Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 22/02/2017

Ilva tái khởi động báo giá sản phẩm thép dẹt với mức giá cao hơn

Công ty thép lớn nhất của Italy, ILVA ,đã bắt đầu báo giá sau khoảng ba tuần im ắng, đẩy giá sản phẩm thép dẹt tăng lên do chi phí sản xuất cao hơn phù hợp với chào giá của các nhà máy địa phương khác, nguồn tin thị trường cho biết. Hôm thứ Ba công ty này công bố mức giá mới gây ngạc nhiên cho thị trường với thời gian giao hàng ngắn hơn so với dự kiến.
Giá cuộn cán nguội đã được trích dẫn quanh 650-660 €/tấn với hàng giao cuối tháng Tư /tháng Năm, mặc dù giá mục tiêu có thể khác nhau với từng khách hàng theo khu vực, trọng tải, phương thức thanh toán, Cuộn mạ kẽm nhúng nóng được báo cáo là khoảng 680 €/tấn cơ sở xuất xưởng, thấp hơn so với các nhà máy khác có báo giá chính thức khoảng 700 €/tấn cơ sở xuất xưởng. Thời gian giao hàng của ILVA là tháng Năm trong khi các nhà sản xuất khác được báo cáo không thể cung cấp cho đến tháng Sáu/tháng Bảy.
Nguồn tin cho biết rằng chào giá HRC nghe nói ở mức 550-560€/tấn cơ sở xuất xưởng với thời gian giao tháng Sáu/ tháng Bảy, nhưng với công ty này vẫn không muốn bán các sản phẩm này vì muốn bán các sản phẩm đã xử lý hơn nữa như CRC và HDG với lợi nhuận lớn hơn, nguồn tin thị trường cho biết.
Trong vài tuần qua, giá chào mới đã tăng khoảng 20 €/tấn nhưng người mua vẫn đang trong tâm lý chờ đợi bởi vì đã tích trữ trước đó. "Nhu cầu đối với HRC và CRC vẫn còn khá thấp", một nguồn tin nhận xét. Tuy nhiên tất cả các nguồn tin đồng ý rằng việc tăng giá HDG có lẽ có thể đạt được một cách dễ dàng hơn một khi nhu cầu vẫn còn tốt và nguồn cung hạn chế, cũng như do giá kẽm rất cao, một nhà tích trữ nhận xét.
"ILVA là cuối cùng đã đưa ra mức giá mới, họ không xa báo giá các nhà máy khác" một nguồn tin khác nhận xét. "Nhưng đây không phải là giá giao dịch và tôi nghĩ rằng có nhiều dấu hiệu các chỉ tiêu này sẽ đạt được trong thời gian trung hạn, cũng như bây giờ vẫn còn có các nhà sản xuất và các cổ đông trong các cuộc đàm phán đã sẵn sàng để quay trở lại mức giá cũ."
Tuy nhiên, một trong những yếu tố có thể giúp giá tăng lên là hàng nhập khẩu được báo cáo vẫn còn thấp và chủ yếu từ Ấn Độ. Giá HRC được báo cáo khoảng 525-535€/ tấn CIF cảng Italy, CRC vào khoảng 625€/tấn CIF và cho HDG 700€/tấn CIF, đều là hàng giao tháng Tư.
 

Định giá HRC EU

Platts duy trì định giá thép cuộn cán nóng phía bắc châu Âu ở mức 565-575 euro/tấn (596,05-606,60usd/tấn) xuất xưởng Ruhr thứ Ba.
ILVA công bố giá Q2 tại mức 550-560euro/tấn xuất xưởng, nhưng với nguồn cung hạn chế ILVA chỉ muốn bán CRC và HDG. Chào giá chính thức phía bắc châu Âu là khoảng 590-600 euro/tấn; tuy nhiên, ngày càng nhiều người mua nói giao dịch sẽ không được thực hiện tại mức này.
Một người mua ở Benelux cho biết ông không muốn trả nhiều hơn 550-560 euro/tấn cho đến khi ông có thể đảm bảo rằng ông có thể chuyển chi phí đó đến khách hàng của mình. Một thương nhân ở Đức đưa thị trường ở mức 560 euro với hàng nhập khẩu là 510 euro/tấn CIF Antwerp. Tuy nhiên, những người khác cho biết hàng nhập khẩu Thổ Nhĩ Kỳ phổ biến hơn quanh ngưỡng 520-530 euro/tấn.
Một nguồn ghi nhận thời gian giao hàng mở rộng của các nhà máy và nguồn cung thường xuyên hạn chế.
 

