Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 22/04/2015

 Thị trường ống đúc của Trung Quốc đứng trước sức ép 

Thị trường ống đúc giao ngay ở Thượng Hải vẫn bình ổn trong tuần này nhưng sức ép ngày càng gia tăng do thép tròn đặc có giá thấp hơn. Điều này xảy ra sau khi một vài nhà sản xuất thép tròn đặc lớn ở tỉnh Giang Tô thông báo rằng họ đã lên kế hoạch để giảm giá xuất xưởng thêm nữa từ ngày 21-30/4.

Các nhà máy ở miền đông đã giảm giá thép tròn đặc lần thứ hai với mức giảm tổng cộng 80-150 NDT/tấn và thấp hơn khoảng 400 NDT/tấn so với đầu năm nay.

Theo đó, thép tròn đặc 20# 50-130mm được sản xuất từ Zenith Steel Group và Changqiang Iron & Steel –hai nhà sản xuất lớn ở Giang Tô- giảm 30 NDT/tấn (5 USD/tấn) còn 2.600 NDT/tấn (419 USD/tấn) và 2.550 NDT/tấn (411 USD/tấn) xuất xưởng gồm VAT. Thép tròn đặc được cung cấp bởi Huaigang Special Steel ở Giang Tô giảm 80 NDT/tấn còn 2.570 NDT/tấn.

Nhiều người kinh doanh thép ống ở thị trường bán lẻ Thượng Hải phần lớn vẫn giữ giá ổn định hôm 21/4. Họ đang chào bán ống đúc loại 20# 219x6mm (GB/T 8163) được sản xuất từ các nhà máy ở miền đông khoảng 3.500 NDT/tấn (572 USD/tấn) gồm 17% VAT, bằng với định giá của thứ Sáu tuần trước. Đây là mức thấp kỷ lục kể từ khi Platts bắt đầu theo dõi vào tháng 09/2008.

Nhu cầu từ lĩnh vực xây dựng và máy móc vẫn còn chậm chạp, mặc dù tốt hơn một chút so với tháng trước. Các thương nhân vẫn trong tâm trạng chờ đợi vì họ tin là các nhà máy thép ống ở miền đông có thể hạ giá xuống thấp hơn.

Giá CRC trong nước và xuất khẩu Trung Quốc giảm do nhu cầu suy yếu hơn 

Giá xuất khẩu CRC Trung Quốc giảm tuần thứ ba do nhu cầu ở nước ngoài ít ỏi cộng thêm giá trong nước lún sâu. Nhiều nhà xuất khẩu nghĩ rằng giá CRC khó mà phục hồi trong thời gian ngắn.

Platts định giá CRC SPCC dày 1.0mm trong khoảng 418-423 USD/tấn FOB Trung Quốc hôm thứ Ba, giảm 2 USD/tấn so với tuần trước. Chào giá vẫn không thay đổi nhiều so với 420-425 USD/tấn FOB của tuần trước do nhiều nhà máy không chịu nhúc nhích, nhưng các cuộc thương lượng riêng có thể thấp hơn 1-2 USD/tấn.

Một nguồn tin từ nhà máy ở Hà Bắc cho biết đã bán với giá trên 420 USD/tấn FOB, nhưng lại bi quan về sự phục hồi của giá trong vài ngày tới.

Giá CRC trong nước giảm nhanh đang khiến người mua ở nước ngoài do dự thu mua, dẫn đến thiếu đơn đặt hàng. “Nếu giá trong nước tăng, sức mua ở nước ngoài sẽ được hỗ trợ. Nhưng thật không may, giá trong nước có ít dấu hiệu phục hồi”. Platts định giá CRC cùng loại 2.980-3.020 NDT/tấn (481-487 USD/tấn) gồm 17% VAT, giảm 40 NDT/tấn so với tuần trước.

Tình hình nguồn cung quá lớn cũng có rất ít triển vọng giảm, một nhà máy lớn ở miền bắc Trung Quốc không thấy có bất kỳ đối thủ nào của ông có ý định giảm bớt sản lượng vì giá mềm hơn. Mặc dù quặng sắt có sự cải thiện nhẹ.

Tuy nhiên, HRC cũng tiếp tục suy yếu, CRC SAE1006 2mm từ một nhà máy hàng đầu được chào giá 375 USD/tấn CFR Việt Nam. Mức giá này khoảng 360 USD/tấn FOB sau khi trừ đi phí vận chuyển. Platts định giá HRC SS400 3mm thứ Năm tuần trước ở mức 365 USD/tấn FOB Trung Quốc.   

Gía phế Mỹ tháng 5 bình ổn

Gía phế Mỹ tháng 5 dự báo tương đối bình ổn do nguồn cung hạn chế và sức mua cũng mỏng.

