Chống bán phá giá là điểm tựa cho chế độ bảo hộ mậu dịch trên thị trường thép toàn cầu
Hàng nhập khẩu Trung Quốc tràn lan đã làm dịch chuyển tính năng động của ngành thép toàn cầu chế độ bảo hộ mậu dịch đang ngày càng phổ biến trên nhiều khu vực. EU xem tự do thương mại là những nguyên tắc của nó nên thận trọng hơn so với các quốc gia khác khi sử dụng các biện pháp thương mại. Tuy nhiên, trong tuần qua, Uỷ Ban EU tiết lộ rằng nó đang điều tra CRC nhập khẩu theo sau các thuế áp dụng cho thép mạ điện và đang nhắm hướng điều tra tới thép cây Trung Quốc.
EU điều tra CRC nhập từ Trung Quốc và Nga do 2 nước này xuất khẩu một lượng lớn thép CRC vào bắc và nam Âu mặc dù sự suy yếu đồng Euro gây khó khăn cho hàng nhập khẩu. Tin này có tác động đặc biệt tới các nhà máy Nga khi họ đang bị điều tra phá giá HRC Mỹ và tiêu thụ nội địa thì giảm sút. Hiện tượng đầu cơ cũng hoành hành tại thị trường CRC Mỹ khi điều tra chống bán phá giá nhắm vào CRC Nga.
Trong khi đó, tiêu thụ thép cuộn FOB Biển Đen vẫn yếu ớt và cũng do các lo ngại về điều tra bán phá giá. Nga và Ukraina đang cố gắng giữ giá xuất khẩu HRC sản xuất tháng 6. Platts giữ nguyên định giá HRC CIS tuần qua tại mức 345-355 USD/tấn.
Thị trường Mỹ đã khởi sắc nhẹ trong tuần qua với HRC tăng 2.5 USD/tấn so với tuần trước đó, đạt mức 460-465 USD/tấn xuất xưởng Indiana. Đây là dấu hiệu tăng thành công và cũng thôi thúc đợt tăng giá lần 2.
Tại Đông Á, tình hình thị trường yếu hơn với giá HRC Thượng Hải giảm 30 NDT/tấn so với tuần trước đó. Các thương nhân trong nước cho biết giá sẽ còn giảm nữa trong tuần 18/5 do sức mua chưa thể quật dậy trong mùa mưa.
Nhu cầu tiêu thụ tại thị trường thép cây Trung Quốc vẫn khan hiếm cũng do giá phôi thanh giảm. Hàng tồn kho tại Bắc Kinh giảm 23.000 tấn (5% so với tuần trước) còn 427.500 tấn, tháng giảm thứ 9 liên tiếp do các nhà môi giới chọn cách dựa vào nguyên liệu có sẵn trong kho.
Sự suy yếu tại thị trường thép đẩy giá quặng lún sâu hơn nữa trong cuối tuần qua do chi phí nguyên liệu thô tăng vượt mặt tốc độ gia tăng giá thép. Tuy nhiên, có sự tăng nhẹ trở lại hồi đầu tuần này đã giúp hạn chế sự sụt giảm. Gía quặng chỉ giảm 0.25 USD/tấn so với tuần trước.
Phụ thu không gỉ tháng 6 tại Mỹ tăng
Phụ thu thép không gỉ chứa niken tại Mỹ tăng cho các đơn hàng giao tháng 6 sau công bố của AK Steel và Allegheny Technologies Inc.
Phụ thu thép 304 trong tháng 6 tăng lên mức 59.07-59.11 cents/lb từ mức 56.56-56.59 cents/lb trong tháng 5 trong khi loại 316 tăng lên mức 78.42-78.48 cents/lb từ mức 76.49-76.57 cents/lb.
Trước khi tăng giá, phụ thu thép 304 và 316 đã giảm hết 6 trong 7 tháng qua.
Phụ thu thép Ferritic 430 vẫn bình ổn, giảm từ mức 18.32 cents/lb lên mức 18.03 cents/lb.
