Thị trường thép Trung Quốc trước áp lực sản lượng cao, dự trữ thép thấp
Mưa nặng hạt liên tiếp kéo dài ở khu vực miền nam Trung Quốc đã phá vỡ sự cân bằng của thị trường thép nội địa, giá thép dẹt và xây dựng biến động từ xu hướng tăng, trở yếu rồi lại tụt dốc mạnh. Mùa nhu cầu thép xây dựng suy yếu cuối cùng đã lộ rõ những rủi ro tích trữ trong một thời gian dài. Tuy nhiên, sản lượng thép thô không hề có dấu hiệu sụt giảm, bất chấp giá thép liên tục lao dốc mạnh, điều này đã tạo thêm nhiều áp lực cho thị trường thép trong nước.
Sản lượng thép thô bình quân trong tháng 05 của Trung Quốc đạt 1,94 triệu tấn, chỉ rớt nhẹ so với tháng trước, nhưng sản lượng thép thô bình quân trong mười ngày đầu tháng 06 lại tăng vọt 1,967 triệu tấn. Giá quặng cao, nguồn điện thiếu hụt, lại thêm, nhu cầu suy yếu, nhưng vẫn không ảnh hưởng gì tới hiệu suất hoạt động của các nhà máy, sản lượng thép thô bình quân trong 05 tháng đầu năm nay đạt trên 1,90 triệu tấn.
Giới sản xuất thép Trung Quốc luôn giữ một vị trí ưu thế trong việc đàm phán giá cả, với tỷ lệ doanh số bán hàng gần 100%. Thực tế, giá xuất xưởng cũng như giá tại thị trường giao ngay không phải là nhân tố chính tác động tới lợi nhuận của nhà sản xuất. Trong nửa đầu năm nay, mặc dù giá giao ngay tiến triển theo chiều hướng không đồng đều với tốc độ chậm, nhưng các nhà sản xuất vẫn cương quyết không hạ giá xuất xưởng trước khi xác định được xu hướng giảm. Gía xuất xưởng từ các nhà sản xuất được cho là mang lại lợi nhuận khá tốt, hỗ trợ giữ sản lượng ở mức cao. Cho tới thời điểm này, ba đại gia sản xuất thép là Baosteel, WISCO và Angang đã điều chỉnh giảm giá xuất xưởng, rất có khả năng cắt giảm công suất hoạt động do thị trường thép hiện rất trì trệ.
Mặc dù sản lượng thép thô cao, tốc độ tiêu thụ hàng tồn tiến triển khá tốt tại thị trường nội địa. Biên độ giảm thép xây dựng cao hơn thép dẹt do nhu cầu trên thị trường thưa dần. Đà tăng trưởng của ngành sản xuất ô tô, máy móc, đóng tàu và đồ điện gia dụng chậm lại do chính sách kinh tế vĩ mô chặt chẽ, cùng với trận động đất xảy ra ở Nhật. Nhưng, FAI cao, tăng trưởng cao trong đầu tư bất động sản là lực đẩy hỗ trợ cho nhu cầu thép xây dựng, khiến tồn thép xây dựng đi xuống.
Tuy nhiên, giới thương nhân lại miễn cưỡng bổ sung hàng tồn do chính sách tiền tệ thắt chặt , tạo áp lực lớn lên giá cả. Bên cạnh đó, sự biến động của giá thép buộc thương nhân mua vào bán ra nhanh chóng nhằm tránh nguy cơ thiệt hại trước mắt. Hơn nữa, thương nhân lại tỏ ra khá cẩn trọng vì mùa nhu cầu thép suy yếu thường niên đang tới rất gần.
Sản lượng cao, tồn giảm, giá thép biến động trong biên độ hẹp là những nhân tố chính tác động tới thị trường thép trong nửa đầu năm nay. Hiện thị trường thép xây dựng đang giảm theo xu hướng của mặt hàng thép dẹt do khoảng cách chênh lệch giá khác nhau khiến giá nguyên liệu thô rớt. Động thái điều chỉnh giảm giá của giới sản xuất đã hạn chế lợi nhuận của họ và hàng tồn khả năng hầu như không còn giữ mức cao.
Tuy nhiên, do nhu cầu suy yếu, giá thép biến động, việc tiêu thụ hàng tồn sẽ khó khăn hơn trước. Thương nhân sẽ bổ sung hàng tồn khi giá nhúng xuống mức hợp lý để chuẩn bị cho dự án xây nhà bình dân giá rẻ vào nửa cuối năm nay. Như vậy, thị trường thép được dự báo sẽ tiến sang bước ngoặc mới trong những tháng còn lại của năm.
Chính sách tăng giá thép cuộn cán nóng của Posco liệu có thất bại?