Kể từ khi giá giảm trong tháng 2, giá phế Mỹ vẫn bình ổn trong tháng 3 và tháng 4. Các đàm phán dự báo bắt đầu vào tháng tới sau cuộc họp tại Vancouver tuần này.

Gía phế dự báo sẽ đi từ bình ổn tới tăng thêm 10 USD/tấn tùy trường hợp.

Platts định giá phế vụn tại mức 262.50 USD/tấn giao tới Midwest, không đổi so với tháng 3. 

Gía phế vẫn đang tăng trưởng nhờ vào tiêu thụ bình ổn từ nhà máy EAF lớn hỗ trợ niềm tin thị trường trong khi số khác cho rằng việc này không phản ánh đa số nhu cầu tiêu thụ thực tế trên thị trường.

Thép cây nhập khẩu vào Mỹ tăng giá

Gía thép cây nhập khẩu vào Mỹ có triển vọng giữ nguyên hoặc tăng nhẹ. Do giá phế Thổ Nhĩ Kỳ đang tăng nên có thể họ cũng tăng giá chào bán thép cây. Gía mục tiêu là 460-465 USD/tấn CFR Houston.

Platts định giá phế HMS I/II tại mức 271 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ trong ngày thứ ba, tăng 3.5 USD/tấn so với thứ hai.

Các nhà máy không sẵn sàng cho giá trên. Họ đã mua tại mức 450 USD/tấn giao bằng xe tải tới Houston nhưng hiện tại, giá này không còn đem lại lợi nhuận cho các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ.

Các thương nhân Mỹ đang chờ đợi giá thép cây Thổ Nhĩ Kỳ giảm. Tuy nhiên, không có ai chào bán tại mức thấp hơn 453 USD/tấn. Mặc dù giá chưa tăng nhưng ít nhất họ cũng giữ giá bình ổn.

Một thương nhân khác cho biết các nhà máy thép cây Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng giá thêm 5 USD/tấn, đạt mức 460 USD/tấn CFR nhưng chưa ai chấp nhận. Platts định giá thép cây nhập khẩu tại mức 452-463 USD/tấn CIF Houston.

Gía HRC Mỹ giảm nhưng doanh số có thể tăng

Gía HRC Mỹ giảm nhẹ nhưng đơn hàng tăng và áp lực cũng đang thuyên giảm.

Platts giảm giá HRC xuống còn 440-450 USD/tấn từ mức 445-455 USD/tấn trong khi vẫn duy trì giá CRC tại mức 570-590 USD/tấn xuất xưởng Midwest (Indiana).

 

Gía HRC phổ biến trên thị trường Midwest là 445 USD/tấn nhưng giá 440 USD/tấn cũng có sẵn. Người mua sẽ đạt được giá 440 USD/tấn cho các đơn hàng lớn hoặc phải là khách hàng lớn, song cũng có vài trường hợp họ có thể mua đơn hàng dưới 100 tấn tại mức giá 440 USD/tấn nếu nhà máy đó đói đơn hàng.

Định giá phôi thanh CIS

Platts định giá phôi thanh CIS tại mức 370 USD/tấn FOB Biển Đen trong ngày thứ 3, không đổi so với ngày trước đó.

Thị trường không có nhiều biến chuyển. Người mua Ai Cập đang đặt mua phôi thanh tại mức 389-395 USD/tấn CFR, tương đương mức 367-375 USD/tấn FOB.

Shagang giảm giá thép cây cuối tháng 04 xuống 6 USD/tấn ở thị trường suy yếu

Jiangsu Shagang Group hạ giá xuất xưởng thép cây từ ngày 21-30/4 xuống 40 NDT/tấn (6 USD/tấn), sau khi giảm tới 80 NDT/tấn vào giữa tháng 04.

Sau động thái này, thép cây HRB400 đường kính 16-25mm giảm còn 2.430 NDT/tấn gồm 17% VAT. Ngoài ra, nhà máy cũng cam kết sẽ bù cho các đại lý của mình 40 NDT/tấn cho những đơn đặt hàng vào giữa tháng 04. Tương tự, cuộn trơn HPB300 của Shagang cũng giảm 50 NDT/tấn còn 2.390 NDT/tấn gồm VAT.

Theo ông, Shagang đã hạ giá để thu hẹp khoảng cách giữa giá thị trường giao ngay và xuất xưởng. Hôm thứ Ba ở Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang, giá giao ngay của thép cây HRB400 đường kính 16-25mm của Shagang giảm khoảng 20 NDT/tấn so với một tuần trước còn 2.330-2.340 NDT/tấn gồm VAT.

Giá giao ngay ở thị trường Hàng Châu có thể giảm sâu hơn, nhưng khả năng để giá rớt sâu hơn rất hạn chế. Ông cho biết giá rất có thể sẽ dao động ở mức thấp hiện nay bởi vì không có sự cải thiện đáng kể nào trên thị trường ít nhất là nửa đầu năm nay.

