Giá HRC EU ngày 21/01/2019
Định hóa cán cuộn cán nóng hàng ngày EU giảm 2 euro/tấn hôm thứ Hai tại mức 517 euro/tấn (587,78 USD/tấn) xuất xưởng Ruhr.
Một nhà tích trữ đặt giá trị có thể giao dịch tai 515-520 euro/tấn xuất xưởng Ruhr. Các nguồn tin cho biết có thể nhận được mức giá thấp hơn nếu đặt mua khối lượng lớn hơn.
Thời gian giao hàng cho vật liệu giao ngay đã kéo dài đến đầu tháng 3. Một nhà máy được nghe nói là đang chào giá bán vật liệu giao tháng 4. Khối lượng giao dịch vận còn rất hạn chế, theo các nguồn tin.
Giá thép cây và phế nội địa Thổ Nhĩ Kỳ tăng nhẹ
Giá thép cây của các nhà máy và nhà tích trữ Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng nhẹ trong những ngày gần đây, trong bối cảnh giá phế cao hơn mặc dù nhu cầu vẫn chậm chạp ở cả thị trường trong nước và xuất khẩu.
Chào giá bán thép cây của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ cung cấp cho cả thị trường trong nước và xuất khẩu đã tăng lên 450-455 USD/tấn trong những ngày gần đây, tăng từ mức 440-450 USD/tấn vào đầu tuần trước.
Trong khi đó, các nhà tích trữ Thổ Nhĩ Kỳ đã bắt đầu chào giá thép cây 12-32 mm cho thị trường nội địa trong phạm vi 2.820-2.870 lira/tấn, bao gồm 18% VAT vào thứ Hai, tương đương với 450-455 USD/tấn không VAT, cũng tăng khoảng 5 USD/tấn.
Tuy nhiên, nhu cầu xuất khẩu thép cây vẫn chậm kể từ khi một số doanh số bán cho Singapore ở mức khoảng 440 USD/tấn FOB, trong khi nhu cầu trong nước cũng chậm chạp trong bối cảnh nhu cầu của ngành xây dựng Thổ Nhĩ Kỳ sụt giảm. Hầu hết các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đã giảm mức sử dụng công suất trong điều kiện thị trường hiện tại, trong khi họ tập trung nhiều hơn vào việc bán phôi billet thay vì thép cây, như báo cáo.
"Chúng tôi đang tập trung vào việc bán phôi billet trong những tuần gần đây. Chúng tôi đã bán một số khối lượng phôi với giá 415 USD/tấn FOB", một nguồn tin sản xuất thép dài lớn của Thổ Nhĩ Kỳ nói. "Tôi không mong đợi sự phục hồi đáng chú ý trong nhu cầu thép cây nội địa cho đến tháng 3. Một sự phục hồi theo mùa là có thể vào giữa tháng 3, nhưng cho đến khi đó áp lực về giá có thể tiếp tục, trừ khi chúng ta thấy sự phục hồi đáng chú ý trong nhu cầu xuất khẩu." Giá bán xuất khẩu thép cây mới nhất của họ là 440 USD/tấn FOB, ông nói thêm.
Doanh số và sản lượng của các nhà sản xuất thép dài Thổ Nhĩ Kỳ, vốn đã bị tác động tiêu cực bởi sự sụt giảm nhu cầu trong nước và quyết định của Mỹ tăng gấp đôi mức thuế Mục 232 đối với Thổ Nhĩ Kỳ, dự kiến sẽ bị tổn hại hơn nữa với các biện pháp tự vệ thép của EU.
Tuy nhiên, tuyên bố của Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ Recep Tayyip Erdogan tại cuộc họp của Liên hiệp các phòng Thương mại, Công nghiệp, Hàng hải và Trao đổi hàng hóa Thổ Nhĩ Kỳ hôm thứ Hai đã mang lại một số hy vọng cho các nhà sản xuất Thổ Nhĩ Kỳ về thuế thép của Mỹ.
"Chúng tôi đã gọi điện cho Tổng thống Mỹ Donald Trump hôm qua và ông nói rằng khối lượng thương mại giữa hai nước sẽ đạt 75 tỷ USD/năm, từ mức 15 tỷ USD hiện tại", ông Erdogan nói. "Ông cũng lưu ý rằng họ sẽ làm việc với thuế thép chống lại Thổ Nhĩ Kỳ để xem những gì họ có thể làm."