Trong tháng 4, nhà sản xuất Posco của Hàn Quốc thông báo tăng giá một vài sản phẩm thép từ tháng 7, tuy nhiên, tăng giá thép cuộn cán nóng dường như không được thị trường chấp nhận. Công ty này đã thực hiện tăng giá nhiều loại sản phẩm kể từ các đơn hàng giao tháng 5 lên 160,000 won (tương đương 148 USD) ngoại trừ thép phôi tấm tăng 120,000 won (111 USD), thép cuộn cán nóng tăng lên mức 1,060,000 won (981 USD) từ mức cũ 900,000 won.
Tuy nhiên, báo cáo cho thấy mọi khách hàng đều phản ứng mạnh mẽ trước việc tăng giá này, và tiếp tục thương thảo giá trong đó có việc khôi phục chính sách chiết khấu của Posco. Mới đây, các cuộc thương lượng giá thép cán nóng giao tháng 7 đã bắt đầu giữa các nhà máy Nhật và nhà máy cán lại của Hàn Quốc. Sau đó, các nhà máy Nhật liên tục nhận được thông tin từ một khách hàng rằng họ không chấp nhận việc Posco tăng giá, và Posco đành phải hoãn việc tăng giá đối với sản phẩm giao tháng 6. Tuy nhiên, tình hình vẫn còn chưa rõ ràng bởi chưa có thông tin nào về việc nếu giá không tăng thì với chế độ tính giá cũ, chiết khấu giá (50,0000 – 100,000 won) có được áp dụng trở lại hay không.
Sở dĩ Posco tăng giá không được thị trường chấp nhận là do Posco đã từng lên kế hoạch thông báo tăng giá trong tháng 3 nhưng buộc phải hoãn sang tháng 4 bởi chính phủ can thiệp yêu cầu hợp tác thực hiện chính sách kiểm soát giá. Trong hoàn cảnh đó, mọi khách hàng đều ồ ạt chuyển sang nhập thép từ Trung Quốc, Nhật Bản và các nước lân cận. Kết quả là người mua đã trữ được lượng hàng lớn và không mua hàng từ Posco nữa.
Một nguyên nhân khác là tại thị trường nước ngoài, giá thép cán lạnh và thép tấm mạ kẽm đã giảm nghiêm trọng. Do Trung Quốc xuất khẩu ồ ạt với số lượng lớn, giá các sản phẩm này đã giảm tới hơn 100 USD. Trước tình hình đó, các nhà máy cán lại Hàn Quốc đã buộc phải giảm giá mạnh 2 dòng sản phẩm thép cán lạnh và mạ kẽm, đối với thép cán lạnh, giá đã giảm xuống ngưỡng 800 USD FOB. Vì lí này, khách hàng khó có thể chấp nhận tăng giá bởi họ sẽ chỉ thu về thua lỗ nếu dùng thép cán nóng của Posco.
Hiện tại, giá thép cán nóng xuất sang Việt Nam từ các nước Đông Nam Á được báo cáo ở mức 720 – 730 USD C&F. Trong khi đó, các khách hàng Việt Nam còn đòi hỏi giá giảm thêm nữa, nên sẽ rất khó để chốt giá hợp đồng với mức giá quá cao. Vì vậy, giá thép cán lạnh và thép mạ kẽm có khả năng sẽ giảm thêm nữa và Posco sẽ khó có được sự chấp nhận từ các nhà máy cán lại với mức giá như vậy.
Nếu chính sách tăng giá của Posco thực sự thất bại, dự báo các sản phẩm khác bao gồm thép tấm có khả năng cũng chịu chung số phận. Và trong khi đã có một số nhà sản xuất Nhật Bản ấn định giá xuất khẩu sang Hàn Quốc cho hàng giao tháng 5 trước ý định tăng giá của Posco, nhiều khả năng sẽ phải xem xét lại phần hàng đã tăng giá.
Khách hàng mua thép tấm Ả Rập Saudi hưởng mức chiết khấu 30-40 USD/tấn
Nhà sản xuất Ả Rập Saudi vẫn giữ nguyên giá chào thép tấm kể từ đầu tháng, tuy nhiên, người mua có thể đàm phán mức chiết khấu 30-40 USD/tấn. HRC hiện chào bán với giá 780-820 USD/tấn, nhưng lại được khách hàng mua phổ biến với giá 740-750 USD/tấn.
Giá chào nhập khẩu thép tấm vào thị trường Ả Rập Saudi dao động quanh mức 730-740 USD/tấn cfr, tuy nhiên giá chào từ Viễn Đông là 710-720 USD/tấn cfr cho các lô hàng lớn. Nguồn tin thị trường cho hay, hiện lực cầu tốt hơn so với đầu tháng, nhưng được dự báo trong thời gian tới vẫn duy trì mức hiện tại vì mùa nhu cầu xuống dốc đang tới rất gần.
