, với mức giảm 15 Euro/tấn kể từ đầu tháng 6, suy yếu hơn nữa dựa vào sự trì trệ trong hè và tiêu thụ thấp.
Các nước Benelux đã bắt đầu chào bán tại mức giá 420-425 Euro/tấn đã tính phí giao hàng thực tế trong tuần này, giảm từ mức 430 Euro/tấn trước đó. Gía tại Đức hiện tại đạt mức 420-430 Euro/tấn đã tính phí giao hàng thực tế. Platts cũng giảm giá thép cây Châu Âu xuống thêm 2.50 Euro/tấn còn 407.50 Euro/tấn xuất xưởng thực tế.
HRC Châu Á ngưng giảm do người mua rời khỏi thị trường
Đà giảm của giá HRC giao ngay ở Châu Á đã chững lại trong ngày thứ Năm do người mua chọn cách đứng đợi bên lề thị trường vì sợ giá sẽ giảm sâu hơn khi mà sức mua yếu và thị trường Trung Quốc cũng đang ảm đạm.
Platts định giá HRC SS400 3.0mm ở mức 300-306 USD/tấn FOB, bằng với ngày trước đó mặc dù vẫn đang dao động ở mức thấp nhất kể từ khi Platts bắt đầu định giá hồi tháng 01/2006.
Một hợp đồng 15.000 tấn HRC dày 2.0mm từ một nhà máy ở miền đông nghe nói được ký kết với giá khoảng 355 USD/tấn CFR Iran trong tuần này, giao đầu tháng 10. Tuy nhiên, nhiều thương nhân xuất khẩu sang Iran gặp phải trở ngại trong đó có vấn đề về ngân hàng, vì vậy giá xuất khẩu tới đó nhìn chung cao hơn những nơi khác.
Một nhà máy hàng đầu ở đông bắc Trung Quốc với đơn hàng ít ỏi trong tay đã sẵn sàng bán với mức giá chỉ có 300 USD/tấn FOB cho HRC SS400 3.0mm đến những người mua thực sự. Nhà máy này đã chào giá lên đến 322 USD/tấn CFR Hàn Quốc nhưng không thu hút được sự quan tâm nào.
Đối với thép cuộn SAE1006 2.0mm, các lô hàng từ nhà máy Benxi Iron & Steel nghe nói được chào giá 316 USD/tấn CFR Việt Nam, giảm 2 USD/tấn so với ngày trước đó. Tuy nhiên, chào giá của các nhà máy khác vẫn duy trì quanh mức 312-315 USD/tấn CFR Việt Nam.
Thị trường giao sau suy yếu gây ảnh hưởng đến giá HRC giao ngay ở Thượng Hải
Giá HRC giao ngay ở Thượng Hải giảm 20 NDT/tấn (3 USD/tấn) trong ngày thứ Năm, một phần là do thị trường giao kỳ hạn liên tục lao dốc. Platts định giá HRC Q235 5.5mm ở mức 1.980-1.990 NDT/tấn (310-312 USD/tấn) xuất xưởng gồm 17% VAT hôm thứ năm, giảm 20 NDT/tấn so với ngày trước đó.
Trên sàn Shanghai Futures Exchange hôm thứ Năm, hợp đồng HRC giao kỳ hạn tháng 1 chốt tại 2.036 NDT/tấn, giảm 0,78% so với thứ Tư và đây là lần giảm thứ tư liên tiếp trong tuần này.
Niềm tin thị trường đã bị “bào mòn” và giá HRC có thể sẽ tiếp tục lún sâu trong những ngày còn lại của tháng này. Một chủ đại lý ở Thượng Hải đã giảm chào giá xuống 20 NDT/tấn mặc dù doanh số bán ra vẫn ổn bởi vì “chúng tôi không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc phải đi theo xu hướng thị trường”.
Một đại lý khác cho biết nhiều người mua đã tích trữ thêm hàng trong tuần trước khi đà phục hồi xuất hiện. Do đó họ không vội mua khi giá đang rớt liên tục như hiện nay, vì sợ giá sẽ giảm sâu hơn.
Các nhà máy Trung Quốc có thể sẽ đối mặt với sức ép doanh số lớn hơn do ngày càng có nhiều khó khăn trong việc xuất khẩu, một nhà phân tích quan sát thấy và khuyến cáo rằng thép cuộn có thể sẽ ứ đọng trở lại trên thị trường nội địa và tác động xấu đến giá.
