Phế giảm khiến giá thép cây Thổ Nhĩ kỳ suy yếu theo
Xuất khẩu thép cây của Thổ Nhĩ Kỳ đã giảm hôm thứ Ba, do mức giá bán hàng trước đó không còn xuất hiện trong tuần này.
Platts định giá xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ là 440 USD/tấn FOB hôm thứ Ba, giảm 5 USD/tấn kể từ thứ Hai.
"Việc kinh doanh của Mỹ đối với thép cây xuất khẩu đã được thực hiện xong, vậy còn chỗ nào khác nữa?" một nhà kinh doanh thép Thổ Nhĩ Kỳ nói. "Chúng tôi thấy 303 USD /tấn đối với phế, nhưng thép cây đã rất yếu và điều này không thể hỗ trợ".
Nhập khẩu phế ferrous cũng giảm hôm thứ ba còn 276,50 USD tấn trong một vài giao dịch, giảm từ 290USD/tấn kể từ đầu tuần. Các nguồn thị trường cho thấy mức 150 USD/tấn đang là chênh lệch giá phế/thép cây hiện tại và thực tế cho các nhà sản xuất Thổ Nhĩ Kỳ, có nghĩa là doanh thu sẽ ở mức thấp hơn.
Đồn đoán của một số nhà giao dịch trong tuần này đã dẫn đến 430 USD tấn FOB được coi là mức thực tế, nhưng chỉ là phỏng đoán và không có hỗ trợ mua bán hoặc bán thật sự.
Mức giao dịch từ 440-450 USD/tấn FOB tuần qua đã được nhiều thương gia nhắc tới hôm thứ Ba, những người mơ hồ về giá cả hiện tại nhưng bị thuyết phục rằng thị trường đã giảm.
Giá niêm yết thép cây nội địa tại Thổ Nhĩ Kỳ đã giảm bởi hai nhà bán chính vào hôm thứ Hai. Cả hai đều là những nhà xuất khẩu có năng suất cao, dẫn đến tâm lý tin răng giá chào FOB cũng sẽ bị cắt giảm. Một thương nhân ở Thổ Nhĩ Kỳ đã đẩy mạnh sự khẳng định này, cho biết mức giảm hôm thứ Hai chỉ là một chức năng của biến động tiền tệ.
Giá HRC tăng ở thị trường Mỹ
Giá HRC nội địa Mỹ tăng hôm thứ Ba vì các nhà máy dự kiến sẽ tìm cách áp dụng mức tăng giá mới nhất. Hiện vẫn chưa rõ liệu hầu hết các nhà máy đều đạt được tăng 30 USD/st chưa nhưng hầu hết các nguồn tin đều cho thấy tín hiệu phổ biến với giá cao hơn.
Platts nâng mức định giá HRC hàng ngày lên mức 640-660 USD/st, tăng từ 640-650 USD/st. Định giá cuộn cán nguội hàng ngày không thay đổi ở mức 840 - 860 USD/st, xuất xưởng Trung Tây (Indiana).
HRC đã được báo giá ở mức 670USD/st, theo một nguồn tin trung tâm dịch vụ. Tuy nhiên, anh nói rằng mình vẫn chưa chấp nhận mức đó và hầu hết người mua đều mua với giá 660 USD/st. Cả nhà sản xuất tích hợp và nhà máy mini sẽ bán với giá 660 USD/st, nguồn tin này cho biết, nhưng nhận xét rằng các nhà máy tích hợp ít quan tâm đến việc giảm giá còn 670 USD/st. Nguồn tin của trung tâm dịch vụ cho biết ông đã không tích cực tham gia thị trường giao ngay lúc này.
Đơn đặt hàng đã được đặt và ở mức cao hơn sau khi tăng, theo một nguồn tin nhà máy. Ông nói công ty của ông giao dịch HRC với giá 670 USD/st và CRC ở mức 870 USD/st và 880 USD/st, với nhiều khách hàng đặt giao ngay "hàng trăm tấn mỗi lần".