Hầu hết người mua đầu có khuynh hướng giữ lượng tồn ở mức thấp do họ không dự báo được giá sẽ theo hướng nào một khi mùa hè cũng như kỳ lễ Ramanda hằng năm đang cận kề.
Nhu cầu Ả Rập Saudi suy yếu do kỳ nghỉ lễ bắt đầu
Nhu cầu thép cây tại Ả Rập Saudi khá mạnh và giá vẫn duy trì ổn định ở mức 2.900 SAR /tấn (773USD/tấn). Giá chào nhập khẩu từ các nước tiểu vương quốc Ả Rập và Qatar hiện là 2.650 SAR /tấn (706 USD/tấn), vận chuyển tới Riyadh.
Tuy nhiên có thể thị trường Saudi trong 02 tuần tới sẽ suy yếu do sắp bắt đầu thời điểm nghỉ lễ. Lực mua không thể tăng lên cho đến kỳ nghỉ lễ chay Ramada. “Mọi người đang đặt mua dự trữ trước khi nghỉ lễ, như vậy thị trường trong thời gian tới sẽ trầm lại tuy nhiên điều này không có nghĩa giá sẽ giảm xuống,” một thương nhân nói.
Hầu hết đều dự báo giá sẽ không được điều chỉnh trong thời gian tới vì nghe đồn rằng các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng đang cải thiện niềm tin thị trường.
Giá nhập khẩu thép cây, đặc biệt là từ Thổ Nhĩ Kỳ, Qatar và UAE có thể trở yếu trong những ngày tới. Tuy nhiên điều này sẽ không ảnh hưởng đến giá nội địa vì các nhà cung cấp nội địa muốn duy trì lợi nhuận ở mức như hiện tại.
Trung Quốc khả năng không giảm mức hoàn thuế xuất khẩu tháng 07
Trung Quốc khả năng không cắt giảm chính sách hoàn thuế xuất khẩu VAT đối với thép có boron bởi vì cho tới thời điểm hiện tại vẫn chưa đạt được quyết định cuối cùng liệu có cần thiết cho chính phủ Bắc Kinh áp dụng các biện pháp xuất khẩu thắt chặt hơn hay không, theo một nguồn tin công nghiệp đáng tin cậy cho hay. Cũng theo nguồn tin trên, loại thép có chứa boron không còn là mục tiêu của các cuộc thảo luận.
Sau vòng đàm phán cuối cùng đầu năm nay, chính quyền trung ương gần như quyết định không cắt giảm chính sách hoàn thuế xuất khẩu đối với thép có boron. Nguồn tin trên từ chối xác minh loại sản phẩm nào đang đối mặt với khả năng cắt giảm hoàn thuế xuất khẩu, tuy nhiên, hầu như khả năng không có đợt cắt giảm trong ngắn hạn do thị trường xuất khẩu hiện suy yếu.
Vài luồng thông tin thị trường cho hay, xuất khẩu sản phẩm thép mạ màu cán dẹt và cán nguội rất có thể là mục tiêu cho đợt cắt giảm chính sách hoàn thuế xuất tới do hiện những sản phẩm này đang được hưởng 13% thuế hoàn xuất. Trong tháng 07 năm 2010, chính sách hoàn thuế xuất đối với thép tấm và băng cán nóng hợp kim đã được hủy bỏ.
Lời đồn xung quanh việc cắt giảm chính sách hoàn thuế xuất khẩu dấy lên mối quan ngại giữa các nhà xuất khẩu Trung Quốc vì trong 02 tháng vừa qua, họ chỉ nhận được vài đơn hàng do lực cầu thưa. Giới quan sát thị trường dự báo xuất khẩu thép Trung Quốc khả năng giảm sâu trong tháng này thậm chí kéo dài sang vài tháng tới.
HRC và CRC được thương nhân Trung Quốc chào bán lần lượt với giá 695 USD/tấn fob và 770 USD/tấn fob, rớt 30 USD/tấn và 50 USD/tấn từ tháng 03 thời điểm mà lực mua từ nước ngoài bắt đầu có dấu hiệu sụt giảm. Thương nhân cho rằng hoạt động mua bán hiện vẫn có ít dấu hiệu phục hồi.
Giá phế nội địa Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục đà giảm
Giá phế nội địa Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục giảm trong ngày hôm qua do thị trường thép cây trở yếu.
Hiện phế nội địa đang được bán với giá 650-740 TL/tấn (404-460 USD/tấn), giảm 15-20 TL/tấn (9-12 USD/tấn) so với thứ Sáu tuần trước.
Nhà sản xuất thép Colakoglu đã hạ giá thu mua phế tháo dỡ từ ô tô xuống còn 660 TL/tấn. Diler cũng điều chỉnh giá xuống 670 TL/tấn, nhưng giá thu mua của Kaptan vẫn ổn định ở mức 740 TL/tấn.
