Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 21/9/2017

Thị trường tấm mỏng Mỹ xáo trộn

Các thành viên thị trường đang tự hỏi liệu giá HRC có suy yếu không. Một nguồn tin cho rằng giá chỉ giảm cho các khách hàng lớn tuần trước những người sẵn sàng mua ngay còn lại phổ biến ở mức 620-640 USD/tấn.

Có tin đồn về các giao dịch giá thấp  nhưng cũng có quan nại về giá điện cực, nguyên liệu chịu nhiệt, và bảo trì nhà xưởng trong mấy tháng cuối năm hỗ trợ giá

Có vài đơn hàng gần đây chốt mức 620 USD/tấn nhưng các nhà máy nhìn chung sẽ bán 500 tấn hoặc ít hơn ở giá 610-630 USD/tấn. CRC và thép mạ tầm 800-840 USD/tấn.

Hoạt động kinh doanh ổn định nhưng khó để thấy xu hướng thị trường tới cuối năm.

Các nhà máy chưa sẵn sàng để giá xuyên đáy 620 USD/tấn. Platts vẫn duy trì giá HRC và CRC hàng ngày Mỹ tại mức 620-635 USD/tấn và 790-820 USD/tấn xuất xưởng Midwest (Indiana).

Nguồn cung khan hiếm trợ giá xuất khẩu thép cuộn CIS

Nguồn cung thắt chặt hỗ trợ giá thép cuộn thương phẩm Biển Đen tuần này với vài nhà máy báo cáo đã nhận đủ đơn hàng tới tháng 12.
Không còn nhiều thép có sẵn ở CIS. MMK đang chào thép tháng 11 ở mức 610 USD/tấn FOB Biển Đen còn các nhà máy CIS dự báo vẫn im ắng cho tới sau tuần lễ vàng Trung Quốc (1-10/8).

Một thương nhân Thổ Nhĩ Kỳ cho biết đơn hàng mới nhất từ Nga có giá 620 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ cho 15.000 tấn. Các nguồn tin ước tính giá Nga cao hơn giá nội địa. Một thương nhân cho rằng là đơn hàng giao nhanh và giá HRC giao ngay hiện ở mức 595-600 USD/tấn FOB Biển Đen. Giá CRC rẻ nhất từ Nga tầm 645 USD/tấn FOB Biển Đen.

Nhà máy Metinvest Ukraina đã bán hết thép. Họ sẽ trở lại bán thép tháng 12 chưa không phải 11. Một nhà máy Ukraina tuần qua đã bán HRC tới Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 610 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ (tương đương 593-598 USD/tấn FOB Mariupol). Một thương nhân khác cho biết hoạt động giao dịch chậm.

Platts tăng giá HRC thêm 7.5 USD/tấn lên 597.50 USD/tấn FOB Biển Đen còn CRC tăng 5 USD/tấn lên 642.50 USD/tấn FOB.

Thị trường phế Nam Âu gặp áp lực

Giá phế Nam Âu vẫn tương đối ổn định gần đây nhưng áp lực suy yếu đến từ khách hàng ngoài nước lớn nhất là Thổ Nhĩ Kỳ đang trì hoãn đơn hàng.

Các đơn hàng mới nhất tới Thổ Nhĩ Kỳ  từ một nhà xuất khẩu vịnh Gulf Mỹ chốt mức 347 USD/tấn CFR cho phế HMS I/II, giảm 6 USD/tấn so với đơn hàng trước đó.

Tâm lý thị trường suy yếu trong nước ảnh hưởng tới giá xuất khẩu, gây áp lực cho giá trong khi người mua đã có khá đủ hàng dự trữ.

Tại Ý, giá ổn định mặc dù vài nhà máy đang trả ít hơn 3-5 Euro/tấn. giá giao dịch tuần ở thị trường Tây Ban Nha vẫn ổn định nhưng dự báo giá có thể giảm 10-15 Euro/tấn vào tuần tới.

Một nguồn tin cho biết giá phế Ý nhận được hỗ trợ từ thị trường thép thành phẩm mạnh sau khi Algeria công bố tăng lượng nhập khẩu, cung cấp nhiều cơ hội hơn cho các nhà xuất khẩu. Các không máy không muốn phế giảm quá nhiều để tránh làm thép cây giảm giá. Phế E40 và E8 giao dịch quanh mức 295-305 Euro/tấn.

Tại Tây Ban Nha, phế E40 ở mức 290 Euro/tấn, E8 ở mức 300 Euro/tấn, E1 ở mức 245 Euro/tấn và E3 ở mức 280 Euro/tấn.

Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ dự báo giá nguyên liệu thô giảm nhẹ

Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ có thể không phàn nàn về giá phế giảm tại Hội nghị Irepas tuần tới do họ tìm kiếm động lực hỗ trợ giá thép thành phẩm.
Nhu cầu tiêu thụ luôn tốt hơn ở thị trường giá lên hơn là thị trường giá xuống. Do phế là nhân tố đầu vào quan trọng nhất cho các nhà máy thép cây Thổ Nhĩ Kỳ nên giá nhập khẩu phế giảm mạnh khiến nhiều người mua dự báo giá giảm và gây áp lực cho thép cây.

Phế nhập khẩu dự báo giảm nhẹ 5-10 USD/tấn trong đàm phán với các nhà cung cấp phế thế giới thay vì giảm mạnh. Có vài lô hàng nghe nói ở mức 340-345 USD/tấn CFR trong những ngày tới.

Giá phôi thanh vẫn mạnh ở mức 530-540 USD/tấn xuất xưởng trong nước trong khi chào giá nhập khẩu tương tự dù có tín hiệu suy yếu.

Các nhà máy cho biết giá thép cây tương đối ổn định trong ngắn hạn trong bối cảnh tiêu thụ nội địa và xuất khẩu ổn định, giá điện cực tăng đẩy chi phí đầu vào tăng cộng với giá nội địa tăng tại các thị trường xuất khẩu chính của Thổ Nhĩ Kỳ.

Giá niêm yết thép cây trong nước ổn định tại mức 550-555 USD/tấn xuất xưởng vào hôm qua tùy vào khu vực sau khi tăng 2 ngày đầu tuần do đồng Lira giảm giá.

Giá thép cây chào từ các nhà môi giới ở Marmara cũng tăng 20 TRY/tấn (5.7 USD/tấn) trong những ngày đầu tuần dựa vào đồng Lira suy yếu, lên 2.310-2.330 TRY/tấn (663-668 USD/tấn) đã tính thuế trong khi giá tại các khu vực khác giảm 10-20 TRY/tấn (2.8-5.7 USD/tấn) trong ngày thứ tư.

Tấm mỏng Thổ Nhĩ Kỳ ổn định nhưng HDG có dấu hiệu suy yếu

Giá tấm mỏng Thổ Nhĩ Kỳ tương đối ổn định trong ngày hôm qua sau khi tăng mạnh nửa đầu tháng.
Nhu cầu tiêu thụ có phần suy yếu, nên vài nguồn tin nghĩ rằng giá nội địa và xuất khẩu HDG sẽ suy yếu. Dù vậy, giá HRC nội địa dường như cạnh tranh với giá từ Biên Đen.

Giá niêm yết HRC các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ tầm 625-635 USD/tấn xuất xưởng trong ngày hôm qua cho thép giao tháng 11 với giá giao dịch nhìn chung ở mức 620-625 USD/tấn tùy vào khối lượng và điều khoản thanh toán.

Theo một nguồn tin cho biết, không có lý khi nhập HRC ở mức 610-620 USD/tấn CFR, thậm chí là các nhà máy ống thép đang hưởng lợi từ cơ chế xử lý trong do giá giao dịch trong nước hiện tại là 620-625 USD/tấn trong khi giá chào nhà máy cao hơn 10 USD/tấn. Một trung tâm dịch vụ lớn đang bán HRC nhập khẩu ở mức 610-615 USD/tấn.

Trong khi đó, nhu cầu tiêu thụ cuộn mạ Thổ Nhĩ Kỳ giảm mạnh, đặc biệt là ở thị trường xuất khẩu sau khi giá tăng mạnh 40 USD/tấn trong nửa đầu tháng.

Một nhà máy giải thích rằng giá nhà máy ổn định sau khi tăng giá. Sức mua trong nước tốt hơn so với ngoài nước nhưng chưa phải là mạnh. Do chênh lệch chào giá giữa Thổ Nhĩ Kỳ với Châu Á tới Châu Âu mở rộng nên sức mua cũng suy yếu đi.

Giá niêm yết HDG 0.5mm trong nước ổn định ở mức 845-865 USD/tấn USD/tấn xuất xưởng vào hôm thứ tư trong khi giá niêm yết HDG 1.0mm ở mức 790-800 USD/tấn xuất xưởng. 

Kyoei Steel tăng giá thép cây

Kyoei Steel, nhà máy thép cây lớn nhất Nhật Bản sẽ tăng giá hợp đồng thép cây tháng 10 thêm 3.000 Yên/tấn (27 USD/tấn).

Chỉ vài tuần trước, nhà máy tăng giá hợp đồng tháng 8 thêm 2.000 Yên/tấn và 3.000 Yên/tấn cho tháng 9. Mức tăng này chưa được người mua trả đủ nên nhà máy này tiếp tục tăng giá để cải thiện lợi nhuận.