Giá thép cây nhập khẩu tới Mỹ tăng khi Thổ Nhĩ Kỳ nâng chào giá

Giá thép cây nhập khẩu tới Mỹ tăng mạnh khi thị trường đợi quyết định thuế chống bán phá giá và trợ giá sợ bộ đối với các nhà sản xuất Thổ Nhĩ Kỳ.
Chào giá nhập khẩu từ Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng lên 500 USD/tấn CFR (460 USD/st CIF) hoặc cao hơn ở vùng Vịnh do các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đã nâng giá để tính đến khả năng áp thuế, một nhà phân phối có trụ sở tại Mỹ cho biết. Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ được cho là đang công thêm khoảng 10% thuế AD vào trong giá bán của họ tới Mỹ.
S & P Global Platts hôm thứ ba nâng định giá thép cây nhập khẩu Mỹ hàng ngày lên 460- 464 USD/st CIF Houston, tăng từ 413- 418 USD/st CIF.
Bộ Thương mại Mỹ dự kiến sẽ công bố quyết định sơ bộ trong vụ điều tra chống trợ giá đối thép cây nhập khẩu từ Thổ Nhĩ Kỳ vào ngày thứ Tư.
Bởi vì cuộc điều tra chống trợ giá bao gồm duy nhất 1 nhà sản xuất nên không rõ liệu nó có ảnh hưởng nhiều đến thị trường hay không, một nhà phân phối khác ở Mỹ cho biết, và nói thêm rằng mức thuế áp dụng 1.25% đã không ngăn được việc nhập khẩu. Tuy nhiên, thị trường đang nóng lòng chờ đợi biên độ thuế AD sơ bộ, sẽ ra vào ngày 28 tháng 2, ông nói.
Những lo ngại về biên độ AD đã che mờ thị trường và giữ mua ánh sáng, theo một nhà kinh doanh, trụ sở tại Mỹ. "Mọi người đang chờ để xem chuyện gì sẽ xảy ra", ông nói.

Đà tăng giá thép cây/phôi thanh Thổ Nhĩ Kỳ tạm ngừng

Các nhà máy thép dài Thổ Nhĩ Kỳ, đã kéo lên giá chào thép cây tăng mạnh trong những tuần gần đây do giá phế nhập khẩu tăng, hầu như duy trì giá chào trong nước và xuất khẩu và vẫn đứng ngoài thị trường phế trong tuần này, nguồn tin công nghiệp nói hôm thứ Ba.
Nhà sản xuất Icdas và Bastug Metalurji đã nâng giá niêm yết bảy lần trong một khoảng thời gian hai tuần, đã duy trì giá niêm yết kể từ cuối tuần trước. Mức tăng trong giá niêm yết thép cây 12-32mm của các công ty này vượt 200 TRY (55usd)/tấn trong thời gian hai tuần và đạt 438usd/tấn xuất xưởng, chưa bao gồm VAT.
Mức tăng trong giá xuất kho cho thép cây 12-32mm của thị trường trong nước Thổ Nhĩ Kỳ, trong khi đó, cũng dường như đã dừng lại trong tuần này. Giá bán của nhà tích trữ ở khu vực Marmara ổn định ở mức 1.880-1.900 TRY/tấn (bao gồm 18% thuế VAT), trong khi giá nhà tích trữ trong khu vực Iskenderun, miền nam Thổ Nhĩ Kỳ, cũng ổn định ở mức 1.840-1.860 TRY/tấn vào hôm thứ Ba.
Trong khi đó, giá phôi thanh của nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ, đã tăng lên đến 405-415usd/tấn xuất xưởng vào thứ Sáu sau doanh số bán đáng kể của Kardemir cho thị trường trong nước ở mức 392usd/tấn xuất xưởng hôm thứ Tư, cũng ổn định trong tuần này.
Chào giá phôi thanh nhập khẩu từ CIS, tăng lên đến 405-410usd/tấn CFR trong những ngày gần đây, được cho là không cạnh tranh, bởi thương nhân Thổ Nhĩ Kỳ.
 

Xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ tăng mạnh trước quyết định chống bán phá giá của Mỹ

Chào giá xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ vẫn duy trì ở mức cao hơn trong tuần này, được hỗ trợ bởi chi phí đầu vào tăng (phế và phôi thép) và sự tin chắc xu hướng giá thép đi lên trong thời gian tới của các nhà máy, bình luận từ các nhà quan sát thị trường được khảo sát bởi Platts.
Hầu hết các nguồn tin đều trông đợi tin tức về biên độ chống bán phá giá sơ bộ đối với thép cây Thổ Nhĩ Kỳ nhập khẩu vào Mỹ, sẽ được công bố vào ngày 28/2. Một thương nhân ghi nhận rằng, sau khi tạm dừng giao dịch sang thị trường Mỹ trong tháng này, các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ nên có hai tháng đặt hàng nếu biên độ chống bán phá giá được xác nhận dưới 5%. Ông dự báo sẽ có tới 250.000 tấn được bán sau ngày 28 tháng hai trong trường hợp có kết quả khoan dung từ cuộc điều tra AD của Bộ Thương mại Mỹ. Hiện nay các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ được cho là đang ngầm định cộng thêm 10% thuế AD vào trong giá bán của họ tới thị trường Mỹ với chào giá cuối cùng được nghe ở mức 500 USD/tấn CNF Houston và đã bị từ chối.
Một số nguồn tin chia sẻ quan điểm rằng, miễn là thép cây và giá phôi thép Trung Quốc tiếp tục giữ ở mức tương đối cao thì triển vọng cho các nhà sản xuất thép cây Thổ Nhĩ Kỳ sẽ khá tích cực. "Tôi không nghĩ Trung Quốc sẽ tham gia vào thị trường xuất khẩu," một nguồn tin giao dịch dự đoán.
Hôm thứ ba báo giá mới cho thép cây của Trung Quốc từ một vài nhà máy đã được nghe nói dao động từ 485-505 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế. Thậm chí chào giá thấp hơn từ Trung Quốc, 454-464 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế đã trở nên kém hấp dẫn khi so với báo giá của Thổ Nhĩ Kỳ tại mức 440-450 USD/tấn FOB, bất chấp sự khác biệt về chi phí vận chuyển.
Một thương nhân ở Trung Đông tin rằng ông vẫn có thể ép các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ bán với giá 425 USD/tấn FOB, vốn đã được ký một vài ngày trước đó. Một nhà máy ở khu vực Marmara lập luận rằng không có nhà sản xuất nào sẽ xem xét bất cứ thứ gì dưới 430 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế. Tuy nhiên, nhà máy này ghi nhận người mua đang dành thời gian của họ để thích ứng với mức giá từ 440 USD/tấn FOB trở lên.
"Có điều gì đó khó hiểu trên thị trường", một thương nhân đã chỉ ra khoảng cách giữa giá của Trung Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ. "Hoặc Thổ Nhĩ Kỳ hay là Trung Quốc sẽ điều chỉnh," ông nói thêm rằng nhiều khả năng Thổ Nhĩ Kỳ sẽ đi lên từ từ vì Trung Quốc dường như ít có khả năng giảm.