Nhà sản xuất thép hợp kim Asil Celik đã hạ giá thu mua xuống còn 735 TL/tấn còn Cemtas giảm giá xuống còn 650 TL/tấn.
Tính tới thời điểm hiện tại, tổng mức giảm giá phế tại thị trường nội địa Thổ Nhĩ lỳ là 60 TL/tấn (37 USD/tấn) kể từ giữa tháng 06.
Các nhà xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ chờ thị trường trung Đông phục hồi
Các nhà xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ dự đoán thị trường trong 02 tuần tới sẽ chậm lại vì nhu cầu từ Trung Đông còn khá yếu và các mức giá chào không hỗ trợ cho xuất khẩu. Một số thương nhân cho biết các chào bán đang ở dưới ngưỡng 740 USD/tấn fob nhưng số khác thì nói rằng các giao dịch có thể chỉ ở mức 720 USD/tấn fob mà thôi.
Giới thương nhân Thổ Nhĩ Kỳ dự đoán hoạt động kinh doanh sẽ chậm lại trong đầu tháng 07 và kéo theo đó thu mua phế cũng bị trì hoãn. Tuy nhiên, nhu cầu thép cây từ Trung Đông có thể tăng trở lại vào giữa tháng 07 khi các chào bán xuất khẩu xuống đáy thấp 705-710 USD/tấn fob.
“Giá xuất khẩu sẽ được xem xét điều chỉnh theo thị trường nội địa và mức độ phục hồi từ Trung Đông. Giá thép cây nội địa tại các nước GCC vẫn khá cao nên hàng xuất khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ có thể hấp dẫn thị trường này, quá đó kéo thị trường xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ sôi động trở lại.” một thương nhân nói.
Các nhà sản xuất HDG Thổ Nhĩ Kỳ chiết khấu 20-30 USD/tấn
Các nhà sản xuất Thổ Nhĩ Kỳ đang chào bán HDG với mức chiết khấu 20-30 USD/tấn đối với các đặt mua số lượng lớn. Tuy nhiên các chào bán HDG 0.5 mm có giá chính thức là 970-1.000 USD/tấn.
Một nhà sản xuất cho biết thị trường tuần này vẫn suy yếu vì khách hàng muốn chờ giá chạm đáy, nhưng có thể sẽ sôi động trở lại vào tuần tới. Tuy nhiên giới thương nhân không thể dự đoán xu hướng giá vì giá HRC hiện khá cao trong khi nhu cầu HDG và HRC vẫn còn yếu.
HRC từ các nhà sản xuất nội địa đã giảm xuống còn 760 USD/tấn từ mức 780-800 USD/tấn trong tuần trước đó. Các đơn đặt mua với số lượng trên 5.000 tấn sẽ được hưởng mức chiết khấu.
Khả năng tiêu thụ thép Hàn Quốc sẽ tăng 20% trong 06 tháng cuối năm này
Theo báo cáo từ Viện thương mại và kinh tế Hàn Quốc (Kiet) cho thấy nhu cầu tiêu thụ thép tại thị trường nội địa nước này có dấu hiệu tăng trở lại trong nữa cuối năm này, ước mức tăng khoảng 20% lên 30,52 triệu tấn.
Sự phục hồi mạnh từ nhu cầu tiêu dùng trực tiếp hứa hẹn tiêu thụ thép sẽ tăng mạnh so với cùng kỳ năm ngoái. Dựa vào dự báo công suất sản xuất cũng như nhu cầu sẽ tốt hơn, Kiet dự báo tổng lượng thép trong nữa cuối năm 2011 mà dẫn đầu là Posco sẽ tăng thêm 12% so với cùng kỳ năm 2010, lên mức 37,18 triệu tấn.
Nếu thực tế đúng như vậy thì lượng thép sẽ tăng đáng kể so với mức 34,77 triệu tấn trong nữa quý đầu năm. Tuy nhiên với bất cứ mức phục hồi nào tại thị trường nội địa đều sẽ tác động đến thị trường nhập khẩu, Kiet dự đoán nhập khẩu sẽ tăng thêm 23% so với cùng kỳ năm ngoái, lên mức 6,77 triệu tấn.
Kiet cũng đưa ra dự báo nhu cầu từ ngành ô tô trong 06 tháng cuối năm sẽ tăng thêm 5% so với cùng kỳ năm ngoái.
Dù nhu cầu từ ngành sản xuất ô tô, đóng tàu và các ngành sản xuất máy móc khác khá tốt vào cuối năm 2011 nhưng khả năng ngành xây dựng vẫn trầm lắng.
“Chúng tôi cho rằng ngành xây dựng trong 06 tháng cuối năm này cũng sẽ cải thiện nhưng với mức độ không nhiều. Tuy nhiên, một số khác cho rằng ngành xây dựng vẫn duy trì sự trầm lắng cho đến sang năm,” một thương nhân địa phương nói.