Một nguồn tin trung tâm dịch vụ thứ hai, cũng báo cáo một sự vắng mặt kéo dài của thị trường giao ngay, gần đây đã được báo giá 670 USD/st cho HRC từ một nhà máy. Ông không thấy báo giá cao hơn đáng ngạc nhiên nhưng không dự đoán giá sẽ tăng cao hơn nhiều trong 60 ngày tới.
Định giá HRC EU
Platts duy trì định giá HRC Bắc Âu ổn định ở mức 565-575 euro/tấn (610,81-621,69USD/tấn) xuất xưởng Ruhr thứ Ba.
Người mua ở Hà Lan và Italy ghi nhận thị trường vẫn rất yên tĩnh, và khẳng định hầu hết các chào hàng nhập khẩu vẫn đến từ Ấn Độ. Các nhà máy Ấn Độ đã cắt giảm giá HRC xuống còn 510 euro/tấn CIF Antwerp hoặc 505 euro/tấn CIF cảng Italia.
Các nhà máy ở châu Âu đang tận dụng thời gian giao hàng kéo dài, mặc dù một người mua cho biết ông đã được trích dẫn nguồn cung giao ngay cho từ tháng 4-5 với giá 540 euro/tấn. Tuy nhiên điều này đã không được xác nhận bởi bất kỳ nguồn khác.
Nhu cầu HDG xuất khẩu Thổ Nhĩ kỳ chậm lại do giá chào tăng
Với khoảng cách giữa chào giá xuất khẩu thép cuộn mạ kẽm nhúng nóng của Thổ Nhĩ Kỳ và Ấn Độ đến cho châu Âu đã vượt quá 50-60 USD sau khi các nhà máy của Thổ Nhĩ Kỳ tăng giá trong nước và xuất khẩu, nhu cầu về sản phẩm Thổ Nhĩ Kỳ đã bắt đầu giảm trong khu vực trong những tuần gần đây. Một số điều chỉnh giá xuống có thể được nhìn thấy trong giá chào bán của các nhà máy ở Thổ Nhĩ Kỳ trong vài tuần tới, một số nguồn tin cho hay.
Một chuyên gia xuất khẩu của một nhà sản xuất trong nước lớn của Thổ Nhĩ Kỳ đã nói rằng đã nhận được nhu cầu xuất khẩu thấp hơn so với tuần trước. Tuy nhiên, vì các đơn đặt hàng của nhà máy này đã kín cho đến giữa tháng Năm, họ không vội vàng để bán ra.
Các chuyên gia này lưu ý: "Chúng tôi đã có đủ đơn đặt hàng trong những tuần trước cho đến giữa tháng 5, đặc biệt với nhu cầu xuất khẩu mạnh mẽ. Do đó, mặc dù nhu cầu tiêu thụ dường như suy yếu hơn sau những đợt tăng giá gần đây, chúng tôi vẫn đang duy trì giá chào xuất khẩu của mình.”
"Chúng tôi biết rằng phạm vi giá chào của chúng tôi so với các nhà cung cấp Ấn Độ tại thị trường châu Âu đã mở rộng hơn nữa trong những tuần gần đây, đến mức 50-60 USD/tấn đối với một số sản phẩm nhưng chúng tôi không có kế hoạch thực hiện bất kỳ giảm giá nào trong thời gian gần. Chúng tôi có thể xem xét điều chỉnh giá của chúng tôi chỉ trong tháng tới, tùy thuộc vào điều kiện thị trường," bà nói.
Most mills' domestic offers for 0.5mm thick 9002 pre-painted galvanized coil were also relatively steady this week at $850-$870/mt ex-works, Platts learnt.
Trong khi đó, nhu cầu trong nước vẫn tiếp tục chậm trước cuộc trưng cầu hiến pháp vào ngày 16 tháng 4. Tuy nhiên, những yêu cầu về giá đã bắt đầu gia tăng trong những ngày gần đây, các nguồn thương mại cho biết.
Giá chào bán các sản phẩm thép cuộn cán nguội của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ ổn định hôm thứ Ba trong khoảng 760-780 USD/tấn. Theo các nguồn tin, HDG dày 1mm của nhà máy trong khi đó ở mức 680-700USD/tấn xuất xưởng và chào giá xuất khẩu HDG ở mức tương tự.