Giá phế tiếp tục dao động ở mức cao và chi phí đầu vào dự báo tăng trong nửa sau năm tài chính hiện tại (tháng 10-tháng 3). Giá vanadium tăng gấp đôi và chi phí các nguyên liệu phụ như điện cực, chất chịu nhiệt và hợp kim tăng 30%.

Nhà máy cho biết giá thép cây ngoài nước cao hơn nhiều so với giá tại Nhật nên cần tăng giá để bắt kịp giá thế giới.

Kyoei không tiết lộ giá niêm yết nhưng giá thị trường cho thép cây cỡ cơ bản ở Osaka tăng 3.000 Yên/tấn so với tháng trước, lên 59.000-60.000 Yên/tấn (534-543 USD/tấn). Giá tại Tokyo tăng 2.000 Yên/tấn lên 60.000-61.000 Yên/tấn.

Trong ngày thứ ba, Platts định giá thép cây xuất khẩu Trung Quốc ở mức 557-559 USD/tấn FOB. Gía của nhà máy mini Feng Hsin Đài Loan 13mm là 16.900 Đài tệ/tấn (561 USD/tấn) xuất xưởng.

Kyoei cho biết sẽ theo dõi sát sao thị trường để có quyết định nâng giá sau tháng 10.

Một thương nhân thép xây dựng ở Tokyo cho biết tất cả các nhà máy EAF đang cố gắng vật lộn với chi phí sản xuất tăng và cũng phải tăng giá. Nhu cầu tiêu thụ dường như mở rộng sau tháng 10 nên các nhà máy có thể nhận được các đơn hàng lớn hơn.

Thép dây Châu Á giảm do thị trường nội địa suy yếu

Giá thép cây Châu Á giảm trở lại vào hôm qua sau khi tăng nhẹ tuần trước. Giá giảm theo giá nội địa Trung Quốc và người mua xa lánh đơn hàng. Platts giảm giá chào thép dây dạng lưới 6.5mm Trung Quốc xuống 11 USD/tấn còn 579 USD/tấn FOB Trung Quốc.

Tại Thượng Hải, giá giao ngay thép dây Q195 6.5mm giảm 80 NDT/tấn so với tuần trước, còn 4.100 NDT/tấn (624 USD/tấn) xuất xưởng. Các thương nhân cho rằng niềm tin thị trường đã suy yếu sau khi giá giao kỳ hạn liên tục giảm, cộng với sức mua không mạnh như dự báo trong tháng 9 là nguyên nhân chính kéo giá thép giảm. Triển vọng hiện tại bi quan nên nhiều thương nhân tập trung thanh lý hàng tồn kho.

Các nhà máy ở đông bắc chào giá 585-600 USD/tấn FOB cho thép dây SAE1008 6.5mm giao tháng 11, với giá chào tuần trước 615-620 USD/tấn FOB.

Doanh số bán chậm kể từ đầu tuần này và sự bất ổn thị trường tháng 11 khiến các nhà máy giảm chào giá. Chỉ một nhà máy ở miền đông vẫn chào 615 USD/tấn FOB như tuàn trước nhưng giá này không thu hút người mua.

Giá chào từ vài thương nhân cho các đơn hàng giao tháng 10 giảm 5 USD/tấn trong ngày thứ tư, xuongs còn 595 USD/tấn CFR Manila trong khi các khách hàng ngoài nước vẫn im ắng. Một thương nhân ở miền đông báo cáo có một giá chào mua 1.000 tấn thép dây tại mức 590 USD/tấn CFR Manila (tương đương 577 USD/tấn FOB).

Trong khi đó, một nhà máy ở phía bắc chào giá 595 USD/tấn CFR Manila, nhưng không có giao dịch chốt trong ngày. Một thương nhân ở miền đông Trung Quốc cho biết có thể chấp nhận giá 595 USD/tấn CFR (582 USD/tấn FOB) dù không có giao dịch tại mức này.

Trong khi đó, Hebei's Jiujiang Wire Co, một nhà máy được thị trường chú ý đã tăng giá niêm yết tuần vào ngày 19/9 lên 40 NDT/tấn lên 4.030 NDT/tấn xuất xưởng đã tính thuế.

Thép cây Châu Á suy yếu theo tâm lý thị trường

Thép cây Châu Á suy yếu hơn nữa vào hôm qua do các nhà máy Trung Quốc hạ giá chào bán chào bán để bảo toàn đơn hàng sau khi giá giao kỳ hạn và giao ngay trong nước giảm liên tục. Platts giảm giá thép cây BS500 16-20mm xuất khẩu Trung Quốc xuống 4 USD/tấn còn 553-555 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế.

Một lô hàng thép cây 10-32mm Trung Quốc chốt ở mức 560 USD/tấn CFR Hồng Kông trọng lượng thực tế giao tháng 11, tương đương 553-555 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế với phí vận chuyển 10 USD/tấn.