Giá phế nội địa Trung Quốc đi xuống
Niềm tin vào triển vọng thị trường thép gần đây suy yếu khiến giá phế ferrous ở một vài vùng lớn của Trung Quốc cũng vì thế mà tụt dốc theo.
Ở tỉnh Hà Nam, miền trung Trung Quốc, Wuyang Iron & Steel chuyên sản xuất mặt hàng thép dài và dẹt đã chọn giải pháp hạ giá thu mua phế nhằm phù hợp với khuynh hướng thị trường. Hôm 21/06, nhà sản xuất này đã hạ giá thu mua khoảng 30 NDT/tấn (5 USD/tấn), theo đó, HMS>6mm rớt xuống còn 3.770 NDT/tấn (583 USD/tấn), gồm 17% VAT.
Giá trên thị trường Hà Nam đối với cùng loại phế trên chốt 3.750-3.850 NDT/tấn, gồm VAT, mất hơn 20-30 NDT/tấn cuối tuần trước.
Trong khi đó, nhiều nhà tiêu thụ phế nhỏ ở khu vực tây nam và miền bắc Trung Quốc đã hạ giá thu mua phế 30-50 NDT/tấn do giá trong khu vực cũng rớt với biên độ tương tự cuối tuần trước. Tuy nhiên, nhiều nhà sản xuất lớn lại giữ giá thu mua không đổi.
HMS>6mm tại tỉnh Hà Bắc Trung Quốc được giao dịch với giá 3.750-3.850 NDT/tấn, gồm VAT, còn tại Trùng Khánh là 3.650-3.750 NDT/tấn, gồm Vat.
Giá xuất khẩu quặng Ấn Độ sang Trung Quốc bắt đầu giảm
Giá xuất khẩu quặng Ấn Độ sang Trung Quốc cuối tuần trước vẫn duy trì ổn định nhưng đến thứ Hai tuần này bắt đầu giảm nhẹ 1-2 USD/tấn. Giới thị trường tỏ ra khá e ngại với xu hướng trong những ngày tới vì chính phủ Bắc Kinh tiếp tục thực hiện các biện pháp kìm hãm sự phát triển kinh tế nhằm kiềm chế lạm phát, điều này cho thấy nhu cầu quặng từ Trung Quốc tiếp tục giảm trong ngắn hạn.
Quặng 63.5%/63% Fe của Ấn Độ xuất qua Trung Quốc hôm 21/06 giao dịch với mức trung bình khoảng 176-178 USD/tấn cfr từ mức 177-180 USD/tấn cfr trong tuần trước đó.
Hôm 16/06, một nhà sản xuất khẩu ở Kolkata đã bán 76.000 tấn quặng 62%/61% Fe cho một thương nhân Trung Quốc với giá khoảng 157 USD/tấn fob (169 USD/tấn cfr), vận chuyển từ Visakhapatnam tới cảng chính của Trung Quốc. Tuy nhiên, kể từ đó các chào mua từ Trung Quốc cho loại quặng này đã giảm xuống còn 164-165 USD/tấn cfr, trong khi giá chào bán từ các nhà cung cấp Ấn Độ trong ngày hôm qua ở mức trung bình khoảng 168-170 USD/tấn.
Niềm tin đối với thị trường thép trong nữa cuối năm 2011 đang giảm xuống đặc biệt là khi ngân hàng Trung ương Trung Quốc quyết định nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Nỗ lực chống lạm phát của Bắc Kinh chứng tỏ nền kinh tế nước này không thể tiếp tục phục thuộc vào sự đầu tư của chính phủ, điều mà đã lèo lái nền kinh tế Trung Quốc tăng trưởng mạnh trong 02 năm qua.
Như vậy, yếu tố này sẽ càng làm cho thị trường thép trở nên xấu hơn trong khi đang phải trải qua giai đoạn suy yếu theo mùa. “Các nhà sản xuất thép đang thể hiện sự kém nhiệt tình trong việc nhập khẩu quặng,” một thương nhân Trung Quốc nói. Hầu hết các nguồn thị trường Trung Quốc dự đoán giá quặng 63.5%/63% Fe giao ngay sẽ sớm giảm xuống còn khoảng 170 USD/tấn cfr.
Sản lượng thanh vằn Trung Quốc tháng 05 chạm mức cao mới
Theo số liệu từ cục thống kê quốc gia Trung Quốc cho thấy, sản lượng thanh vằn tháng 05 của Trung Quốc vượt mức cao kỷ lục trong tháng 03 là 12,34 triệu tấn, vươn lên đạt mức cao mới 12,85 triệu tấn.