Định giá thép cây Fob Thổ Nhĩ Kỳ

Platts định giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ tại mức 430usd/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ (khoảng 425-435usd/tấn) vào thứ Ba, tăng 2,50usd/tấn trong ngày.
Các nhà sản xuất đã duy trì giá chào ở mức 440-450usd/tấn FOB Marmara/Izmir. Một nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ nói rằng người mua đã dần dần thích nghi với giá cả gia tăng mặc dù hầu hết người mua vẫn đang trì hoãn đặt mua. Nguồn tin nhà máy lưu ý rằng ông sẽ không chấp nhận bất kỳ giá thầu nào dưới 430usd/tấn FOB Marmara.
Một thương nhân ở Trung Đông ước tính rằng vẫn còn có thể đặt mua tại mức 425usd/tấn FOB, mức giá mà ông nói thêm rằng đã được xác nhận bởi một đơn hàng mua gần đây. Đối tác của ông lập luận rằng = 435usd/tấn FOB là một mức giá thực tế từ quan điểm người mua do vị thế ổn định của các nhà máy.
Một thương nhân khác cho rằng thị trường đã trở nên yên tĩnh hơn, do không có giao dịch phế tiếp tục được nghe nói đến trong tuần này. Ông đặt giá giao dịch trong khoảng 430-440usd/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ. 

Phụ phí không gỉ châu Âu giảm nhẹ trong tháng Ba

Phụ phí hợp kim hàng tháng của thép không gỉ cán mỏng austenitic ở châu Âu sẽ giảm nhẹ trong tháng Ba, làm chựng lại xu hướng tăng kéo dài 4 tháng khiến mức phụ phí đạt mức cao trong nhiều năm, thông báo nhà máy đầu tiên cho thấy hôm thứ Ba.
Outokumpu của Phần Lan, nhà sản xuất lớn nhất châu lục, đã điều chỉnh phụ phí hợp kim cho loại thép dẹt 304 (4301) tại mức 1.404 €/tấn (1.479usd/tấn) cho tháng Ba, giảm 30 €/tấn từ mức cao 27 tháng hồi tháng Hai.
Giá nickel trên sàn London Metal Exchange đã biến động trong những tuần gần đây khi thị trường tìm hiểu những hành động trái ngược nhau của chính quyền ở Indonesia và Philippines, chạm mức thấp sáu tháng dưới 9.500usd/tấn vào cuối tháng Mội trước khi tăng lên mức cao hai tháng trên 11.150usd/tấn trong tuần này.
Giá thanh toán bằng tiền mặt nickel trên LME đạt mức trung bình 10.569usd/tấn cho tháng Hai đến nay, tăng 6% so với mức 9.981usd/tấn cho tháng Một.
Phụ phí Outokumpu cho thép dẹt 316 molybdenum-bearing (4401) ở mức 1.926 €/tấn cho tháng Ba, giảm từ mức 1.947 €/tấn trong tháng Hai, cũng là mức cao 27 tháng.
Từ mức thấp là 6.40- 6,55usd/lb, theo định giá Platts, vào giữa tháng 12/2016, giá molybdenum oxide giao ngay đã duy trì trên 7usd/lb trong năm 2017, và hiện đang đe dọa phá vỡ ngưỡng 8usd/lb lần đầu tiên kể từ cuối tháng Sáu năm ngoái.
The European benchmark ferrochrome price negotiated between producers and steel mills was settled at 165 cents/lb for the first quarter of 2017, up 55 cents/lb or 50% from the previous quarter, and up 79% from 92 cents lb in Q1 last year.
Trong khi đó, phụ phí của Outokumpu cho thép dẹt loại 430 nickel free, đạt mức cao nhất trong tháng Hai kể từ khi số liệu của Platts bắt đầu vào tháng Một năm 2007, sẽ giảm 20€ còn 790€/tấn cho tháng Ba.
Chuẩn giá ferrochrome châu Âu được thỏa thuận giữa nhà sản xuất và nhà máy thép đã được chốt tại mức 165 cent/lb trong quý một của năm 2017, tăng 55 cent/lb hoặc 50% so với quý trước đó và tăng 79% so với mức 92 cent/lb trong quý 1 năm 2016.
Giá chuẩn quý II dự kiến sẽ được công bố vào tháng Ba. 