Tuy nhiên, một thương nhân ở Hàng Châu cho biết nhiều nhà máy thép có thể giảm giá sâu hơn trong khi nhu cầu vẫn còn trì trệ bởi vì họ đang hưởng lợi nhuận tốt hơn với chi phí quặng sắt thấp dao động khoảng 50 USD/tấn.

Ở Bắc Kinh, những nỗ lực của các đại lý nhằm nâng giá hôm thứ Hai chỉ được một thời gian ngắn ngủi, sau khi có thông báo hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ Ngân hàng trung ương vào cuối tuần trước. Giá giảm hôm thứ Ba do một số đại lý muốn kích thích doanh số trong bối cảnh sức mua chậm.

Giá giao ngay ở Bắc Kinh cho thép cây HRB400 đường kính 18-25mm hôm thứ Ba giảm 10 NDT/tấn so với thứ Hai còn 2.280-2.290 NDT/tấn xuất xưởng trọng lượng thực tế và gồm VAT. 

Định giá HRC EU

Platts vẫn giữ giá HRC Tây Bắc Âu bình ổn tại mức 407.5 Euro/tấn xuất xưởng Ruhr trong ngày thứ ba.

Gía tại Benelux đạt mức 400-410 Euro/tấn xuất xưởng nhưng tại Đức, giá đạt mức 405-410 Euro/tấn và 410-415 Euro/tấn.

Gía chào HRC Trung Quốc đạt mức 380-385 Euro/tấn CIF Antwerp nhưng không thu hút trong thời gian dài. 

Kardemir giảm giá gang thỏi

Nhà máy Kardemir đã giảm giá gang thỏi do đồng dolla tăng mặc dù giá phế nội địa và nhập khẩu cùng tăng.

Kardemir đã giảm giá gang thỏi đúc xuống 20 USD/tấn xuống còn 370-390 USD/tấn xuất xưởng trong khi giá gang thỏi cũng giảm cùng mức xuống còn 320-350 USD/tấn xuất xưởng.

 Cuối tuần qua, nhà máy này đã tăng giá thép thanh tròn lên mức 1.245 TRY/tấn (461 USD/tấn) xuất xưởng, tăng mạnh 80 TRY/tấn so với giá niêm yết trước ngày 24/3. Gía thép cây cũng tăng cùng mức lên 1.228 TRY/tấn (454 USD/tấn) xuất xưởng do đồng Lira tiếp tục leo thang trong mấy gnày gần đây với giá phế trong nước và nhập khẩu đều tăng.

Nhà máy này vẫn chưa mở cửa bán lại phôi thanh trong ngày hôm qua. Tất cả giá của Kardemir chưa tính VAT 18%.

Chi phí đầu vào tăng gây áp lực cho giá HRC Thổ Nhĩ Kỳ

Gía nhập khẩu phế tăng đã gây áp lực cho giá HRC Thổ Nhĩ Kỳ trong khi tiền mặt thiếu hụt kìm hãm giao dịch.

Hầu như người mua tiếp tục hoãn lại đơn hàng do thiếu tiền mặt, tuy nhiên, các nhà máy vẫn từ chối giá chào thấp do lợi nhuận đã bị thu hẹp từ giá phế tăng.

Gía chào HRC Thổ Nhĩ Kỳ nhìn chung đạt mức 425-445 USD/tấn sản xuất tháng 6-7, cao hơn tuần trước 5 USD/tấn.

Gía chào nhập khẩu từ CIS thấp do giá quặng thấp cũng gây áp lực cho các nhà máy nội địa. Các nhà máy Ukraina đang chào bán HRC tại mứuc 375-380 USD/tấn FOB trong khi giá chào từ Nga đạt mức 385-390 USD/tấn FOB.

Nhu cầu tiêu thụ và giá thép dường như chưa thể tăng trong thời gian ngắn do tỷ giá dao động, tiền mặt thiếu hụt kìm hãm giao dịch. Tuy nhiên, chi phí đầu vào tăng sẽ ngăn không cho giá giảm thêm nữa.

Giá phôi tấm nhập khẩu Đông Á suy yếu do thị trường ảm đạm

Giá nhập khẩu phôi tấm được dự báo là sẽ vẫn còn suy yếu ở Đông Á do giá thép thành phẩm thấp.

Nghe nói một nhà cung cấp của Nga đã bán tới một nhà cán lại Đài Loan trong suốt tuần đầu tiên của tháng 04 hai lô với khối lượng mỗi lô là 40.000-45.000 tấn, với giá 310 USD/tấn CFR và 315 USD/tấn CFR. “Nhà máy ban đầu chào giá 330 USD/tấn CFR và nhà cán lại cố gắng trả giá ở mức dưới 310 USD/tấn CFR”.