Tại Singapore, các nhà xuất khẩu Ấn Độ hạ giá chào bán thép cây 10-40mm xuống 555 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết giao cuối tháng 10 đầu tháng 11. Họ có thể chốt giao dịch ở mức 550 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết. Trong khi đó, các nhà xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ tìm cách nhận đơn hàng ở mức 560 USD/tấn CFR Singapore trọng lượng lý thuyết.

Một thương nhân cho biết một nhà máy Trung Quốc có ý định bán ở mức 555 USD/tấn CFR Singapore trọng lượng lý thuyết cho thép cây 10-32mm giao tháng 11, tương đương 558-560 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế với 17 USD/tấn phí vận chuyển và 3% chênh lệch khối lượng. Tuy nhiên, người mua trì hoãn đơn hàng vì đã có đủ tồn kho và bi quan về giá thép nội địa Trung Quốc.

Một nhà máy ở phía bắc chào bán ở mức 560 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng lý thuyết cho thép cây 10-40mm giao tháng 11, tương đương 577 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế với 3% chênh lệch khối lượng. Giá có thể giao dịch cho các đơn hàng lớn. Một nhà máy phía đông giảm giá chào xuống 10 USD/tấn từ đầu tuần này xuống 585 USD/tấn CFR Hồng Kông trọng lượng thực tế (575 USD/tấn FOB) giao tháng 11.

Mưa lớn khiến thị trường HRC Ấn Độ suy yếu

Nhu cầu tiêu thụ HRC Ấn Độ suy yếu tuần này do các cơn mưa lớn diễn ra ở phía tây kìm hãm giao dịch. Mọi quá trình giao dịch và giao hàng trong tuần đều bị hạn chế do mưa.
Trong ngày hôm qua, mưa lớn kéo dài suốt 24 tiếng ở các bang phía tây của Maharashtra, Goa và phía tây nam của Karnataka và Kerala, theo Đài khí tượng thủy văn Ấn Độ cho biết.

Platts vẫn duy trì giá HRC IS 2062 3.0mm tại mức 38.500-39.500 Rupees/tấn (599-614 USD/tấn) đã tính phí vận chuyển, tương đương 45.430-46.610 Rupees/tấn đã tính 18% thuế GST.

Mưa lớn kéo dài từ suốt tháng 8-tháng 9 đã làm các hoạt động xây dựng bị chậm lại, giảm nhu cầu tiêu thụ HRC từ các nhà máy cán lại sản xuất tôn lợp mái, thép hình lỗ và thép ống.

Một nhà cán lại cho biết rất lo lắng khi phải mua khối lượng lớn vì động lực thị trường thay đổi đã làm giảm tiêu thụ thép, gồm cả sự suy thoái đồng nội tế tháng 11 năm ngoái, thuế GST tháng 7 vừa qua và mùa mưa.

Tuy nhiên, nhu cầu tiêu thụ từ ngành sản xuất ống thép và xe hơi vẫn ổn đinh.

 HRC Châu Á tiếp tục giảm do các nhà máy giảm giá chào

Các nhà máy Trung Quốc cắt giảm giá chào HRC thêm nữa vào hôm qua do thị trường nội địa suy yếu.
Platts giảm giá chào HRC SS400 3.0mm xuất khẩu Trung Quốc xuống 3 USD/tấn còn 574-576 USD/tấn FOB. Platts cũng giảm giá HRC Q235 5.5mm Thượng Hải xuống 25 NDT/tấn, còn 4.070-4.090 NDT/tấn (619-622 USD/tấn).

Một nhà máy lớn ở đông bắc giảm giá xuống 10 USD/tấn so với thứ ba còn 590 USD/tấn FOB giao tháng 11. Một nhà máy khác giảm chào giá xuống 20 USD/tấn còn 580 USD/tấn FOB giao tháng 11.

Tuy nhiên, các nhà máy khác giữ chào giá ổn định ở mức 600 USD/tấn FOB Trung Quốc.

Một giao dịch 8.000 tấn HRC SS400 chốt trong ngày thứ ba tại mức 570-572 USD/tấn CFR Pakistan. Một giao dịch khác tầm 10.000 tấn chốt ở mức 575 USD/tấn CFR Pakistan.

Đối với thép cuộn SAE, một nhà máy lớn ở đông bắc giảm giá chào xuống 605 USD/tấn từ mức 610 USD/tấn trước đó. Một nhà máy khác cũng giảm chào giá xuống 5 USD/tấn còn 590 USD/tấn CFR Việt Nam.

Một giao dịch chốt ngày thứ sáu tuần trước cho lô hàng SAE1006 20.000 tấn tại mức 592 USD/tấn CFR Việt Nam. Một lô hàng 2.000 tấn cùng loại được bán ở mức 585 USD/tấn CFR Việt Nam hôm qua.