Định giá phôi thanh CIS

Platts định giá xuất khẩu phôi thanh CIS hàng ngày ở mức 390usd/tấn FOB Biển Đen thứ Ba, tăng 5usd/tấn, từ thứ Hai.
Giá chào bán dao động trong khoảng 400-420usd/tấn FOB Biển Đen. Nhà máy tiếp tục giữ vững chào giá dựa trên khả năng tiếp tục tăng của giá phế. Một thương nhân cho hay một đơn hàng đặt mua một lô hàng Nga tại mức 400usd/tấn FOB Biển Đen. Ông ghi nhận rằng đặt mua này là một vị thế dài, nhưng các chi tiết khác không được tiết lộ.
Một doanh số bán 5.000 tấn cũng đã được báo cáo bởi một thương nhân Ai Cập ở mức 405usd/tấn CNF Damietta, tương đương 385-390usd/tấn FOB Biển Đen, mà theo một thương nhân ở Ai Cập là một mức giá hấp dẫn, với khối lượng tương đối nhỏ.
Một thương nhân ở Trung Đông ước tính 400usd/tấn FOB là không thể chấp nhận được đối với người mua chỉ dự kiến trả 380-390usd/tấn FOB Biển Đen/Biển Azov. Các nhà máy CIS khăng khăng đòi tối thiểu là 395-400usd/tấn FOB, nhà kinh doanh nói thêm.
Một nhà máy Ukraine cũng được cho là đang tính toán giá thầu ở mức 388usd/tấn FOB Mariupol, đang chào giá 390usd/tấn FOB thanh toán trước. Một thương nhân người Ukraine lưu ý rằng giá thầu này là mức rất hấp dẫn do những rủi ro hậu cần có thể có liên quan đến những khó khăn trong hàng hải ở Biển Azov trong mùa đông.
Một thương nhân khác cho biết các nhà máy sẵn sàng để bán cấp phôi thanh tiêu chuẩn ở 385usd/tấn FOB Mariupol thanh toán trước, mức giá mà các nhà kinh doanh sẵn sàng mua. 

Nhà máy tấm mỏng Mỹ có thể thu hẹp lại phạm vi giá trong thị trường

Thông báo tăng 30usd/st của Nucor và NLMK trong giá thép cán mỏng hôm thứ Hai có khả năng sẽ thu hẹp khoảng cách giá hiện có tại thị trường Mỹ, các nguồn tin cho biết hôm thứ Ba. Chào giá cuộn cán nóng có giá thấp hơn đã ở trong thị trường khoảng 10-14 ngày trước chuyển trở lại mức trước đó nhìn thấy sau thông báo tăng giá hồi tháng Một.
Sau khi tăng, Nucor được nghe nói đang thúc đẩy giá HRC lên đến 640usd/st, theo một nguồn bên mua. Ông dự báo NLMK cũng ở trong một tình huống tương tự. Nếu giá phế tháng Ba đổi chiều và tăng lên, người mua này dự kiến rằng đà tăng gần đây sẽ không phải là lần duy nhất.
Tại thị trường phế, nguồn cung thắt chặt của prime, đang nhanh chóng củng cố đà xuất khẩu và thêm một tháng nhu cầu tiêu thụ nhà máy dự kiến tiếp tục mạnh khiến cho các nhà cung cấp đang ước tính sẽ phục hồi lại tổn thất trong tháng Hai khi phải giảm giá 25usd/lt cho obsolete, và sau đó một số nhà cung cấp khác có thể tăng giá đến 50usd/lt, theo một số nguồn tin.
Người mua tấm mỏng này đã không cung cấp thông tin về mức chào giá cuộn cán nguội và mạ kẽm nhúng nóng mới sau đợt tăng giá trong tuần này.
Đợt tăng này dường như đang đẩy thị trường trở lại "khu vực nơi mà nó đã ở cách đây không lâu," một nguồn tin nhà máy cho biết. Các giao dịch HRC gần đây vẫn ở mức 640usd/st xuất xưởng, theo nguồn tin, và có một khả năng để bán tại mức 650usd/st cho đơn hàng khối lượng nhỏ hơn. Ngoài ra, giá CRC vẫn ở mức 840usd/st và lên đến 860usd/st cho các đơn hàng nhỏ hơn," ông nói.
Người mua vẫn ngoài thị trường cho đến nay có thể sẽ sớm trở lại thị trường, theo các nguồn tin nhà máy. Thu mua đã chậm lại do nhiều người đã thấy được khả năng để tận dụng giá tấm mỏng thấp hơn sắp tới, với dự đoán giảm trong giá phế tháng Hai. Tuy nhiên, mức giá giảm đã ít hơn so với dự kiến và bây giờ giá phế dường như sẽ đi theo một xu hướng khác, mà điều đó sẽ dẫn đến đơn đặt hàng tấm mỏng nhiều hơn trong hai tuần tới, nguồn tin máy cho biết.
Platts duy trì định giá HRC và CRC hàng ngày ở mức 620-630usd/st và 820-840usd/st, tương ứng. Cả hai giá theo cơ sở giá xuất xưởng Midwest (Indiana). 