Hầu hết các nhà cung cấp trong nước chào giá PPGI 9002 0.5mm cũng tương đối ổn định trong tuần này với giá 850-870 USD/tấn.
Định giá thép cây FOB Thổ Nhĩ Kỳ
Platts định giá thép cây xuất khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 440 USD/tấn hôm thứ Ba, giảm 5 USD/tấn từ hôm thứ Hai.
Không có giao dịch hoặc chào bán mới được nghe nói đến trên thị trường nhưng những điều kiện rộng hơn cho thấy hoạt động thương mại không thể được lặp lại ở mức cao hơn 440USD/tấn.
Giá nhập khẩu phế của Thổ Nhĩ Kỳ giảm xuống còn 276,50 USD/tấn hôm thứ Ba từ mức 287,50 USD/tấn.
Thu mua cho hàng nhập khẩu tháng 4 của Mỹ đã được ký kết, có nghĩa là mức cầu đối với thép cây xuất khẩu đã giảm đáng kể. Theo một thương nhân Thổ Nhĩ Kỳ, mức 440 USD/tấn FOB đã thể hiện mức giá thị trường.
Một thương nhân Anh cho biết ông đã nghe được mức 440- 450 USD/tấn như mức giá gần đây nhất, nhưng tin rằng thị trường đã giảm kể từ đó.
Phụ phí không gỉ châu Âu tháng 4 tăng, 304 ở mức cao 5 năm
Phụ phí hợp kim hàng tháng austenit đối với các sản phẩm cuộn dẹt không gỉ ở Châu Âu sẽ tăng trở lại tháng 4. Mức phụ phí đã giảm trong tháng 3, làm chựng lại xu hướng tăng trong bốn tháng lên mức cao trong nhiều năm.
Outokumpu của Phần Lan, nhà sản xuất lớn nhất, đã thiết lập điều chỉnh hợp kim cho sản phẩm thép dẹt 304 (4301) với giá 1.455 euro/tấn (1.571 USD/tấn) trong tháng 4, tăng 51 euro/tấn so với tháng 3 và đánh dấu mức cao nhất kể từ tháng 3/2012.
Giá niken trên sàn giao dịch kim loại London đã tăng lên mức 11.000 USD/tấn vào cuối tháng 2/đầu tháng 3, nhưng đang giảm trở lại vào lúc này. Giá chốt niken tiền mặt của LME trung bình 10.423 USD/tấn trong tháng 3, giảm 19% so với mức 10.620 USD/tấn trong tháng 2.
Phụ phí của Outokumpu đối với thép dẹt 316 molybdenum-bearing (4401) ở mức 2.021 euro/tấn trong tháng 4, tăng 95 euro/tấn từ giá tháng 3 lên mức cao nhất kể từ tháng 10 năm 2014.
Từ mức thấp 6.40-6.55USD/lb, vào giữa tháng 12, giá giao ngay oxit molybden đã tăng đều trong những tuần gần đây và hiện đang ở mức cao nhất kể từ tháng 1 năm 2015, gần 9 USD/lb.
Trong khi đó, phụ phí của Outokumpu đối với thép dẹt 430 không có niken, tăng 18% lên 808 euro/tấn trong tháng 4, thấp hơn con số 810 euro/tấn của tháng 2, mức cao nhất kể từ tháng 1 năm 2007.
Giá chuẩn ferrochrome Châu Âu được thương lượng giữa các nhà sản xuất và các nhà máy thép đã được chốt ở mức 156 cent/lb trong quý II năm 2017, giảm 11 cent/lb hoặc 6,7% so với quý trước nhưng tăng 90% từ mức 82 cent/lb trong quý II 2016.
Giá mua phế của nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ giảm cùng lúc với hàng nhập khẩu
Giá mua phế shipbreaking và DKP của các nhà máy ở Thổ Nhĩ Kỳ đã giảm hôm thứ Ba, phù hợp với giá phế nhập khẩu thấp hơn, theo các nguồn tin cho biết.