Do được thúc đẩy bởi lợi nhuận cao cùng với số lượng đơn đặt hàng nhiều, giới sản xuất trong nước đã chộp lấy cơ hội nhằm đẩy mạnh hiệu suất sản xuất. Một thương nhân ở phía bắc cho hay doanh số bán thép cây của nhiều nhà sản xuất nhỏ tăng lên trong tháng trước, công suất hoạt động của những nhà máy này khá cao đã góp phần đẩy sản lượng lên mức cao lịch sử này.
So với tháng 04, sản lượng thanh vằn tháng 05 tăng 8%. Sản lượng bình quân hàng ngày tương đương 414.613 tấn/ngày, tăng 4% so với cùng kỳ năm ngoái.
Mặc dù kể từ đầu tuần trước, giá thanh vằn đã bắt đầu rớt do nhu cầu ít ỏi cũng như niềm tin vào bối cảnh thị trường rạn vỡ. Sản lượng thanh vằn tháng 06 được dự báo không có cơ hội giảm sâu do giá rớt chỉ thu hẹp lợi nhuận của nhà máy hơn là gây lỗ.
Tuy nhiên, một thương nhân ở Thượng Hải cho hay sản lượng thép của Trung QUốc rất có nguy cơ trượt trong hai tháng tới do nhu cầu thưa cùng với tín dụng thắt chặt.
Trong khi đó, sản lượng cuộn trơn tháng 05 đạt 10,22 triệu tấn, tăng 4% so với con số 9,8 triệu tấn tháng 04, tương đương 329,516 tấn/ngày, tăng 0,8% so với cùng kỳ năm ngoái. Sản lượng cuộn trơn của Trung Quốc trong 05 tháng đầu năm đạt 48,95 triệu tấn, tăng 14% so với cùng kỳ năm ngoái, sản lượng thanh vằn đạt 58,4 triệu tấn, tăng 13% so với cùng kỳ năm ngoái.
Giá thép cây Đài Loan tiếp tục tăng cùng giá phế
Các nhà sản xuất thép cây Đài Loan tiếp tục năng giá nội địa nhằm phù hợp với xu hướng giá phế trên toàn cầu. Nhà sản xuất thép cây lớn nhất nước này là Feng Hsin Iron & Steel ở phía trung tây Đài Trung tuần này đã nâng giá nội địa thêm 200 Đài tệ/tấn (7 USD/tấn) lèo lái giá thép cây SD 280 kích thước vừa lên mức 20.800 Đài tệ/tấn (719 USD/tấn).
Feng Hsin bắt đầu nâng giá thép cây trong tháng 06 với tổng mức nâng là 800 Đài tệ/tấn.
Đối thủ cạnh tranh của nhà sản xuất này là Hai Kwang Enterprise Corp ở phía nam Cao Hùng tuần này cũng đã nâng giá bán thêm 200 Đài tệ/tấn lên mức 20.300 Đài tệ/tấn, tổng mức nâng của nhà sản xuất này trong tháng 06 cũng đạt khoảng 800 Đài tệ/tấn.
Ngoài ra, giá phế đang tăng lên và nhu cầu mùa hè không chậm như dự đoán trước đó, phát ngôn viên của Hai Kwang nói. Nhu cầu không giảm nhiều do thời tiết trong mùa mưa này không quá xấu,” người này cho hay. Thường thì hoạt động xây dựng trong mùa hè chậm lại do mưa quá lớn.
Dù giá thép cây gần đây theo xu hướng tăng nhưng phát ngôn viên của Feng Hsin cho rằng vẫn còn quá sớm để nói giá tăng thêm nữa hay không. “có thể giá phế tiếp tục tăng nhưng chúng tôi cho rằng còn phải phụ thuộc rất nhiều vào lực mua.”
Tồn tăng đang gây áp lực cho giá thép tấm Nhật Bản
Giá thép tấm dày tại Nhật vẫn duy trì ổn định kể từ sau tham họa động đất hôm 11/03 nhưng hiện giờ đang chịu áp lực do tồn tiếp tục dâng cao.
Về cơ bản, nhu cầu vẫn ổn định nhưng các giao hàng thép tấm chậm lại sau thảm họa động đất làm tăng lượng tồn, một nhà dự trữ nói. “các nhà phân phối bắt đầu hạ giá chào bán nhằm đảm bảo doanh số,” ông giải thích, sự đe dọa từ nhập khẩu tăng lên cũng là nguyên nhân khiến các nhà cung cấp muốn đẩy hết hàng trước khi giá hạ thêm nữa.
Tồn thép của Nhật trong cuối tháng 04 là 478.000 tấn, tăng 1,8% so với cuối tháng 03 và tăng 8,6% so với cùng kỳ năm ngoái. Theo dữ liệu từ Liên đoàn sắt thép Nhật Bản cho thấy tổng nhập khẩu thép tấm trong 04 tháng đầu năm đạt 110.778 tấn, tăng 51,8% so với cùng kỳ năm ngoái.