Trong khi đó, một số nhà sản xuất thép lớn của Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng giá mua phế nội địa bằng đồng lira trong những ngày gần đây, phù hợp với sự tăng cường được thấy trong giá phế nhập khẩu tuần trước.
Một trong những nhà sản xuất thép hợp kim lớn nhất của Thổ Nhĩ Kỳ, Asil Celik, đã bắt đầu mua phế DKP với giá 1.630 lira/tấn (305 USD/tấn) vào ngày 21 tháng 1, trong khi giá mua phế extra nội địa của công ty được đặt ở mức 1.500 lira/tấn (282 USD/tấn).
Giá mua DKP cho nhà sản xuất thép lớn nhất của Thổ Nhĩ Kỳ, Colakoglu cũng thay đổi. Công ty này bắt đầu mua phế DKP với giá 1.630 lira/tấn (305 USD/tấn) kể từ ngày 19 tháng 1, và phế extra tại 1.500 lira/tấn (280 USD/tấn), cả hai đều tăng 40 lira/tấn trong tuần.
Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đã tiêu thụ khoảng 30 triệu tấn thép phế mỗi năm và thu mua khoảng một phần ba trong số đó từ thị trường nội địa.
Giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ ngày 21/01/2019
Định giá thép cây xuất khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 442,50 USD/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ vào thứ Hai, không đổi từ thứ Sáu.
Các nguồn tin trong ngành báo cáo rằng thị trường vẫn không thay đổi, với các giá trị có thể giao dịch không đổi từ thứ Sáu. Các giá chào bán đã được xác nhận ở mức 450 USD/tấn FOB, các nhà sản xuất đã báo cáo, chỉ có một nguồn tin báo cáo giá chào bán thấp hơn một chút ở mức 440 USD/tấn FOB.
Không có giá hỏi mua/giá chào bán mới hoặc giao dịch mới được báo cáo trên thị trường.
Giá nhập khẩu phế Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục tăng
Giá của Thổ Nhĩ Kỳ cho phế nhập khẩu được hỗ trợ trong phiên thứ Hai, sau khi các giao dịch mới xuất hiện trong bối cảnh thị trường hạ nguồn chậm chạp.
Định giá nhập khẩu phế HMS 1/2 (80:20) của Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 287,25 USD/tấn CFR hôm thứ Hai, tăng 50 cent/tấn so với thứ Sáu.
Một thương nhân nBaltic được cho là đã bán một lô hàng cho một nhà máy thép ở Izmir, bao gồm 20.000 tấn HMS 1/2 (80:20) với giá 287 USD/tấn, 7.000 tấn vụn ở mức 292 USD/tấn và 5.000 tấn bonus ở 297 USD/tấn, trong một thỏa thuận được thực hiện vào thứ Sáu, theo một số nguồn tin.
"Thị trường có vẻ như đã chạm đáy. Có nhu cầu tốt về nguyên liệu này", một người mua tại Eregli nói.
Với các nhà máy phụ thuộc nhiều hơn vào các lô hàng giao nhanh, điều này đã làm thay đổi cán cân cung-cầu và dẫn đến giá cao hơn, các nguồn tin cho biết.
Đối với một số người tham gia thị trường, việc doanh số bán Baltic cho Izmir cho hàng giao cuối tháng 2 được báo cáo hôm thứ Hai là dấu hiệu mới nhất cho thấy giá quanh mức này không phải là ngoại lệ, bao gồm một thỏa thuận giao nhanh có nguồn gốc từ Canada trong tuần trước, nhưng báo hiệu một chỉ báo rộng hơn.
Trong khi nguồn tin nhà máy thép tại Eregli cho biết giá của HMS là khoảng 285-290 USD/tấn CFR, ông cũng dự kiến các giao dịch sắp tới cho lô hàng tháng 2 sẽ tiếp tục giao dịch trong phạm vi này.
"Tôi không nghĩ sẽ còn tăng giá nữa", ông nói và thêm rằng điều này là do không có nhiều cải thiện trong thị trường thành phẩm, với doanh số hạn chế cả trong nước và thị trường xuất khẩu.