Kết thúc ngày giao dịch hôm qua, North American Stainless vẫn chưa công bố phí phụ thu.
Các nhà máy CRC Mỹ dốc sức tìm cách tăng giá thép
Gía CRC Mỹ dường như ít biến động hơn thị trường CRC mặc dù tiêu thụ bình ổn và tâm lý nhìn chung lạc quan trước lần thông báo tăng giá thép cán dẹt gần đây.
Đà tăng gía CRC không bắt kịp thị trường HRC do nguồn cung trong và ngoài nước cao.Gía đơn hàng CRC tuần này đạt mức 575 USD/tấn.
Một nhà máy lớn cho rằng giá thị trường gần mức 580-600 USD/tấn xuất xưởng. HRC hiện tại là 460-465 USD/tấn mặc dù các đơn hàng nhỏ hơn có thể có giá cao hơn.
Vài nhà máy có thể sẵn sàng chấp nhận giá thấp từ khách hàng để thu được đơn hàng nhiều nhất có thể. Vài người mua đang nghĩ về việc bổ sung nguyên liệu trước các đàm phán lao động của các nhà máy có thể dẫn tới ngưng sản xuất và nhiều hệ lụy.
Nguồn cung cũng đang hạn chế liên quan tới các vụ kiện thương mại. Mặc dù chưa có kết quả về chống bán phá giá song ít nhiều các đồn đoán cũng ảnh hưởng tới các nhà nhập khẩu.
Platts vẫn duy trì giá HRC tại mức 460-465 USD/tấn và CRC tại mức 570-590 USD/tấn xuất xưởng Midwest (Indiana).
Định giá phôi thanh CIS
Platts định giá phôi thanh CIS tại mức 374 USD/tấn FOB Biển Đen trong ngày thứ năm, giảm 1 USD/tấn so với ngày trước đó.
Thị trường vẫn trầm lắng sau khi các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ tăng thu mua phôi thanh Trung Quốc. Nhà máy BMZ Belorux đã bán 20.000 tấn phôi giao tháng 7 tại mức 370 USD/tấn FOB Odessa tới các thương nhân thanh toán trước đầy đủ hồi đầu tuần qua, giảm 5 USD/tấn so với trước đó. Gía chào từ CIS đã ngưng tăng và có thể giảm nhẹ còn 375-380 USD/tấn FOB Biển Đen. Gía phôi thanh Trung Quốc đạt mức 365 USD/tấn FOB và tâm lý thị trường suy yếu.
Các thương nhân chỉ quan tâm mức giá 370-375 USD/tấn FOB Biển Đen.
Tín hiệu suy yếu tại thị trường phế Thổ Nhĩ Kỳ
Nhà máy hợp kim hàng đầu Thổ Nhĩ Kỳ, Asil Celik đã giảm giá mua phế DKP xuống 20 TRY/tấn còn 730 TRY/tấn (282 USD/tấn) trong tháng 5, chủ yếu do đồng Lira suy yếu so với dolla trong thời gian gần đây.
Gía mua phế DKP của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ hầu như bình ổn trong tuần này theo giá phế nhập khẩu nhưng do đồng Lira suy yếu nên giá mua phế tính theo đồng dolla tăng 7 USD/tấn tuần qua.
Nhà máy Iskenderun thuộc tập đoàn Erdemir vẫn duy trì giá mua phế DKP tại mức 775 TRY/tấn (299 USD/tấn) kể từ ngày 12/5 trong khi Eregli vẫn giữ giá mua phế DKP tại mức 800 TRY/tấn (308 USD/tấn) kể từ ngày 13/5.
Gía mua phế DKP của Kardemir vẫn duy trì giá phế bình ổn tại mức 770 TRY/tấn 9297 USD/tấn) kể từ ngày 12/5. Một trong các nhà máy EAF lớn nhất nước, Colakoglu cũng giữ giá ở mức 720 TRY/tấn (278 USD/tấn).