HRC xuất khẩu có thể đạt tới 370-380 USD/tấn FOB, và các nhà cán lại cần lãi ít nhất 70 USD/tấn để hòa vốn. Nhưng các nhà máy mà mua phôi tấm để bán HRC ở những thị trường được bảo vệ của họ có thể phải trả thêm tiền. Giá đặt mua phôi tấm của Đài Loan ở mức 300 USD/tấn CFR trong hai tháng qua nhưng giá này không được các nhà cung cấp chấp nhận.

Các nhà cung cấp của Nga đang đặt mục tiêu xuất khẩu phôi tấm với giá 340-350 CFR hồi cuối tháng 03. Phôi tấm của Nhật trước đó được đặt mua với giá 312 USD/tấn CFR Đài Loan cuối tháng 03. Giá xuất khẩu Nhật Bản hiện đang phổ biến ở quanh mức 315 USD/tấn CFR Đài Loan và Đông Nam Á.

Phôi tấm dùng để sản xuất thép của Brazil nghe nói được đặt mua ở mức giá 320-325 USD/tấn CFR Indonesia hồi đầu tháng này. Chào giá phôi tấm của những nước khác vào khoảng 320-330 USD/tấn CFR.

Tại Platts, định giá phôi tấm nhập khẩu hàng tháng hôm 31/5 là 315-330 USD/tấn CFR Đông Á, giảm từ 340-350 USD/tấn của cuối tháng 02. 

Gía thép tấm dày Mỹ gặp áp lực, tấm mỏng gần chạm đáy

Áp lực giá giảm tiếp tục đè nặng lên thị trường thép tấm Mỹ do hàng tồn kho giảm chậm và hàng nhập khẩu tăng.

Platts định giá thép tấm thương phẩm A36 tại mức 590-600 USD/tấn xuất xưởng Đông Nam Mỹ trong ngày thứ ba, giảm 35 USD/tấn từ ngày 1/ 4.

Gía chào nhập khẩu hầu như đạt mức 510-520 USD/tấn CIF Houston và có thể ở mức thấp 500 USD/tấn. Mặc dù số lượng đơn hàng tháng 7-8 rất ít nhưng thép tấm nhập khẩu đang trên đường đến trong Qúy này gây khó khăn cho các trung tâm dịch vụ muốn cắt giảm hàng tồn kho. 

Hầu hết các trung tâm dịch vụ tin rằng giá thép tấm mỏng sẽ chạm đáy trước thép tấm dày. Đà suy yếu giá HRC đã chậm lại. Hầu hết các người mua HRC tại Midwest cho rằng mức giá 440 USD/tấn xuất xưởng đã là giá đáy. Vài nguồn tin còn cho rằng đã có giá 435 USD/tấn trong khi số khác cho biết giá đạt mức cao 450 USD/tấn.

 Gía phôi thanh Biển Đen vẫn ổn định

Gía phôi thanh Biển Đen vẫn ổn định nhờ giá phế tăng và người mua Ai Cập đặt nhiều đơn hàng hơn. Platts vẫn giữ giá phôi thanh Biển Đen tại mức 370USD/tấn FOB, bình ổn so với ngày trước đó.

Các nhà máy CIS đã tăng nhẹ giá phôi thanh giao tháng 5 mặc dù tâm lý thị trường hoàn toàn khác nhau ở các thị trường truyền thống Ai Cập và Thổ Nhĩ Kỳ.

Các nhà máy Ai Cập đang đặt mua nhiều phôi thanh tại mức 389-395 USD/tấn CFR. Một thương nhân tại Levant cho biết giá đạt mức 389 USD/tấn CIF Damietta trong khi vài đơn hàng xuất xưởng CIS đạt mức 390-393 USD/tấn CFR Alexandria. Ai Cập dường như vẫn là thị trường nhập khẩu năng động sau khi áp thuế nhập khẩu đối với thép cây. Điều này giúp thúc đẩy các nhà máy thép cây Ai Cập mua hàng và các nhà máy CIS nhận được giá tốt hơn từ người mua Thổ Nhĩ Kỳ.

Tại Thổ Nhĩ Kỳ, các nhà máy CIS không sẵn sàng chiết khấu từ mức giá mục tiêu 370-375 USD/tấn FOB giao tháng 5. Các lô hàng tháng 6 vẫn chưa có sẵn trên thị trường. Một thương nhân Châu Âu cho biết giá chào cho lô hàng tháng 5 từ nhà máy Novorosmetal Nga đạt mức 375 USD/tấn FOB Biển Đen. Một thương nhân Trung Đông đang tìm cách bán hàng tại mức 390 USD/tấn CNF Thổ Nhĩ Kỳ nhưng không ai tin giá này có thể được chấp nhận.