Mặc dù thị trường hạ nguồn ổn định, tuy nhiên, phía người bán dường như đang mong đợi giá cao hơn trong những ngày tới, vì một số lô hàng trên thị trường đã có sẵn, nhưng chưa được cung cấp, theo một số nguồn tin.
Theo một đại lý Thổ Nhĩ Kỳ, các nhà tái chế Mỹ hiện chỉ xem xét doanh số trên 290 USD/tấn CFR, trong khi lời chào giá Baltic được nghe thấy ở mức 300 USD/tấn CFR.
Cũng có tin đồn về việc một doanh số bán cho một nhà máy tại Iskenderun với mức giá khoảng 290 USD/tấn. Tuy nhiên, giao dịch không thể được xác nhận.
Hầu như không có hoạt động nào được báo cáo về phía mua. Trong khi 280 USD/tấn CFR vẫn được coi là "hoàn toàn khả thi" bởi nhà sản xuất thép cây Iskenderun thứ hai, giá cao hơn sẽ dẫn đến một tổn thất cho thỏa thuận này. Do đó, một số nhà sản xuất thép dài của Thổ Nhĩ Kỳ vẫn vắng mặt trên thị trường phế.
Một nhà máy lớn ở Marmara được cho là đã giảm lượng mua phế hàng ngày xuống còn khoảng 3.000-4.000 tấn từ 14.000-15.000 tấn, do thiếu nhu cầu về thành phẩm và lợi nhuận sản xuất thu hẹp, một số nguồn tin cho biết.
Sau một giao dịch mới trên thị trường thực và mức giá chào bán cao hơn từ các nhà tái chế, phế tương lai trên sàn London Metal Exchange đã chứng kiến những đà tăng mạnh mẽ đã làm dốc đường cong của cấu trúc contango cho những tháng giao nhanh.
Hợp đồng front-month tháng 2 tăng 7 USD/tấn lên 294,50 USD/tấn, trong khi hợp đồng kỳ hạn tháng 3 ở mức 298,50 USD/tấn, tăng 8 USD/tấn trong ngày. Giá kỳ hạn tháng 4 tăng 4 USD/tấn lên 299,50 USD/tấn.
Phụ phí không gỉ 304 châu Âu đạt mức thấp 17 tháng trong tháng 2
Phụ phí hợp kim hàng tháng cho các loại sản phẩm thép không gỉ cán dẹt ở châu Âu dự kiến sẽ giảm trong tháng thứ bảy liên tiếp vào tháng 2, thông báo của nhà máy đầu tiên chỉ cho thấy hôm thứ Hai.
Outokumpu của Phần Lan, nhà sản xuất lớn nhất lục địa, đã đặt hệ số điều chỉnh hợp kim cho các sản phẩm thép dẹt 304 (4301) ở mức 1.228 euro mỗi tấn (1.394 USD/tấn) cho tháng 2, giảm 46 euro/tấn từ tháng 1 xuống mức thấp nhất kể từ tháng 9/2017.
Phụ phí đã đạt mức cao nhất trong bảy năm, ở mức 1.647 euro/tấn vào tháng 7 trước khi giảm, chủ yếu là do giá niken thấp hơn.
Giá niken ba tháng trên Sàn giao dịch kim loại London Metal Exchange đã giảm trong suốt tháng 12, chạm đáy ở mức thấp nhất trong 15 tháng là 10,530 USD/tấn vào ngày 2 tháng 1, mặc dù kể từ đó thị trường đã quay trở lại trên mức 11.000 USD/tấn.
Đến thứ Sáu, giá thanh toán tiền mặt niken LME trung bình đạt 11.191 USD/tấn cho tháng , tăng từ 10.837 USD/tấn trong tháng 12.
Phụ phí của Outokumpu đối với các sản phẩm thép dẹt molybdenum bearing 316 (4401) được đặt ở mức thấp nhất trong 13 tháng là 1.903 euro/tấn trong tháng 2, giảm 73 euro/tấn so với tháng trước và giảm 21% so với mức cao nhất 7 năm của tháng 7 là 2.416 USD/tấn.
Giá oxit molybden giao ngay đã chịu áp lực giảm mạnh kể từ đầu năm, lần đầu tiên giảm xuống dưới 11 USD/lb kể từ tháng 7 năm ngoái. Định giá oxit molybdenum hàng ngày của Platts ở mức 10,65-10,80 USS/lb Thứ Sáu, giảm từ 12,00-12,10 USD/lb một tháng trước đó.