Trong khi đó, giá mua phế xác tàu bằng đồng dolla cũng bình ổn tuần này. Phế nóng chảy từ các tàu bị vỡ được chào bán tới các nhà máy phía Tây gồm Habas, IDC, Ege Celik, Ozkanlar tại mức 280-285 USD/tấn.
Phụ thu thép không gỉ của nhà máy Outokumpu Châu Âu không ổn định trong tháng 6
Mức phụ thu hợp kim tính cho các loại thép cán dẹt không gỉ austenitic trong tháng 6 tại Châu Âu xáo trộn.
Nhà máy Outokumpu Phần Lan tăng giá phụ thu hợp kim tháng 6 cho thép dẹt 304 (4301) thêm 5 Euro/tấn, đạtmức 1.278 Euro/tấn (1.420 USD/tấn).
Gía niken tính theo đồng dolla tại sàn LME đã tăng nhẹ lại trong mấy tuần gần đây sau khi chạm mức thấp nhất 6 năm hồi giữa tháng 4. Gía niken LME tính bằng tiền mặt đạt mức bình quân 13.798 USD/tấn từ tháng 5 tới nay, tăng từ mức 12.783 USD/tấn tháng 4.
Phụ thu thép dẹt 316 (4401) molybdenum đạt mức 1.821 Euro/tấn, giảm từ mức 1.852 Euro/tấn tháng 5.
Gía molydenum oxide hầu như bình ổn trong tháng 8, giao dịch tại mức thu hẹp 7.55-7.75 USD/lb, giảm so với mức trên 8 USD/lb hồi đầu tháng 4.
Trong khi đó, sau 4 tháng tăng giá thành công, đưa giá phụ thu thép dẹt 430 không chứa niken lên mức 483 Euro/tấn trong tháng 5 từ mức 439 Euro/tấn tháng 1, mức phụ thu tháng 6 đã giảm 7 Euro/tấn còn 476 Euro/tấn.
Các nhà máy khác vẫn chưa có thông báo điều chỉnh giá.
Gía thép cây Bắc Âu bình ổn dựa trên giá phế ổn định
Thị trường thép cây Tây Bắc Âu vẫn bình ổn trong mấy ngày qua sau 2 kỳ lễ vào cuối tuần kìm hãm giao dịch. Gía phế Châu Âu tăng nhẹ 2-5 Euro/tấn trong tháng 5 giúp các nhà máy có động lực tăng giá chào bán.
Trong tuần này, thị trường không có nhiều biến chuyển và nhưng có thể tăng nữa sau khi đã tăng hồi đầu tháng nhờ giá phế hỗ trợ.
Một khách hàng tại Benelux, khu vực có giá dao động quanh mức 450 Euro/tấn đã tính phí giao hàng, cho biết đây là tháng khó khăn với doanh số thấp hơn thường lệ. Mọi người đang chờ tới phút cuối mới thu mua thép và chỉ mua đủ nhu cầu.
Tại Pháp, giá mua vẫn quanh mức 185-190 Euro/tấn đã tính phí giao hàng cơ sở (435-440 Euro/tấn đã tính phí thực tế).
Platts cũng giữ giá thép cây Châu Âu tại mức 425 Euro/tấn xuất xưởng thực tế, không đổi kể từ ngày 8/5.
Định giá HRC EU
Platts định giá HRC Tây Bắc Âu bình ổn tại mức 405 Euro/tấn xuất xưởng Ruhr trong ngày thứ năm.
Gía chào từ các nhà máy Châu Âu bình ổn tại mức 400-410 Euro/tấn với chênh lệch giá giữa Benelux và Đức là 5 Euro/tấn.
Gía chào từ Trung Quốc đã suy yếu nhẹ do đồng Euro tăng với giá chào đạt mức 375-380 Euro/tấn CIF Antwerp trong khi giá Iran chạm mức sàn.