Một số nhà sản xuất thép dài của Thổ Nhĩ Kỳ (IDC, Ege Celik) ở phía tây Thổ Nhĩ Kỳ đã giảm giá mua phế shipbreaking hôm thứ Ba xuống mức 272 USD/tấn, giảm 8 USD/tấn trong tuần.
Giá mua của một số nhà máy đối với phế DKP cũng giảm. Nhà sản xuất thép hợp kim lớn nhất của Thổ Nhĩ Kỳ, Asil Celik ở Bursa, đã hạ giá mua DKP còn 1.055 TRY (291 USD)/tấn vào ngày 21 tháng 3, trong khi một trong những nhà sản xuất thép lớn nhất Thổ Nhĩ Kỳ là Colakoglu cũng giảm giá mua phế DKP còn 1.010 TRY (278USD)/tấn thứ Ba.
Tại nhà máy Eregli của tập đoàn Erdemir ở miền bắc Thổ Nhĩ Kỳ, giá mua phế liệu DKP là 1.070 TRY/tấn, trong khi nhà máy Iskenderun của tập đoàn này ở miền Nam Thổ Nhĩ Kỳ mua phế DKP ở mức 990 TRY (273 USD/tấn) ổn định trong tuần.
Những người tham gia thị trường Thổ Nhĩ Kỳ kỳ vọng rằng giá phế nhập khẩu trong nước và xuất khẩu có thể sẽ giảm trong những ngày tới, do nhu cầu tiêu thụ thép thành phẩm chậm hơn và những bất ổn liên tục xảy ra trước cuộc trưng cầu hiến pháp vào ngày 16 tháng 4, cho phép tổng thống Erdogan được trao nhiều quyền lực hơn.
Định giá phôi thanh CIS
Platts định giá phôi thanh xuất khẩu CIS hàng ngày ở mức 400 USD/tấn FOB hôm thứ Ba, ổn định từ thứ Hai.
Không có giao dịch mới được nghe nói trên thị trường và các nguồn tránh ước tính bằng số, cho biết mức giá vẫn chưa được quyết định.
Một nhà kinh doanh ở Anh cho hay mức giá cuối cùng mà ông được là 409 USD /tấn FOB, nhưng tin rằng đây là giá cũ và không còn nữa. Giá 410 USD/tấn FOB được nghe từ một nhà kinh doanh Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng ông tin rằng thị trường thấp hơn.
Tokyo Steel duy trì giá niêm yết cho tháng 4
Sự kháng cự tiếp tục của khách hàng với giá cao hơn đã được công bố hồi tháng 2 đã buộc Tokyo Steel Manufacturing phải duy trì giá niêm yết trong nước một lần nữa, lần này là cho tháng 4.
"Mức tăng trước đây của chúng tôi đã không được hấp thụ trên thị trường vì vậy công ty sẽ giữ giá thêm một tháng nữa để theo dõi xu hướng thị trường", nhà máy mini đăng trên trang web của mình hôm thứ Ba.
Do đó, giá thép cây 13-25 mm của Tokyo Steel vẫn ở mức 56.000 Yên/tấn (497 USD/tấn) cho tháng 4, trong khi cuộn cán nóng SPHC 1.7-22mm ở mức 62.000 Yên/tấn. Công ty đã nâng giá cho hợp đồng tháng 2 lên 1.000-3.000 Yên/tấn, nhưng giữ giá không đổi cho tháng 3.
"Mức tồn kho ở cả thị trường trong nước và ở nước ngoài đều thấp, việc giao hàng ổn định và cân bằng cung-cầu tốt", Tokyo Steel nhận định. "Giá thị trường vẫn vững chắc và điều kiện này được kỳ vọng sẽ tiếp tục trong một thời gian".
Nhu cầu thép xây dựng gia tăng được dự báo không chỉ từ việc xây dựng liên quan đến Thế vận hội Tokyo mà còn từ việc phát triển lại đô thị và các dự án khác.