Phụ phí tháng 1 của Outokumpu đối với các sản phẩm thép dẹt 430 không chứa niken đã giảm 58 eurotừ mức của tháng 1 xuống còn 606 euro/tấn, mức thấp nhất kể từ tháng 9 năm 2017.
Giá chuẩn ferrochrome châu Âu quý 1/2019 đã giảm trong quý thứ ba liên tiếp xuống 112 cent/lb từ mức 124 cent/lb trong trước.
Giá phế nhập khẩu Thổ Nhĩ Kỳ ngày 21/01/2019
Định giá nhập khẩu phế HMS 1/2 (80:20) của Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 287,25 USD/tấn CFR hôm thứ Hai, tăng 0,5 USD/tấn so với thứ Sáu.
Một thương nhân người Baltic được cho là đã bán một lô hàng cho một nhà máy thép ở Izmir, bao gồm 20.000 tấn HMS 1/2 (80:20) với giá 287 USD/tấn, 7.000 tấn vụn ở mức 292 USD/tấn và 5.000 tấn bonus ở mức 297 USD/tấn, trong một thỏa thuận được thực hiện vào thứ Sáu, theo một số nguồn tin trên thị trường. Trong khi một người mua Thổ Nhĩ Kỳ đưa ra giá trị có thể giao dịch khoảng 285-290 USD/tấn CFR, một giá chào bán có nguồn gốc Baltic đã được nghe thấy ở mức 300 USD/tấn CFR vào thứ Hai.
HMS 1/2 (80:20) nguồn gốc Mỹ có thể giao dịch ở mức tối thiểu là 290 USD/tấn CFR, theo một đại lý Thổ Nhĩ Kỳ.
Người mua phôi billet Biển Đen thách thức sự lạc quan của nhà máy
Những người tham gia thị trường phôi billet giao ngay Biển Đen vẫn hoài nghi về đà tăng giá, bất chấp đông lực tăng giá được các nhà máy CIS thúc đẩy sau khi giá phế Thổ Nhĩ Kỳ tăng, các nguồn tin thị trường cho biết.
Định giá phôi billet hàng ngày ở mức 407,50 USD/tấn FOB Biển Đen Thứ Hai, tăng 2,50 USD/tấn so với Thứ Sáu.
Các nhà máy CIS đã tăng giá chào bán trong một động thái chiến thuật vì họ không còn hàng giao tháng 2 và đang thử mức cao hơn cho tháng 3, một nguồn tin thương mại cho biết. "Nếu ai đó có một giao dịch bán mà họ muốn bao đảm, họ phải trả 410 USD/tấn FOB, nhưng không thể thực hiện được gao dịch thứ hai liên tiếp,” theo nguồn tin cho biết.
Việc định giá phôi cao hơn được chấp nhận trên thị trường "cho đến nay vẫn còn khó khăn", một nhà cung cấp Nga cho biết. "Chỉ có phế có vẻ tích cực."
Một nhà cung cấp CIS khác lưu ý sản xuất tháng 2 của mình đã được bán hết và cho sản xuất tháng ba, nhà máy này báo giá 411-420 USD/tấn FOB Biển Đen.
Một nhà sản xuất thứ ba đặt mức giá mục tiêu ở mức 410-415 USD/tấn FOB cho tháng 2, nói thêm rằng giá đang tăng lên. "Làm thế nào CIS có thể là 410-415 USD/tấn FOB nếu phôi Thổ Nhĩ Kỳ là 415 USD/tấn FOB?" một thương nhân châu Âu cho biết.
"Một số thương nhân đang hoảng loạn rằng giá sẽ tăng nhiều hơn và họ có vị thế để chốt, vì vậy họ đã trả mức cao hơn", thương nhân này nói và thêm rằng một số đặt mua gần đây đã được nghe thấy khoảng 410 USD/tấn FOB hoặc cao hơn.
Người mua ở Algeria được báo cáo đã tăng giá hỏi mua lên 438-443 USD/tấn CFR, nhưng thậm chí điều đó có nghĩa là các thương nhân sẽ phải đặt từ các nhà cung cấp CIS ở mức 400-405 USD/tấn FOB để nó thể hiện hữu, một thương nhân cho biết.