Thị trường HRC Thổ Nhĩ Kỳ bình ổn trước Lễ bầu cử
Nhu cầu tiêu thụ và giá HRC Thổ Nhĩ Kỳ có thể chậm lại trong tuần này do đơn hàng giảm trước bối cảnh bất ổn và vấn nạn thiếu tiền mặt trước thềm bầu cử ngày 7/6.
Sự phục hồi nhẹ trong tiêu thụ đã giúp các nhà máy nội địa bán thép với giá cao hơn 5-10 USD/tấn trong các tuần đầu tháng 5. Tuy nhiên, giá xuất xưởng không thể vượt mốc 450 USD/tấn, mức giá mục tiêu trong bối cảnh giá phế tăng.
Gía chào HRC trong nước Thổ Nhĩ Kỳ sản xuất tháng 7 hiện được chào bán tại mức 435-450 USD/tấn xuất xưởng trong khi tiếp tục chào bán HRC xuất khẩu tại mức 400-415 USD/tấn FOB trong bối cảnh tiêu thụ thấp và cạnh tranh gay gắt.
Trong khi đó, giá chào HRC từ CIS tới Thổ Nhĩ Kỳ tuần này tăng thêm 5-10 USD/tấn. Các nhà máy Ukraina đang chào bán HRC tại mức 375-385 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ trong khi giá chào mới nhất từ Nga đạt mức 385-395 USD/tấn CFR.
Tuy nhiên, do tình trạng thiếu tiền mặt tiếp tục kìm hãm giao dịch trong nước trước Lễ bầu cử ngày 7/6, người mua Thổ Nhĩ Kỳ vẫn chờ đợi trước khi đặt hàng do thị trường cũng dự báo trầm lắng trong Lễ Ramadan tháng 6 và 7.
Hầu hết các nguồn tin dự báo sức mua và giá thép sẽ chỉ phục hồi trong tháng 9 nhưng nếu Bộ kinh tế Thổ Nhĩ Kỳ thông báo tiếp tục chống bán phá giá cho vài nước thì điều này có thể hỗ trợ giá nội địa trong những tuần tới.
Thị trường thép cuộn Mỹ chậm chạp trong bối cảnh bất ổn
Các đơn hàng HRC và CRC nhập khẩu mới vào Mỹ vẫn thấp do chênh lệch giá với nội địa quá gần nên không thu hút người mua. Tuy nhiên, tâm lý thị trường về nửa sau năm 2015 vẫn xáo trộn.
Một trung tâm dịch vụ cho biết giá chào nhập khẩu trở nên cạnh tranh trở lại do thị trường toàn cầu vẫn yếu và Trung Quốc tiếp tục gây áp lực cho thị trường nội địa. Mặc dù công suất sản xuất có giảm nên sản lượng thép từ Trung Quốc tới Braxin tới Mỹ nhưng thị trường vẫn yếu. Gía giao dịch tại Đức rẻ. Ý còn rẻ hơn. Usiminas đã giảm sản xuất lò cao nhưng họ vẫn tìm cách xuất hàng tới Mỹ.
Trong ngày thứ hai, Usiminas cho biết sẽ ngưng sản xuất tại hai trong 5 lò cao để thích nghi với tiêu thụ giảm tại thị trường thép và dự báo công suất sản xuất tầm 60%.
Gía chào nhập khẩu từ Braxin vẫn cạnh tranh do giá thép Thổ Nhĩ Kỳ gần đây đã tăng. Gía chào Braxin vào thị trường Houston đạt mức 400-410 USD/tấn giao tới cảng trong khi giá từ Thổ Nhĩ kỳ tăng lên mức 420-430 USD/tấn đã tính phí giao hàng.
Theo dự báo, giá HRC Mỹ có thể tăng thêm 40-50 USD/tấn nếu có chống bán phá giá CRC và HDG Trung Quốc.
Thị trường Mỹ vẫn bất ổn do đang chờ đợi chống bán phá giá. Vài nguồn tin tin rằng điều này có thể xảy ra trước cuối tháng trong khi số khác cho biết vài nhà máy nội địa muốn chờ cho tới khi doanh thu Q2 được công bố, có thể do họ muốn có chứng cứ về sự tổn thương của ngành thép nội địa so với Q1.