Maruichi lại nâng giá ống thép trong nước
Maruichi Steel Tube, nhà sản xuất ống ERW lớn nhất của Nhật Bản, bắt đầu thông báovới người mua ống thép rằng họ sẽ phải trả thêm 5000 Yên/tấn (44 USD/tấn) từ các chuyến hàng tháng 4.
Phát ngôn viên của công ty cho biết: "Lần tăng giá này là do chi phí nguyên vật liệu cao hơn”, ý muốn đề cập đến thép cuộn cán nóng.
Trước đó, công ty đã tăng 5.000 Yên/tấn từ tháng 10 và thêm 10.000 Yên/tấn từ tháng 2, do đó mức tăng mới nhất này đã nâng tổng mức tăng của công ty trong sáu tháng qua lên 20.000 Yên/tấn.
Hồi đầu tháng này, Nippon Steel &Sumitomo Metal Corp tuyên bố dự định sẽ tăng thêm 5000 Yên/tấn cho toàn bộ danh mục sản phẩm của mình từ tháng 4 đến tháng 9.
Phát ngôn viên NSSMC giải thích công ty đã tăng 20.000 Yên/tấn cho hầu hết các sản phẩm của mình từ tháng 10 đến tháng 3 và cần phải củng cố mức tăng đó.
Theo số liệu của Hiệp hội Sắt Thép Nhật Bản gần đây nhất cho thấy đơn đặt hàng cho ống thép carbon trong tháng 1 đã tăng 13% so với năm trước lên 285.000 tấn.
Giá ống đúc không gỉ miền đông Trung Quốc không thay đổi do thép tròn đặc ổn định
Hôm thứ Ba, thị trường giao ngay cho ống đúc không gỉ ở miền đông Trung Quốc vẫn giữ nguyên không thay đổi phản ánh giá thép tròn đặc ổn định trong tuần này giữa bối cảnh triển vọng thị trường không chắc chắn. Hôm thứ Ba, các nhà sản xuất thép tròn đặc chủ chốt trong khu vực tuyên bố họ vẫn duy trì giá trong thời gian từ 21-31 tháng 3.
Hôm 21 Tháng 3, Zenith Steel Group và Changqiang Iron & Steel - 2 nhà sản xuất chính ở tỉnh Giang Tô - đã duy trì giá thép tròn đặc 20 # 50-130mm ở mức lần lượt 4.060 NDT/tấn (588 USD/tấn) và 4.010 NDT/tấn vào cuối tháng 3, xuất xưởng, bao gồm thuế GTGT. Hai nhà máy này đã giữ giá của họ không thay đổi vào giữa tháng 3.
Cùng ngày, một nhà cung cấp lớn khác là Huaigang Special Steel, cũng ở Jiangsu - cho biết sẽ giữ giá xuất xưởng cho thép tròn đặc ở mức 4.110 NDT/tấn với thuế VAT trong cùng thời gian này. Đây là lần duy trì giá thứ hai liên tiếp của nhà máy.
Sau thông báo của những nhà máy này, chào giá trên thị trường bán lẻ Thượng Hải vào ngày thứ Ba cho ống đúc loại 20 # 219x6mm (GB / T 8163) được sản xuất từ các nhà máy ở miền đông Trung Quốc phổ biến ở mức 4.500-4.600 NDT/tấn xuất xưởng và bao gồm 17% VAT, bằng với giá thứ Năm tuần trước.
Shagang duy trì giá thép cây cho cuối tháng 3
Hôm thứ Ba, Jiangsu Shagang Group, nhà sản xuất thép tư nhân lớn nhất của Trung Quốc, dự định giữ giá thép trong nước ổn định trong 10 ngày cuối tháng 3. Đây là lần duy trì giá thứ hai liên tiếp của nhà máy sau khi tăng 200 NDT/tấn (29 USD/tấn) hồi đầu tháng 3.
Theo đó, giá thép cây HRB400 đường kính 16-25mm vẫn ở mức 3.850 NDT/tấn (557 USD/tấn) bao gồm 17% VAT cho cuối tháng 3. Trong khi đó, Shagang nâng giá cuộn trơn HPB300 6.5mm thêm 50 NDT/tấn lên 3.760 NDT/tấn, bao gồm thuế GTGT bán ra trong cùng thời gian nêu trên.