Giá phôi billet CIS ngày 21/01/2019
Định giá phôi billet xuất khẩu CIS ở mức 407,50 USD/tấn FOB Biển Đen thứ Hai, tăng 2,50 USD/tấn so với thứ Sáu.
Một nhà máy của Nga cho biết họ đang nhắm mục tiêu 410-415 USD/tấn FOB Biển Đen cho sản xuất tháng 2. Một thương nhân người Ukraine cho biết phạm vi này là có thể cho lô hàng nhanh.
Một nhà sản xuất khác chỉ ra các giá chào ở mức 415-420 USD/tấn FOB Biển Đen, cho sản xuất tháng 3. Phạm vi này được coi là quá cao cho thời gian hàng kéo dài, các nguồn tin khác cho biết.
Một thương nhân ở châu Âu đã báo cáo một giá chào gần đây từ một nhà cung cấp CIS với giá 405 USD/tấn FOB Biển Đen giao tháng 3. Ông từ chối lời giá chào bán cao hơn từ các nhà cung cấp CIS. Một thương nhân khác cho biết tăng giá không được hỗ trợ mạnh mẽ bởi thị trường. Ông đặt mức khả thi ở mức 400-405 USD/tấn FOB. Tuy nhiên, giá cao hơn đã được nghe thấy trong các giao dịch của các nhà giao dịch muốn đóng vị thế của họ.
Tokyo Steel duy trì giá niêm yết thép thành phẩm cho tháng 2
Tokyo Steel Manufacturing, nhà máy thép bằng lò hồ quang điện lớn của Nhật Bản, đã quyết định duy trì giá niêm yết thép thành phẩm cho tháng 2, công ty công bố hôm thứ Hai.
Giá niêm yết của Tokyo Steel cho H-beams cỡ lớn SS400 sẽ vẫn ở mức 89.000 Yên/tấn (813 USD/tấn) và cuộn cán nóng SPHC 1.7-22 mm ở mức 74.000 Yên/tấn. Hầu hết giá niêm yết đã không thay đổi kể từ tháng 3 năm 2018, trong khi giá thép tấm được nâng lên thêm 2.000 Yên/tấn cho các hợp đồng tháng 12.
Kiyoshi Imamura, Giám đốc điều hành của Tokyo Steel, cho biết hôm thứ Hai rằng giá sản phẩm cần phải được nâng lên để bù chi phí đầu vào. Giá niêm yết được duy trì với điều kiện thị trường hiện tại.
Ông nói rằng giá thị trường nước ngoài đã giảm đáng kể từ tháng 11, do cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung nhiều hơn là nguyên tắc cơ bản cung-cầu. "Nhưng chúng tôi hiểu rằng giá thị trường đã chạm đáy, nó có thể bắt đầu tăng sau kỳ nghỉ Tết Nguyên đán", ông nói.
Công ty có kế hoạch sản xuất 205.000 tấn thép thành phẩm vào tháng 1, ít hơn 45.000 tấn so với tháng 12, trong đó có 80.000 tấn H-beams và 90.000 tấn HRC và 20.000 tấn thép tấm. Sản lượng thấp hơn trong tháng 1 là do số ngày nghỉ và bảo trì cơ sở theo kế hoạch trong tháng, giám đốc cho biết.
Tokyo Steel hiện đang nhận được giá hỏi mua từ khách hàng nước ngoài ở mức khoảng 660-670 USD/tấn FOB cho H-beams và 530- 550 USD/tấn FOB cho HRC, không thay đổi so với một tháng trước. Công ty có kế hoạch sản xuất khoảng 10.000 tấn HRC để xuất khẩu trong tháng 1, giảm 30.000 tấn so với tháng 12.
Shagang duy trì giá thép cây và cuộn trơn cho 10 ngày cuối tháng 01
Nhà sản xuất thép thuộc sở hữu tư nhân lớn nhất Trung Quốc, Jiangsu Shagang Group, đã giữ nguyên giá niêm yết cho thép cây và cuộn trơn trong nước bán trong khoảng thời gian từ ngày 21 đến 31 tháng 1 so với 10 ngày trước đó, nguồn tin nhà máy cho biết hôm thứ Hai.