Tuy nhiên, một thương nhân Bờ Đông cho biết giá thép Trung Quốc hiện tại rất khó bán. Gía chào CRC Trung Quốc đạt mức 515-520 USD/tấn đã tính phí giao hàng Bờ Đông, tuy nhiên, hàng tồn kho quá mức và giá nội địa kìm hãm người mua.
Platts giảm giá HRC nhập khẩu xuống còn 390-400 USD/tấn từ mức 400-420 USD/tấn và CRC nhập khẩu còn 490-510 USD/tấn từ mức 500-520 USD/tấn. Tất cả các giá này tính theo CIF Houston.
Giá thép cây phía tây Nhật Bản giảm 1.000 Yên/tấn
Giá thép cây quanh khu vực Osaka, phía tây Nhật Bản đã giảm khoảng 1.000 Yên/tấn (8,3 USD/tấn) so với 1 tháng trước, hiện tại mức giá trung bình còn 54.000–55.000 Yên/tấn (446-455 USD/tấn) cho thép thanh cỡ thường.
Đằng sau sự sụt giảm này là sự thật trong khi các nhà sản xuất thép cây đã và đang duy trì giá của họ thì các khách hàng lại đang nài nỉ giảm giá và một số nhà phân phối đã chấp nhận mức giá này để bán được hàng, một nhà phân phối ở Osaka giải thích.
Một nhà phân phối khác ở Osaka cho biết một vài dự án xây dựng được dự kiến sẽ khởi động sau mua hè nhưng những dự án ở thành phố của ông hầu hết đều có quy mô vừa và nhỏ nên chỉ yêu cầu khối lượng thép vừa phải. “Chúng ta không nên kỳ vọng vào một sự phục hồi nhanh chóng của nhu cầu, nhưng tháng này và tháng tới sẽ thấy giá chạm đáy trên thị trường thép cây ở Osaka. Và sau đó chúng ta sẽ thấy giá phục hồi chậm chạp từ tháng 7”, ông nói.
Kyoei Steel, nhà sản xuất thép cây lớn nhất ở Nhật, nói về thị trường hôm thứ Năm rằng công ty sẽ duy trì giá thép cây trong nước cho những hợp đồng tháng 6. “Chúng tôi đã cân nhắc việc nâng giá nhưng đành nán lại vì thị trường chưa sẵn sàng đón nhận”, đại diện nhà máy cho biết.
Kyoei khôngbao giờ tiết lộ giá niêm yết của mình nhưng ông này cho biết giá bình quân trong tháng 5 cho hợp đồng thép cây cỡ thường tại nhà máy Hirakata, nằm ở Osaka khoảng 54.000 Yên/tấn, giảm 1.000 Yên/tấn so với tháng trước.
Người mua Thổ Nhĩ Kỳ từ chối giá chào mới từ CIS
Gía phôi thanh Thổ Nhĩ Kỳ vẫn tương đối bình ổn do bối cảnh thị trường trầm lắng trong khi người mua tiếp tục từ chối giá chào bán mới và ưa chuộng nhập phôi thanh Trung Quốc hơn bất chấp thời gian giao hàng kéo dài.
Các nhà máy CIS tiếp tục thử nghiệm thị trường với giá chào bán cao hơn trong tuần này nhưng do tình hình thu mua chậm chạp nên chưa được chấp nhận.
Gía chào mới từ Trung Quốc tới Thổ Nhĩ Kỳ là 370-375 USD/tấn CFR nhưng vẫn kèm theo chiết khấu.
Gía chào phôi thanh từ CIS đạt mức 390-400 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ giữa tháng 5 tùy thuộc vào cảng nhập nhưng giá dự thầu chỉ ở mức thấp 380 USD/tấn CFR.