Một thương nhân nói thép tấm được nhập khẩu trong tháng 03 vì cho rằng tháng 04 và tháng 05 giá sẽ đắt hơn, và đó chính là lý do mất cân bằng giữa cung và cầu.
“Nippon Steel đã tạm ngưng sản xuất thép tấm tại nhà máy Kimitsu gần Tokyo nhưng điều này không hỗ trợ cho thị trường vì tồn quá cao,” người này tiếp lời. Hôm 02/06 nhà sản xuất này đã tạm ngưng hoạt động 40 ngày để thực hiện công tác bảo trì. Nhà máy này thường hoạt động với công suất khoảng 180.000 tấn/tháng.
Giá thép tấm 16-25mm SS400 tại thị trường Tokyo hiện đang ở mức khoảng 93.000 Yên/tấn (1.163 USD/tấn). Tokyo Steel đã giữ giá tháng 07 không đổi, và thép tấm SS400 9-40mm vẫn ổn định ở mức 74.000 Yên/tấn. “Mức giá này là quá thấp nếu so với chi phí nguyên liệu thô nhưng khách hàng cũng đang đòi giảm giá thêm nữa đối với các sản phẩm thép tấm,” một nhà phân phối nói.
Shagang hạ giá thanh vằn và cuộn trơn 80 NDT/tấn
Nhà sản xuất Shagang ở phía đông Trung Quốc đã ra quyết định hạ giá cả hai mặt hàng thanh vằn và cuộn trơn giao cuối tháng 06 do sự đi xuống của thị trường giao ngay trong suốt tuần qua. Sau khi điều chỉnh giảm 80 NDT/tấn (12 USD/tấn), thanh vằn HRB335 dày 16-25mm và cuộn trơn Q235 dày 6.5mm của nhà sản xuất trên đều được chào bán với giá 4.900 NDT/tấn (758 USD/tấn), gồm 17% VAT.
Tuy nhiên, giá tại thị trường giao ngay hiện rớt xuống dưới ngưỡng thấp hơn giá xuất xưởng của nhà sản xuất Shagang. Hôm thứ 03, thanh vằn HRB335 dày 16-25mm được sản xuất bởi Shagang chào bán tại Hàng Châu được niêm yết 4.850 NDT/tấn, gồm 17% VAT, chỉ rớt nhẹ 10 NDT/tấn so với thứ hai tuần trước giá đã trượt 100 NDT/tấn.
Tại Thượng Hải, thanh vằn 18-22mm nguồn từ nhà máy tuyến hai trượt 100 NDT/tấn so với thứ 05 tuần trước xuống 4.600-4.650 NDT/tấn, gồm VAT.
“giữa lúc bối cảnh thị trường ảm đảm, nhiều thương nhân có ý muốn đẩy mạnh doanh số bán bằng cách hạ giá chào bán với biên độ lớn,” một nhà kinh doanh Thượng Hải nói. Một vài giao dịch hay tin chốt mức dưới 4.600 NDT/tấn.
Một thương nhân ở Thượng Hải khác lại cho hay, sự hồi phục có thể xảy ra trong ngắn hạn nhằm điều chỉnh giảm giá lớn, điển hình là ở thị trường tương lai, tuy nhiên, giá sẽ tiếp tục rớt trong tháng 07 so với mức hiện tại vì những yếu tố như nhu cầu suy yếu, lượng dự trữ tăng, tín dụng thắt chặt.
Thép cây giao kỳ hạn hợp đồng tại sàn giao dịch the Shanghai Futures Exchange chốt mức 4.713 NDT/tấn hôm thứ 03, tăng 0,53$ sau khi rớt 0,91% của phiên giao dịch ngày hôm trước.
Giá nhập khẩu HRC sang Việt Nam suy yếu
Giá chào bán HRC cán lại tháng 07 từ các nhà sản xuất hợp nhất Nhật Bản xuất sang Việt Nam đã về mức 720-730 USD/tấn cfr, giảm 10 USD/tấn kể từ đầu tháng 06. Tuần trước, các nhà sản xuất CRC nội địa Việt Nam đã đặt mua HRC tháng 07 và tháng 08.
Các thương nhân Việt Nam cho biết Nhật bán chủ yếu cho các nhà nhập khẩu lớn. Một thương nhân tại thành phố Hồ Chí Minh nói tháng này các nhà nhập khẩu đặt mua khoảng 40.000-60.000 tấn.
Giá chào bán HRC từ Hàn Quốc và Đài Loan đang ở mức khoảng 730-735 USD/tấn cfr và giá từ Nga là 735 USD/tấn cfr, nhưng dường như khách hàng không mặn mà lắm với các chào bán này. Giới thương nhân Trung Quốc đang chào bán SS400B HRC sang Việt Nam với giá 700-710 USD/tấn cfr, giảm từ mức 710-715 USD/tấn cfr trong dầu tháng 06. Tuy nhiên lực mua vẫn rât yếu.