Thực vậy, giá HRC xuất khẩu đã giảm khoảng 7 USD/tấn trong tuần qua do đồng nội tệ mất giá ở Trung Quốc và những thị trường xuất khẩu chủ lực như Việt Nam, Ấn Độ và Malaysia. Điều này cùng với những rào cản thương mại ngày càng nhiều từ các nước khác đã khiến việc xuất khẩu thép của Trung Quốc thậm chí còn gặp nhiều khó khăn hơn.
Đồng dolla tăng gây áp lực cho thị trường HDG Thổ Nhĩ Kỳ
Đồng dolla tăng do các bất ổn chính trị và các cuộc xung đột tại Đông Thổ Nhĩ Kỳ đã kìm hãm tâm lý thị trường, gây áp lực cho thị trường thép cuộn.
Giá thép cuộn HDG và PPGI Thổ Nhĩ Kỳ chào bán tới các thị trường trong và ngoài nước vẫn gặp áp lực từ tiêu thụ thấp và giá kim loại mạ thép giảm. Tuy nhiên, vài khách hàng đã bắt đầu tăng hỏi mua trong mấy ngày gần đây do hàng tồn kho giảm xuống mức thấp.
Các nhà máy trong nước vẫn gắng giữ giá niêm yết thép HDG 0.5mm tại mức 610-640 USD/tấn xuất xưởng tuần này trong khi PPGI 9002 0.5mm cũng tương đối bình ổn tại mức 710-740 USD/tấn xuất xưởng.
Trong khi đó, cũng có nhiều khách hàng ngoài nước hỏi mua hơn nhưng thị trường vẫn trong tình trạng cạnh tranh gay gắt nên thị phần của Thổ Nhĩ Kỳ bị thu hẹp.
Giá chào xuất khẩu thấp hơn giá nội địa tầm 15-20 USD/tấn nhưng giá dự thầu từ các thị trường khác vẫn thấp hơn giá chào bán của các nhà máy 20 USD/tấn.
Thép cây xuất khẩu của Trung Quốc khiến giá ở Malaysia lao dốc
Khối lượng thép cây xuất khẩu từ Trung Quốc tới Malaysia cao khiến giá trong nước lao dốc liên tục trong những tháng gần đây.
“Thị trường Malaysia ngập ngụa thép cây Trung Quốc. Giá trong nước đã giảm mạnh, các lô hàng hiện đang buộc phải bán với giá thấp. Với sự mất giá của đồng ringgit, các nhà nhập khẩu hiện cũng đang phải vật lộn với tổn thất ngoại hối.
Thép cây MS 146 đường kính từ 16mm trở lên đã giảm xuống khoảng 1.560 Ringgit/tấn (378 USD/tấn) giao đến bán đảo Malaysia, so với 1.830 Ringgit/tấn hồi đầu tháng 5.
“Giá đã và đang giảm gần như là mỗi ngày kể từ tháng 5”, giám đốc một nhà máy cho biết. Giá tương đối ổn định trước tháng 9 năm ngoái ở quanh mức 2.000 Ringgit/tấn. Nguyên nhân khiến giá suy yếu phần lớn là do thép nhập khẩu của Trung Quốc, mức giá hiện nay chỉ từ 330-340 USD/tấn CFR.
Những người mà đã đặt mua cách đây một đến hai tháng trước sẽ đối mặt với chuyện thua lỗ vì giá thép Trung Quốc lúc đó cao hơn. Ngoài ra, đồng ringgit đã sụt giảm một cách đáng kể và thuế nhập khẩu 5% cho thép cây và cuộn trơn được áp dụng trở lại từ ngày 11/6. “Mọi người hiện giờ đang chần chừ nhập khẩu. Họ muốn đợi hoặc mua thép trong nước”. Ông suy đoán sự bất ổn và đồng Ringgit mất giá sẽ làm hạn chế lượng thép nhập khẩu.
Thép cây và cuộn trơn là hai loại thép xuất khẩu chính của Trung Quốc. Năm ngoái, Trung Quốc đã cung cấp 7,73 triệu tấn thép tới Malaysia, chiếm 34,2% tổng lượng thép nhập khẩu của cả nước, theo Liên đoàn sắt thép Malaysia.
Khối lượng thép nhập khẩu từ Trung Quốc đạt 2,6 triệu tấn trong năm ngoái, tăng 44,8% so với 2013, trong đó gồm 694.700 tấn cuộn trơn và 601.020 tấn thép thanh.