Phụ phí thép dẹt không gỉ ổn định đối với hàng giao thang Ba

Phụ phí thép dẹt không gỉ Mỹ duy trì ổn định đối hàng giao tháng Ba, theo bảng báo tiền nguyên liệu được công bố bởi các nhà máy trong nước hôm thứ Ba.
ATI Allegheny Ludlum, AK Steel và North American Stainless đã thông báo mức phụ phí tấm mỏng cán nguội tháng Ba với loại 304 và 316 không gỉ ở mứ 59,29-59,33 cent/lb, và 72,31-72,35 cent/lb, tương ứng.
Loại 304 không gỉ giảm nhẹ từ mức 59,52-59,56 cent/lb trong tháng Hai, trong khi loại 316 tăng nhẹ từ mức 72,07-72,36 cent/lb.
Phụ phí tháng ba của loại 430 không gỉ ở mức 31,62-31,63 cent/lb, giảm từ mức 31.99 cent/lb trong tháng Hai.
Outokumpu Coils America đã không phát hành bảng thông báo mức phụ phí tháng Ba tính đến hết ngày làm việc thứ Ba. 

Các nhà máy Ấn Độ hưởng lợi nhờ nhu cầu mạnh mẽ từ Nepal

Các nhà máy Ấn Độ tiếp tục có được mức giá hấp dẫn tại quốc gia láng giềng Nepal khi nhu cầu tiêu thụ thép tại nước này cho thấy sự tăng trưởng ổn định. Từ tháng 4 đến tháng 12/2016, xuất khẩu thép của Ấn Độ tới Nepal đã tăng 81% so với năm trước đạt 478.410 tấn, theo số liệu mới nhất được công bố bởi Joint Plant Committee.
Thép của Ấn Độ được ưa chuộng hơn tại Nepal so với thép của những nước khác, đại diện một nhà máy ở Mumbai cho biết, và chỉ ra rằng thép được xuất khẩu từ bất cứ nước nào khác về nguyên tắc cũng phải đi qua Ấn Độ để đến Nepal, do đó làm tăng chi phí vận chuyển của những lô hàng đó.
Nhưng thép của Ấn Độ cũng tăng giá. Chào giá Ấn Độ hiện nay cho HRC tới Nepal khoảng 505 USD/tấn FOB Ấn Độ, trong khi thép cùng loại đang được chào bán tới Việt Nam với giá khoảng 480-490 USD/tấn FOB Ấn Độ. Số liệu của JPC cho thấy xuất khẩu HRC của Ấn Độ tới Nepal từ tháng 4 tới tháng 12 đã tăng 163% so với năm trước lên 155.460 tấn.
Giá của Ấn Độ đang được chào tới Nepal đã tăng dần. Chào giá phôi thép Ấn Độ hiện nay tới Nepal là 400 USD/tấn FOB, tăng từ 320 USD/tấn CFR Nepal đã được chào hồi tháng 3. Xuất khẩu phôi thép Ấn Độ tới Nepal từ tháng 4 tới tháng 12 đã nhảy vọt 177% so với năm trước lên 103.750 tấn.
Việc phát triển cơ sở hạ tầng sắp tới tại Nepal được cho là sẽ làm tăng nhu cầu thép tại nước này. Thứ Bảy tuần trước, Đại sứ Ấn Độ đến Nepal, Ranjit Rae, đã cam kết một khoản vay mềm 340 triệu USD cho các dự án cơ sở hạ tầng tại Nepal bao gồm việc xây dựng các con đường và cây cầu.
Các nhà máy Ấn Độ chẳng hạn như 2 doanh nghiệp nhà nước Steel Authority of India Limited và Rashtriya Ispat Nigam Ltd đã xuất khẩu phôi thép và cuộn trơn sang Nepal, trong khi các nhà máy tư nhân như Tata Steel và Bhushan Steel cũng cung cấp HRC và CRC tới người mua ở Nepal.