Sức mua tại thị trường Việt Nam bị kìm hãm do các chính sách kiềm chế lạm phát của chính phủ. Vừa qua, các ngân hàng đã nâng tỷ lệ lãi suất vượt 20% và đang thực hiện các biện pháp thắt chặt tính dụng cũng như các biện pháp tài chính khác. “Nhu cầu rất yếu trong quý này nhưng có thể sẽ tốt hơn trong quý Bốn,” một thương nhân nói.
Các nhà dự trữ Việt Nam tái xuất khẩu HRC họ đã nhập trước đó với giá 710-720 USD/tấn fob và hiện một số người đang chào bán với giá dưới ngưỡng 700 USD/tấn fob. Các thương nhân đang chào bán HRC 3mm xuất xứ Trung Quốc với giá 680-609 USD/tấn fob. “Một số người đang tái xuất khẩu tất cả những mặt hàng họ đã mua,” một thương nhân nói. Tuy nhiên số khác cho biết các chào bán với giá thấp hơn này là rất ít, chỉ đối với những nhà dự trữ đang gặp khó khăn về tài chính mà thôi.
Giới sản xuất Trung Quốc ồ ạt hạ giá CRC tháng 07
Tiếp nối ba nhà sản xuất hàng đầu Baosteel, Anshan Iron & Steel và Wuhan Iron & Steel, hai nhà sản xuất khác là Benxi Iron & Steel (Bengang) và Hebei Iron & Steel (Hegang) cũng đã ra quyết định hạ giá CRC tháng 07. Do niềm tin vào triển vọng thị trường CRC suy yếu, giới thương nhân buộc tiếp tục hạ giá nhằm thanh lý hàng tồn.
Bengang hạ giá CRC tháng 07 khoảng 100 NDT/tấn (15 USD/tấn), theo đó CRC DC01 1.0mm của nhà sản xuất này rớt xuống còn 4.590 NDT/tấn (710 USD/tấn), trong khi đó Hegang điều chỉnh giảm CRC với biên độ 200 NDT/tấn, cụ thể là CRC SPCC 1.0mm có giá 4.487 NDT/tấn. Cả hai mức giá giao dịch trên chưa bao gồm 17% VAT.
Động thái điều chỉnh giá giảm của các nhà sản xuất trên chứng tỏ thị trường CRC vẫn sẽ tiếp tục lao dốc ít nhất là trong tháng 07 tới. Đa số thương nhân nỗ lực hạ giá chào bán nhằm tránh lỗ.
CRC SPCC dày 1.0mm được chào bán tại Thượng Hải hiện dao động quanh 5.300-5.350 NDT/tấn, gồm VAT, và tại Lecong là 5.400-5.450 NDT/tấn, gồm VAT, cả hai mức giá trên đều rớt 50-60 NDT/tấn so với tuần rồi.
Tuy nhiên, lực mua từ người dùng cuối cùng vẫn yếu. Thương nhân cho biết trong suốt mấy ngày qua giá liên tục tụt dốc, vì vậy người mua đang cố tình kìm hãm quyết định mua hàng với kỳ vọng giá sẽ đi xuống thêm nữa.
Giá phôi thanh của CIS trượt dốc
Thị trường xuất khẩu phôi thanh CIS đã phục hồi trở lại trong 24 giờ qua. Sự trầm lắng tại mức giá 670-680 USD/tấn fob Biển Đen vào tuần trước giờ được thay thế bởi môi trường sôi động hơn tại mức giá 640-670 USD/tấn fob Biển Đen.
“Khách hàng cũng như các nhà sản xuất đang giao dịch với mức giá 640-670 USD/tấn fob, nhưng đó chỉ là trên giấy tờ,” một nhà kinh doanh cỡ bự nói. Qua nhiều cuộc đàm phán các nhà sản xuất mới thỏa thuận được giá hợp đồng với khách hàng, nhưng một số vẫn giao dịch tại mức giá trên.
Thị trường rất khó đoán vì nguồn cung phôi hạn hẹp và nhiều khách hàng chỉ đặt mua nhằm kiểm tra tình hình thị trường. “Điều này khiến các nhà sản xuất rất bình tỉnh vì cho rằng nhu cầu vẫn hiện hữu nhưng vấn đề ở đây là giá cả như thế nào cho hợp lý,” một thương nhân khác nói thêm.
Với nhu cầu thép cây vẫn còn và tình trạng giá phế đang tăng nóng thì nhu cầu phôi thanh được cho là vẫn cân bằng với nguồn cung. Hoạt động thu mua trước lễ chay Ramada là yếu tố chính lèo lái thị trường hện tại phục hồi mặc dù lực mua từ Iran yếu hơn so với dự báo trước đó vì sự mất giá đồng rial.