Trong khi đó, giá phôi thanh chuẩn trong nước bình ổn tại mức 410-425 USD/tấn xuất xưởng kể từ đầu tuần qua. Do tiêu thụ thép thành phẩm đã suy yếu trong tuần này và nhu cầu tiêu thụ thép cây xuất khẩu vẫn tương đối thấp nên các nhà máy không chấp nhận chi phí sản xuất phôi thanh tăng.
Dự báo chung cho thị trường là bình ổn cả về giá và sức mua trước Lễ bầu cử cùng với sự bình ổn của giá phế nội địa và nhập khẩu trong mấy ngày gần đây.
Bengang duy trì giá HRC, HDG; giảm giá CRC cho tháng 6
Benxi Iron & Steel (Bengang) cho biết hôm thứ Tư rằng công ty sẽ duy trì giá giao tháng 6 cho HRC và HDG không đổi, nhưng lại hạ giá CRC xuống 50 NDT/tấn (8 USD/tấn).
Theo đó, HRC Q235 5.5mm vẫn nằm ở mức 2.990 NDT/tấn và 3.700 NDT/tấn cho HDG DC51D+Z 1.0mm, cả hai mức giá này đều là giá xuất xưởng và chưa có 17% VAT. CRC 01 1.0mm còn 3.060 NDT/tấn sau khi điều chỉnh.
Chính sách giá tháng 6 của Bengang phản ánh một cách chính xác giá của Anshan Iron & Steel và Wuhan Iron & Steel. Giá của Bengang nằm trong dự đoán của các thương nhân, mặc dù chúng vẫn còn cao khi so với giá giao ngay.
“Không có sự hỗ trợ nào từ các ngành công nghiệp sản xuất tiêu thụ thép trực tiếp”, một thương nhân ở Thượng Hải cố gắng giải thích tại sao nhu cầu suy yếu và giá HRC giao ngay vẫn duy trì ổn định, dẫn đến các nhà máy không thay đổi hoặc giảm giá.
Platts định giá HRC Q235 5.5mm ở Thượng Hải trong khoảng 2.380-2.400 NDT/tấn xuất xưởng gồm VAT hôm thứ Năm, giảm 10 NDT/tấn so với ngày trước đó, phản ánh mức giá mà hầu hết các giao dịch được ký kết. Các thương nhân tỏ ra bi quan về giá trong những ngày tới, do ít người có ý định thu mua thêm trong khi thanh khoản tín dụng thắt chặt.
Giá HRC nhập vào Châu Á tiếp tục lao dốc trong tuần thứ hai
Giá HRC nhập khẩu vào Châu Á giảm trong tuần thứ hai liên tiếp, chủ yếu là do sức mua suy yếu từ khu vực này cộng thêm sự cạnh tranh giữa các nhà máy ở Trung Quốc, Nga và Nhật Bản ngày càng gay gắt. Giá có thể sẽ giảm sâu hơn nữa trong tháng 6 nếu như các nhà máy và nhà xuất khẩu bắt đầu tranh giành đơn đặt hàng.
Platts định giá HRC SS400 dày trên 3mm là 355-360 USD/tấn FOB Trung Quốc hôm thứ Năm, giảm 2 USD/tấn so với tuần trước. Các thương nhân cho biết giao dịch được thực hiện với giá 360 USD/tấn đối với sản phẩm từ các nhà máy có chất lượng cao, và hầu hết những hợp đồng còn lại có giá khoảng 355 USD/tấn.
Chào giá phổ biến từ các nhà máy Trung Quốc vẫn duy trì không đổi so với tuần trước và giữ ở mức 360-365 USD/tấn, trong khi nghe nói một vài nhà máy đã hạ chào giá xuống 355 USD/tấn trong tuần này để thu hút đơn đặt hàng. Trong khi đó các hợp đồng riêng lẻ chỉ có 348 USD/tấn, nhưng hầu hết người bán đều không sẵn lòng để giá đi đến mức đó.
Đại diện một nhà máy ở miền đông chào bán HRC SS400 với giá 365-367 USD/tấn CFR Việt Nam và 365 USD/tấn CFR Hàn Quốc trong tuần này do sức mua yếu.