Theo đó, giá của thép cây HRB 400 đường kính 16-25 mm của Shagang sẽ vẫn ở mức 3.880 nhân dân tệ/tấn (572 USD/tấn), bao gồm thuế giá trị gia tăng 16%, nguồn tin cho biết. Đây là lần duy trì giá thứ hai liên tiếp của Shagang trong giá niêm yết của mình.
Shagang cũng giữ giá cuộn trơn ổn định từ ngày 21-31 tháng 1, đưa cuộn trơn HPB300 6,5 mm giữ ở mức 3.980 NDT/tấn, bao gồm VAT, nguồn tin cho biết.
Ngoài ra, nhà sản xuất thép này sẽ bù tiền cho các đại lý của mình 50 NDT/tấn và 30 NDT/tấn cho các đơn đặt hàng trước từ ngày 11 đến 20 tháng 1 lần lượt cho thép cây và cuộn trơn, nguồn tin cho biết.
Hợp đồng thép cây giao tháng 5 trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải đóng cửa ở mức 3.645 NDT/tấn vào thứ Hai, tăng 12 NDT/tấn tức 0,3% so với thứ Sáu tuần trước.
HRC Châu Á ổn định trong bối cảnh giá nội địa Trung Quốc tăng
Thị trường cuộn cán nóng châu Á đã bắt đầu tuần với một sự ổn định, trong khi giá nội địa Trung Quốc tăng lên do nhiều người mua quan tâm.
S & P Global Platts định giá HRC SS400 dày 3 mm không thay đổi so với thứ Sáu tuần trước ở mức 485 USD/tấn FOB Trung Quốc vào thứ Hai. Tính theo giá CFR Đông Nam Á, cuộn cùng loại được định giá ở mức 495 USD/tấn, cũng không thay đổi so với thứ Sáu tuần trước.
Mặc dù nhiều nhà máy Trung Quốc vẫn chưa công bố chào giá xuất khẩu, nhưng tâm lý được hỗ trợ bởi giá cả trong nước tăng và các nhà máy dự kiến sẽ nâng chào giá xuất khẩu trong tuần này, theo các nguồn tin thị trường. Một nhà máy ở phía đông Trung Quốc đã tăng chào giá cho cuộn SS400 lên 495 USD/tấn FOB Trung Quốc cho lô hàng tháng 3, tăng 5 USD/tấn so với tuần trước. Một nhà máy khác ở miền đông Trung Quốc cũng có kế hoạch tăng giá chào bán thêm 5-10 USD/tấn từ mức của tuần trước lên 495 USD/tấn FOB Trung Quốc.
Tuy nhiên, người mua vẫn còn ở bên ngoài thị trường hôm thứ Hai, với giá hỏi mua không thay đổi ở mức khoảng 492 USD/tấn CFR Hàn Quốc. "Chúng tôi đã mời trả giá mua 490 USD/tấn FOB Trung Quốc cho cuộn SS400, nhưng cho đến nay không có người mua nào trả giá ở mức này", một nguồn tin của nhà máy Trung Quốc cho biết.
Đối với cuộn SAE1006, một chào giá cho cuộn SAE1006 của Ấn Độ đã được nghe thấy ở mức 492 USD/tấn CFR Việt Nam, trong khi chào giá cho cuộn cán lại của Trung Quốc đã được nghe thấy ở mức 500 USD/tấn CFR Việt Nam cho lô hàng tháng 3. Tuy nhiên, giá hỏi mua cho cuộn SAE1006 vẫn ở mức 485-490 USD/tấn CFR Việt Nam vào thứ Hai.
Tại Thượng Hải, giá giao ngay của HRC Q235 5,5 mm ở mức 3.670-3.680 NDT/tấn (540-542 USD/tấn) xuất xưởng bao gồm thuế giá trị gia tăng vào thứ Hai, với mức trung bình là 3.675 NDT/tấn, tăng 10 NDT/tấn so với thứ Sáu tuần trước. Trên sàn giao dịch tương lai Thượng Hải, hợp đồng giao tháng 5 đóng cửa ở mức 3.515 NDT/tấn, giảm 3 NDT/tấn.
"Tôi nghĩ rằng không giá trong nước sẽ khó giảm trước Tết Nguyên đán", một thương nhân ở Thượng Hải cho biết thêm rằng các thương nhân trong nước đang tích cực đặt hàng giao tháng 2 và tháng 3 vào thời điểm này.