Một nguồn tin từ miền bắc Trung Quốc nói rằng việc duy trì giá của Shagang có thể phản ánh sự không chắc chắn của thị trường giao ngay. Thị trường giao ngay đã điều chỉnh đi xuống trong tuần này, cùng với sự suy yếu của giá tương lai và điều này đã làm suy giảm lòng tin của người mua.
Hôm thứ Ba, hợp đồng thép cây giao dịch trên sàn Shanghai Futures Exchange - giao vào tháng 5 năm 2017 đã giảm 105 NDT/tấn (tương đương 2.9%) so với ngày trước đó chốt tại 3.376 NDT/tấn. Hợp đồng này đã tăng tổng cộng 173 NDT/tấn trong tuần trước đó.
Giá phế trở thành đề tài nóng trong các cuộc thương lượng thép cây Hàn Quốc
Các nhà sản xuất thép cây hàng đầu của Hàn Quốc và các công ty thầu xây dựng của nước này sẽ bắt đầu các cuộc đàm phán giá bán cho tháng 4 đến tháng 6 vào đầu tuần tới, các nhà máy hy vọng sẽ tăng thêm giá.
Hồi tháng 1, cả hai bên đã đồng ý tăng 35.000 Won/tấn (31 USD/tấn) cho 3 tháng đầu năm, theo đó thép cây SD 400 đường kính 10mm tăng lên 620 Won/tấn (554 USD/tấn). Giá đã duy trì trong ba quý liên tiếp trước đó.
Hôm thứ Ba, giá thép cây trong nước là vào khoảng 610.000 Won/tấn, không thay đổi so với đầu tháng 1 và tăng từ mức 580.000-585.000 Won/tấn vào cuối tháng 12, theo các nguồn tin giao dịch tại Seoul.
Trước cuộc đàm phán vào tuần tới, công thức mà hai bên đã thông qua vào thời gian này năm ngoái dùng để tính giá thép cây hàng quý đã trở thành vấn đề. Công thức hiện tại để phản ánh giá phế bình quân của tháng cuối cùng của quý trước đó- chiếm 70% giá phế trong nước là, 20% giá phế của Nhật và 10% giá phế của Mỹ.
Tuy nhiên, cuộc họp vào ngày 16 tháng 3 được tổ chức bởi do các nhà thầu dẫn dầu là Hiệp hội mua sắm xây dựng Hàn Quốc (KCPPA) đã thảo luận về việc đưa ra một công thức mới phản ánh mức giá phế trung bình của toàn bộ quý trước.
Việc thúc đẩy thảo luận của các nhà thầu về công thức này chắc chắn sẽ làm tăng đáng kể giá phế liệu trong tháng 3, khi mà giá trung bình trong nước của phế loại A vào khoảng 260.000 Won/tấn. Mức giá này tăng 26.000 Won/tấn từ đầu tháng này nhưng giảm từ mức 275.000 Won/tấn của đầu tháng 1.
Cuối cùng, các nhà thầu đã quyết định giữ lại công thức ban đầu bởi vì mức tăng của giá thép cây (theo công thức hiện tại) sẽ là 10.000 Won/tấn trong khi trung bình 3 tháng cần phải có mức tăng khoảng 40.000 Won/tấn.
Trong khi các nhà thầu có thể đã đồng ý ngầm với nhau để tiếp tục công thức hiện tại, thì điều này sẽ được đề xuất chính thức tới các nhà máy mini tại các cuộc đàm phán sắp tới, nơi mà các nhà sản xuất thép có thể sẽ không đồng ý.
Ngay cả khi công thức cho thấy mức tăng giá sẽ là thích hợp, thì điều này vẫn có thể không được để ý đến trong các cuộc đàm phán. Một quan chức của Hyundai Steel đã từ chối bình luận về các cuộc đàm phán sắp tới, nhưng nói thêm: "Liệu có nên duy trì công thức ban đầu hay sử dụng cái mới cũng sẽ được quyết định trong các cuộc tọa đàm chính thức."