Giá quặng sắt giao ngay chạm mốc cao 30 tháng

Thị trường quặng sắt nhập khẩu đã chạm mốc cao 30 tháng vào ngày thứ Ba khi đà tăng của giá thép Trung Quốc đã mở ra nhiều nhu cầu hơn đối với nguyên liệu đầu vào. S&P Global Platts định giá chỉ số quặng sắt 62% Fe ở mức 95,05 USD/dmt CFR miền bắc Trung Quốc, tăng 1,3 USD/dmt so với thứ Hai. Đây là mức cao nhất của chỉ số này kể từ khi đạt mốc 95,5 USD/dmt vào ngày 7/8/2014.
“Tôi nghe nói giao dịch thép đã thực sự ấm lên, với nhu cầu mạnh từ người tiêu thụ trực tiếp cho các sản phẩm thép thành phẩm”, một thương nhân Singapore nói, và lợi nhuận thép nới rộng sẽ tiếp tục hỗ trợ giá quặng sắt trong ngắn hạn.
Đồng tình rằng lợi nhuận ngành thép cao hơn đang dọn đường cho việc tích trữ nhiều hơn, một nhà máy ở miền đông Trung Quốc cho biết nhiều doanh nghiệp thép đang sản xuất gần như là hết công suất. Đại diện nhà máy này cho biết thêm rằng các nhà sản xuất đang có mức lợi nhuận bình quân 400 NDT/tấn cho mỗi tấn thép được sản xuất trong khi một số thì có mức lời 1.000 NDT/tấn cho một số sản phẩm chẳng hạn như HRC.
“Các nhà máy thép Trung Quốc thường tạm ngưng lò nung để tu sửa vào khoảng thời gian này trong những năm trước khi nhu cầu teo tóp, nhưng hiện nay nhiều nhà máy đã trì hoãn kế hoạch bảo trì lại và sản xuất hết công suất”.
Tâm lý lạc quan cũng kéo dài tới thị trường phái sinh hôm thứ Ba. Hợp đồng quặng sắt giao sau được giao dịch trên sàn hàng hóa Đại Liên tiếp tục tăng, với hợp đồng tháng 5 có giá giao dịch 732 NDT/dmt (106,41 USD/dmt), tăng 18 NDT/dmt so với ngày trước đó.
Hợp đồng thép cây giao kỳ hạn tháng 5/2017 đang giao dịch tại 3.575 NDT/tấn (519,7 USD/dmt), tăng 29 NDT/tấn so với ngày trước đó.

Feng Hsin nâng giá thép cây và giá mua phế thêm 10 USD/tấn

Feng Hsin Iron & Steel, doanh nghiệp sản xuất thép cây hàng đầu của Đài Loan, đã nâng giá niêm yết và giá mua phế trong nước lên thêm 300 Đài tệ/tấn (9,7 USD/tấn) cho tuần này để phản ánh giá nguyên liệu và thép thành phẩm cao hơn.
Với lần điều chỉnh mới đây thì trong tuần này giá thép cây trong nước của Feng Hsin sẽ lên 14.900 Đài tệ/tấn xuất xưởng và giá mua phế HMS 1&2 (80:20) lên 7.200 Đài tệ/tấn.
“Nhu cầu thép cây trong nước đã và đang hỗ trợ và giá phế toàn cầu đang đi lên. Ngoài ra, chào giá xuất khẩu cho phôi thép của Trung Quốc cũng tăng thêm nữa, tất cả đều khuyến khích chúng tôi nâng giá bán của mình”, đại diện công ty giải thích hôm thứ Hai.
Tính đến ngày 20/2, chào giá nhập khẩu tại Đài Loan cho phế HMS 1&2 (80:20) là 260 USD/tấn CFR Đài Loan, tăng từ 251 USD/tấn CFR tính đến ngày 17/2. Đồng thời, định giá hàng tuần của Platts cho phôi thép 120/130mm vào thứ Sáu tuần trước cao hơn tới 23,5 USD/tấn so với tuần trước đó lên 430-437 USD/tấn CFR.
Ngoài ra, giá phôi thép Đường Sơn cũng đã tăng 60 NDT/tấn (8,7 USD/tấn) vào cuối tuần leen 3.230 NDT/tấn làm cho giá thép trong nước mạnh hơn và đẩy chào giá xuất khẩu cho phôi thép Trung Quốc leen 430 USD/tấn FOB Trung Quốc, tính tới ngày 20/2.
Feng Hsin đã có mức tăng khiêm tốn nhất cho giá của cả hai loại này, vì một số nhà máy thép cây ở Đài Nam đã quyết định nâng giá lên cao hơn, thậm chí là sát với khoảng cách thông thường 200 Đài tệ/tấn so với giá niêm yết của Feng Hsin. “Các nhà máy mini khác có lẽ cảm thấy rằng chúng tôi không phản ánh toàn bộ tất cả mức tăng của giá. Ngoài ra, nhu cầu trong nước cải thiện đã làm giảm bớt sự quan ngại về doanh số mặc dù thép cây của họ không còn rẻ như bình thường”, ông giải thích.

Thép cây Châu Á đi lên theo giá Trung Quốc

Giá giao ngay cho thép cây nhập khẩu tới Châu Á tăng trong ngày thứ 2 liên tiếp hôm thứ Ba, khi các nhà xuất khẩu Trung Quốc nâng chào giá cùng với sự mạnh lên của giá giao ngay và giao sau tại thị trường trong nước. Platts định giá thép cây BS500 đường kính 16-20mm ở mức 440-442 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế, tăng 5 USD/tấn so với thứ Hai.
Một số nhà máy Trung Quốc đã nâng chào giá lên một cách đáng kể do giá trong nước tăng. Triển vọng thị trường trong nước vẫn còn tích cực, do Bắc Kinh tiếp tục mạnh tay đối với các lò nung cảm ứng bất hợp pháp và có khả năng nhu cầu sẽ phục hồi trong tháng 3.
Một nhà máy ở miền đông đã báo giá 460 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế hôm thứ Hai, nhưng đến thứ Ba đã tăng lên khoảng 485 USD/tấn FOB. Một nhà máy khác ở khu vực này đã nâng chào giá thêm khoảng 50 USD/tấn từ thứ Hai lên 490 USD/tấn FOB trọng lượng lý thuyết, tương đương 505 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế với dung sai khối lượng 3%.
Trong khi đó, một nhà máy khác ở đây vẫn giữ chào giá mức 450 USD/tấn FOB trọng lượng lý thuyết (464 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế). Một nhà máy khác ở miền bắc báo giá 440 USD/tấn FOB trọng lượng lý thuyết (454 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế).
Một số thương nhân và nhà máy từ chối đưa ra chào giá hôm thứ Ba khi đối mặt với giá trong nước tăng mạnh. Hiện nay, việc chốt được bất cứ giao dịch xuất khẩu nào là rất khó do giá cao, thêm vào đó dễ dàng kiếm lời hơn từ thị trường trong nước.
Một nhà tích trữ có trụ sở tại Hong Kong cho biết chào giá cho thép cây xuất xứ Trung Quốc là khoảng 470 USD/tấn CFR trọng lượng thực tế, tương đương 461 USD/tấn FOB giả định phí vận chuyển 9 USD/tấn. Thép cây của Đài Loan được báo giá khoảng 500 USD/tấn CFR trọng lượng thực tế. Chào giá của Thổ Nhĩ Kỳ cũng tăng sau khi chào giá Trung Quốc lên cao hơn.
“Chúng tôi muốn đợi xu hướng rõ ràng hơn do chào giá từ cả Trung Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ đều tăng”, một nhà tích trữ ở Singapore cho biết.