Thép cây châu Á tiếp tục nhích lên cao hơn do người bán giữ vững chào giá
Giá thép cây châu Á nhích lên vào thứ Hai khi người bán không hạ giá chào bán vì thị trường Trung Quốc đang tăng, trong khi giá tương lai của Trung Quốc đạt mức cao nhất trong hai tháng. Sự quan tâm mua vẫn còn ít do người mua có đủ hàng đặt trước đang chờ bên ngoài thị trường.
S & P Global Platts định giá thép cây BS500 đường kính 16-20 mm ở mức 463 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế hôm thứ Hai, tăng 1 USD/tấn so với ngày thứ Sáu.
Hôm thứ Hai, hợp đồng thép cây trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải đóng cửa ở mức 3,645 nhân dân tệ/tấn (537 USD/tấn), tăng 12 NDT/tấn, tương đương 0,3% trong ngày.
Hợp đồng này đã tăng bốn ngày giao dịch liên tiếp với tổng mức tăng 126 nhân dân tệ/tấn, hai tháng sau khi đạt mức cao 3.729 nhân dân tệ/tấn vào ngày 22 tháng 11 năm 2018.
Tại Hồng Kông, người mua ở đây cho biết thị trường yên ắng do sự quan tâm mua hạn chế. Hầu hết người mua sẽ tìm cách đặt hàng vận chuyển từ tháng 5 đến tháng 6, vì các thương nhân đã đặt đủ hàng để giao tới Hồng Kông vào tháng 3 và tháng 4 cho các hợp đồng tháng tới của họ.
"Người mua sẽ tiếp tục chờ đợi", một người tích trữ thép ở Hồng Kông nói.
Ông ước tính mức giá có thể giao dịch đối với thép cây Ấn Độ ở mức là 465- 470 USD/tấn CFR Hồng Kông trọng lượng thực tế, nhưng không có chào giá hay giao dịch nào được nghe nói vào thứ Hai. Giá hỏi mua cho thép cây 10-40 mm có nguồn gốc Ấn Độ là 465 USD/tấn CFR trọng lượng thực tế cho lô hàng tháng 3 - tương đương với 457 USD/tấn FOB Trung Quốc, giả sử cước vận chuyển hàng hóa 13 USD/tấn sau khi chuẩn hóa chất lượng với thông số kỹ thuật định giá Platts- bị từ chối vào cuối tuần trước, Platts đưa tin trước đó.
Tại Singapore, một nhà chế tạo cho biết một chào giá bán cho thép cây Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 485 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết. Mặc dù có thể thương lượng, nhưng mức giá có thể giao dịch đối với thép cây Thổ Nhĩ Kỳ phải cao hơn so với giá phế đắt hơn, ông nói. Do đó, ông đã nâng hỏi giá của mình đối với lô hàng tháng 4 lên 465 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết (459 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế). "Hầu như bây giờ tất cả mọi người đã mua đủ thép cho tháng ba," ông nói.
Một nhà chế tạo thứ hai có trụ sở tại Singapore cho biết các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đã từ chối giá hỏi mua 460 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết, nhưng ông không nghe thấy chào giá mới nhất cho thép cây Thổ Nhĩ Kỳ hôm thứ Hai.
Một thương nhân miền đông Trung Quốc đã đồng ý rằng mức giá của một người mua Singapore là khoảng 465 USD/tấn CFR tấn trọng lượng lý thuyết, nhưng "họ không thể mua được thép với mức giá này", ông nói.
Hôm thứ Hai, một nhà máy xuất khẩu lớn ở miền đông Trung Quốc đã nâng chào giá của mình thêm 5 USD/tấn lên 490 USD/tấn FOB trọng lượng lý thuyết (50 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế) cho lô hàng tháng ba, theo một nguồn tin của nhà máy.
Tại thị trường bán lẻ Bắc Kinh, giá thép cây HRB400 đường kính 18-25 mm được định giá ở mức 3.830 NDT/tấn (564 USD/tấn) xuất xưởng trọng lượng thực tế hôm thứ Hai, bao gồm thuế giá trị gia tăng 16%, tăng 35 NDT/tấn so với thứ Sáu.