Thép cây Châu Á không đổi mặc dù thị trường Trung Quốc suy yếu hơn
Giá giao ngay của thép cây tại khu vực châu Á giữ ổn định trong ngày thứ năm liên tiếp hôm thứ Ba. Với giá giao ngay và giao kỳ hạn cho thép cây tại Trung Quốc đều giảm, người mua không có ý định đặt mua thép của Trung Quốc với giá cao. Platts định giá thép cây BS500 đường kính 16-20mm ở mức 442-443 USD/tấn FOB Trung Quốc, không thay đổi so với thứ Hai.
Sự điều chỉnh lớn được chứng kiến trong giá kỳ hạn Thượng Hải hôm thứ Ba đã khiến các thương nhân trong nước giảm giá chào bán để tăng lượng hàng giao dịch. Hôm thứ Ba, hợp đồng thép cây được giao dịch trên sàn Shanghai Futures Exchange giao tháng 5 năm 2017 đã giảm 105 NDT/tấn (tương đương 2,9%) chốt ở mức 3.376 NDT/tấn.
Tại thị trường bán lẻ ở Bắc Kinh, giá thép cây HRB400 đường kính 18-25mm đã được định giá ở mức 3.855-3.865 NDT/tấn (559-561 USD/tấn) xuất xưởng trọng lượng thực tế, bao gồm thuế VAT 17%, giảm 35 NDT/tấn so với thứ Hai.
Tại Hong Kong, các nhà máy Trung Quốc đã giữ chào giá trên 485 USD/tấn CFR trọng lượng thực tế, tương đương 476 USD/tấn FOB với phí vận chuyển là 9 USD/tấn. Một số thương nhân Trung Quốc hôm thứ Hai mà báo giá 460 - 465 USD/tấn CFR Hong Kong trọng lượng thực tế (451-456 USD/tấn FOB), đã rút lại chào giá vào ngày thứ Ba vì thị trường nội địa suy yếu.
Một thương nhân tại Thượng Hải cho biết: "Không ai mua bây giờ vì người mua lo ngại giá trong nước sẽ tiếp tục rớt thêm nữa”.
Hầu hết các doanh nghiệp Trung Quốc đều giữ giá cao hoặc từ chối chào giá hôm thứ Ba do sự thật là giá trong nước cao hơn giá xuất khẩu.
Một nhà máy xuất khẩu lớn ở miền đông Trung Quốc vẫn duy trì giá chào với mức 470 USD/tấn FOB trọng lượng lý thuyết, tương đương 485 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế với dung sai khối lượng 3%. Báo giá của một nhà máy khác ở miền Bắc Trung Quốc vẫn giữ ở mức khoảng 495 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế.
Giá CRC của Trung Quốc giảm tuần thứ 3 liên tiếp
Các nguồn tin cho biết giá xuất khẩu thép cuộn cán nguội của Trung Quốc tiếp tục giảm trong tuần thứ ba liên tiếp, cho thấy sức ép từ sự lao dốc của giá trong nước.
Platts định giá CRC SPCC dày 1.0mm ở mức 555-559 USD/tấn FOB Trung Quốc hôm thứ Ba, giảm 3 USD/tấn so với tuần trước và giảm tổng cộng 38 USD/tấn (tương đương 6%) kể từ đầu tháng 3. Chênh lệch giữa CRC và cuộn cán nóng là 65 USD/tấn.
Trong cùng ngày, giá trong nước của Trung Quốc cho CRC cùng loại được định giá ở mức 4.050-4.100 NDT/tấn (588-595 USD/tấn), giảm 185 NDT/tấn so với tuần trước đó.
Hôm thứ Ba, một nhà máy lớn ở đông bắc Trung Quốc đã chọn cách duy trì chào giá CRC không thay đổi so với tuần trước và giữ ở mức 530 USD/tấn FOB - giảm 20 USD/tấn so với tuần kết thúc ngày 10 tháng 3. Chào giá từ các doanh nghiệp lớn khác phổ biến ở mức 570-580 USD/tấn FOB trong cùng ngày.