Shagang nâng giá thép dây và thép thanh vì giá giao sau chạm mốc cao 3 năm

Jiangsu Shagang Group, doanh nghiệp sản xuất thép tư nhân lớn nhất Trung Quốc, dự định sẽ nâng giá thép cây trong nước lên thêm 100 NDT/tấn (15 USD/tấn) trong thời gian từ ngày 21-28/2.
Theo đó, giá thép cây HRB400 đường kính 16-25mm của Shagang sẽ tăng lên 3.650 NDT/tấn (530 USD/tấn) gồm 17% VAT.
Mức giá tăng tương đối nhỏ của Shagang là thấp hơn dự báo của thị trường, so với mức tăng đã từng được chứng kiến vào giữa tháng 2. Shagang sẽ tăng giá một cách kiên quyết hơn cho tới khi nhu cầu phục hồi hơn nữa.
Cùng với thép cây, Shagang cũng nâng giá cuộn trơn HPB300 6.5mm thêm 100 NDT/tấn lên 3.530 NDT/tấn gồm VAT để báo trong cùng thời gian này.
Cũng trong ngày thứ Ba, hợp đồng thép cây giao kỳ hạn tháng 5/2017 trên sàn Shanghai Futures Exchange tăng 29 NDT/tấn (0.8%) so với ngày trước đó chốt tại 3.575 NDT/tấn. Đây là mức cao nhất kể từ khi bắt đầu năm 2014.

Hyundai Steel nâng giá bán sỉ thép tấm cho tháng 3

Hyundai Steel bắt đầu thông báo tới các đại lý của mình hôm thứ Ba rằng công ty sẽ nâng giá thép tấm dày loại thương phẩm lên 30.000 Won/tấn (26 USD/tấn) kể từ tháng 3. Đây là lần tăng giá thép tấm thứ 6 của nhà máy kể từ tháng 11 và tổng mức tăng lên tới 190.000 Won/tấn (166 USD/tấn). Hyundai không bao giờ tiết lộ giá niêm yết của mình.
Trong cuộc vận động hành lang các đại lý chấp nhận mức tăng mới đây của mình, Hyundai viện lý do rằng vì giá nguyên liệu cao hơn nên chi phí sản xuất của công ty trong quý này đã tăng lên tương đương 70 USD/tấn so với quý trước.
Hai doanh nghiệp sản xuất thép tấm khác của Hàn Quốc là Dongkuk Steel Mill và Posco vẫn chưa thông báo tới các đại lý về bất kỳ kế hoạch nâng giá nào cho tháng 3. Hiện tại, giá thị trường trong nước cho thép tấm SS400 20mm đang phổ biến khoảng 590.000-630.000 Won/tấn (515-550 USD/tấn), tăng từ 470.000-490.000 Won/tấn so với cuối tháng 8.
Trong khi đó, cả Posco và Hyundai đều đang lên kế hoạch bảo trì nhà máy thép tấm của họ trong những tháng tới, điều này sẽ làm giảm nguồn cung. Posco sẽ ngừng hoạt động của nhà máy thép tấm số 2 có công suất 2,7 triệu tấn/năm tại xưởng Pohang trong 14 ngày để bảo trì từ ngày 3-16/3. Vài tuần sau đó cũng tại xưởng này từ ngày 7/4, công ty sẽ tạm ngưng nhà máy số 1 công suất 600.000 tấn/năm trong khoảng 9 ngày và nhà máy thép tấm số 3 có công suất 1,2 triệu tấn/năm trong khoảng 50 ngày.
Posco từ chối tiết lộ công suất hoạt động hiện nay của nhà máy thép tấm nhưng đáng chú ý là theo đại diện công ty cho biết sản lượng bị mất từ đợt bảo trì này có lẽ chỉ 50.000 tấn hoặc có thể hơn.
Hyundai đang xem xét việc tiến hành bảo trì nhà máy thép tấm số 1 và số 2 tại xưởng Dangjin, phía tây Seoul, trong khoảng 1 tuần từ tháng 3 tới tháng 5.
Với thông báo vào tuần trước từ hai nhà máy về việc bảo trì nhà máy cán nống, các thương nhân đang thắc mắc liệu việc đóng cửa lần này có nhằm mục đích hỗ trợ cho giá cao hơn hay không. “Thông thường, việc bảo trì diễn ra hoặc là ngoài mùa cao điểm hoặc là vào mùa nghỉ lễ. Nhưng thực tế cả hai công ty đang bàn về việc bảo trì trong mùa cao điểm có vẻ như là một phần trong chiến lược nâng giá của họ”, một thương nhân ở Busan cho biết.