“Giá trên 360 USD/tấn FOB là không thể hấp dẫn bất cứ người mua nào hiện nay do chào giá thấp hơn từ Nhật đang tạo ra áp lực lớn tới các nhà máy và thương nhân Trung Quốc”, một thương nhân ở Thượng Hải nói. Ông nói thêm rằng HRC giá rẻ từ Nga không phải là mối đe dọa chính tới Trung Quốc, vì hầu hết mục tiêu xuất sang Châu Âu và Ấn Độ đối với Trung Quốc đều khó để tiếp cận hơn.
Một thương nhân khác thường xuất khẩu sang Ấn Độ cho biết việc kinh doanh của ông đã bị hạn chế bởi thép giá rẻ từ Nga và những yêu cầu tiêu chuẩn mới của Ấn Độ. “Xuất khẩu HRC của chúng tôi tới Ấn Độ trong 4 tháng đầu năm nay đã thu hẹp xuống hơn 80% so với năm ngoái”.
Một thương nhân ở miền đông Trung Quốc cho rằng các nhà máy khó mà giảm chào giá trong thời gian còn lại của tháng 05, do hầu hết cho đến nay họ đã đạt được mục tiêu xuất khẩu, nhưng giá có thể tiếp tục giảm vào tháng tới.
Thép cuộn loại cán lại được giao dịch với mức giá bình ổn từ 375-380 USD/tấn CFR Việt Nam cho loại SAE1006 2mm từ các nhà chủ đạo của Trung Quốc. Chào giá đứng ở mức 383 USD/tấn cho thép cuộn của Baosteel, 372 USD/tấn cho Xinyu Iron & Steel, và 390 USD/tấn cho Nippon Steel & Sumitomo Metal Corp.
Giá thép cây Châu Á giảm sâu do giá Trung Quốc thấp
Giá thép cây nhập khẩu vào Châu Á đi xuống sau khi duy trì không đổi trong hai tuần trước, do bị sức ép bởi giá đang giảm từ Trung Quốc. Hôm thứ Năm, Platts định giá thép cây BS460/HRB400 đường kính trên 16mm còn 332-335 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế.
Ở Hong Kong, thép của Trung Quốc được đặt mua với giá 348 USD/tấn CFR trọng lượng thực tế vào tuần trước. Với phí vận chuyển khoảng 13 USD/tấn, giá ký kết tương đương cỡ 335 USD/tấn FOB. Chào giá tới Hong Kong nhìn chung vẫn duy trì ổn định từ tuần trước, tầm 350-355 USD/tấn CFR.
Tuy nhiên, do đơn đặt hàng ở nước ngoài trong tháng này không được khả quan tại các nhà máy Trung Quốc, nên họ cho biết không thể thương lượng giảm giá xuống 345 USD/tấn CFR.
Chào giá tới Singapore cũng vẫn không thay đổi so với tuần trước và giữ ở mức 345-355 USD/tấn CFR trong lượng lý thuyết, mặc dù giá giao dịch cho thấy sức ép đi xuống. Cả người mua và bán đều cho biết có giao dịch ở mức giá 40 USD/tấn CFR Singapore trong tuần trước, tương đương 333 USD/tấn FOB Trung Quốc tính theo trọng lượng thực tế, trong đó phí vận chuyển là 17 USD/tấn và dung sai khối lượng 3%.
“Giá không cao và khách hàng đang muốn mua với mức từ 340 USD/tấn CFR trở xuống”, một đại lý ở Singapore cho biết.
Về phía thị trường nội địa, giá giao ngay ở Bắc Kinh đã giảm nhẹ trong tuần này do sức mua tiếp tục trì trệ. So với tuần trước, thép cây HRB400 đường kính18-25mm đã giảm 20 NDT/tấn còn 2.230-2.250 NDT/tấn (360-363 USD/tấn) xuất xưởng trọng lượng thực tế và gồm 17% VAT.