Tất cả các nhà xuất khẩu mà Platts liên hệ đều nói rằng rất khó để chốt các giao dịch ở mức 560 USD/tấn FOB trong tuần này, do sự sụt giảm của giá trong nước. Mặt khác, mức giá 570-580 USD/tấn FOB không hấp dẫn người mua ở nước ngoài chút nào vì họ sợ giá có thể giảm thêm nữa và do đó đã tạm ngừng mua.
"Có nhu cầu ở nước ngoài cho CRC của Trung Quốc, nhưng giá rớt trong nước đã làm cho người mua lo sợ và rời khỏi thị trường", một nhà kinh doanh xuất khẩu nói, cho thấy việc thu mua sẽ xuất hiện ngay khi giá của Trung Quốc ổn định. Một người khác cho biết thêm: "Quan điểm thị trường về xu hướng thị trường Trung Quốc trong tháng 4 vẫn còn trái chiều, vì vậy không có gì lạ khi khách hàng ở nước ngoài ngần ngại đặt hàng ngay bây giờ”.
HRC Châu Á rơi xuống mức thấp 3 tháng do chào giá thấp hơn
Hôm thứ Ba, giá giao ngaycủa thép cuộn cán nóng tại khu vực châu Á đã giảm xuống mức thấp hơn 3 tháng qua khi một số nhà xuất khẩu hạ chào giá hơn nữa để thu hút sự quan tâm mua. Platts định giá HRC SS400 dày 3.0mm ở mức 489-495 USD/tấn FOB Trung Quốc, với mức giá trung bình là 492 USD/tấn, giảm 5 USD/tấn so với ngày trước đó và ở mức thấp nhất kể từ ngày 6 tháng 12.
Tại thị trường đại lý Thượng Hải, cùng ngày, HRC Q235 5.5mm đã được định giá 3.550-3.570 NDT/tấn (515-518 USD/tấn) xuất xưởng với thuế VAT 17%, giảm 60 NDT/tấn so với ngày thứ Hai.
Một nhà máy lớn ở đông bắc Trung Quốc vào cuối ngày thứ Hai đã hạ giá chào bán xuống 10 USD/tấn còn 490-495 USD/tấn FOB Trung Quốc cho HRC SS400. Lý do đằng sau việc giảm giá của nhà máy này có thể là do doanh số bán hàng trong nước thấp, một thương nhân ở miền đông Trung Quốc giải thích. Nghe nói một vài người mua từ Hàn Quốc đã đặt đơn đặt hàng với giá khoảng 495 USD/tấn FOB Trung Quốc với các nhà máy trên vào ngày thứ Ba.
Tuy nhiên, hầu hết những người mua khác ở nước ngoài không muốn đặt hàng vì lo sợ giá sẽ sớm giảm trở lại trong thời gian tới, một nhà máy ở miền đông cho biết. Chính nhà máy này cũng không nhận được bất kỳ giá hỏi mua nào vào ngày thứ Ba cho giá chào 505-510 USD/tấn CFR Việt Nam của nhà máy cho HRC SS400 sau khi bán một số thép cuộn với giá 495 USD/tấn FOB Trung Quốc vào tuần trước.
Các nhà máy Trung Quốc khác đã bị thuyết phục để giảm chào giá xuống 495-500 USD/tấn FOB Trung Quốc cho HRC SS400 nhưng không có giao dịch nào được nghe nói ở mức giá đó.
Đối với thép cuộn SAE, một thỏa thuận cho thép cuộn được sản xuất bởi Baosteel đã được nghe nói chốt với giá 512 USD/tấn CFR Việt Nam cho lô hàng vào tháng 4, một thương nhân Việt Nam cho biết. Một số thương nhân chỉ chào giá 495-503 USD/tấn cho thép cuộn cùng loại từ các doanh nghiệp Trung Quốc khác, theo hai thương nhân Việt Nam và một nhà máy cán thép của Việt Nam. Một nhà máy của Nhật Bản chỉ chào giá 513 USD/tấn CFR Việt Nam cho cuộn cùng loại.