Giá CRC xuất khẩu của Trung Quốc tiếp tục đi lên

Giá xuất khẩu của CRC xuất xứ Trung Quốc tiếp tục tăng trong tuần này, đánh dầu tuần tăng thứ 3 liên tiếp sau Tết. Một số nhà xuất khẩu cho biết giá trong nước tăng đã giúp cải thiện sự quan tâm từ phía người mua ở nước ngoài.
Platts định giá CRC SPCC 1.0mm ở mức 590-595 USD/tấn FOB Trung Quốc hôm thứ Ba, mức trung bình 592.5 USD/tấn FOB, tăng 5 USD/tấn so với tuần trước đó. Giá CRC xuất khẩu tới bây giờ đã tăng 10 USD/tấn kể từ sau Tết. Chênh lệch giá xuất khẩu giữa CRC với HRC là 83,5 USD/tấn trong ngày thứ Ba.
Cùng ngày, giá CRC SPCC 1.0mm trong nước là 4.750-4.800 NDT/tấn ($90-$698 USD/tấn), giảm 10 NDT/tấn so với tuần trước. Một thương nhân ở Thượng Hải cho biết mặc dù có một số bất ổn nhỏ trong tuần trước nhưng giá CRC trong nước đã khá ổn định trong những ngày gần đây.
Hôm thứ Ba, chào giá từ một nhà máy lớn ở đông bắc là 595 USD/tấn FOB, không đổi trong 3 tuần liền. Trong khi đó, một nhà máy lớn ở miền bắc đã chào bán CRC với giá 600-605 USD/tấn FOB, tăng từ 595 USD/tấn FOB của tuần trước đó. Một số nhà xuất khẩu hoài nghi mức giá tăng thêm này có thể được người mua chấp nhận, vì cho rằng 590-595 USD/tấn FOB là mức có thể giao dịch.
Mặc dù một nguồn tin cho biết một số người mua đã chấp nhận mức cao 600 USD/tấn FOB, nhưng hầu hết các thương nhân khác đều cho biết mức giá này vẫn chưa được chấp nhận rộng rài. “Thực ra, vẫn không dễ dàng gì để tôi thuyết phục khách hàng của mình chấp nhận mức giá khoảng 595 USD/tấn FOB, chứ đừng nói gì đến mức cao hơn”.

 HRC Châu Á tăng do chào giá cao hơn, thị trường Trung Quốc mạnh lên

Giá HRC giao ngay tại Châu Á tăng vọt trong ngày thứ Ba khi các nhà máy Trung Quốc nâng chào giá của họ do giá giao ngay và giao sau trong nước cao hơn. Platts định giá HRC SS400 3.0mm ở mức 505-513 USD/tấn FOB Trung Quốc, mức trung bình 509 USD/tấn, tăng 11,5 USD/tấn so với ngày trước đó- vượt qua mốc 500 USD/tấn lần đầu tiên kể từ tháng 8/2014.
Tại thị trường Thượng Hải, HRC Q235 5.5mm được định giá 3.870-3.880 NDT/tấn (562-564 USD/tấn) xuất xưởng gồm 17% VAT, tăng 25 NDT/tấn so với ngày trước đó.
Các nhà máy Trung Quốc đã nâng chào giá cho HRC SS400 lên 515-545 USD/tấn FOB Trung Quốc do giá bán trong nước cao. Một số giao dịch được chốt với giá 505 USD/tấn FOB Trung Quốc vào tuần trước và tuần này.
“Người mua ở Hàn Quốc có thể chấp nhận những mức giá này, nhưng hầu hết các nhà máy Trung Quốc đều đang từ chối bán ở mức thấp như vậy vì họ có thể mua được mức giá cao hơn nhiều trên thị trường nội địa”. Một nhà máy ở miền bắc Trung Quốc chỉ bán với giá 513 USD/tấn FOB Trung Quốc cho giá hỏi mua chắc chắn.
Tại Việt Nam, tình hình lại khác do nguồn cung từ Ấn Độ. Chào giá Ấn Độ cho thép cuộn SAE với giá khoảng 510 USD/tấn CFR Việt Nam, thấp hơn nhiều so với chào giá 550 USD/tấn CFR Việt Nam. Một giao dịch cho thép cuộn SAE được nghe nói chốt với giá 507 USD/tấn CFR Việt Nam hôm thứ Ba để giao tháng 3.
Các nhà máy Trung Quốc sẽ không xem xét việc bán giá rẻ tới Việt Nam vào lúc này vì họ có thể tìm người mua ở những nơi khác như Hàn Quốc sẵn sàng trả với giá cao hơn.