Thị trường thép cuộn Mỹ xáo trộn
Thị trường Mỹ vẫn chìm đắm trong xu thế bất ổn do việc cắt giảm công suất vẫn chưa chắc xảy ra và giá thì đang giảm. Platts vẫn giữ giá HRC và CRC lần lượt tại mức 400-420 USD/tấn và 530-550 USD/tấn. Tuy nhiên, có vẻ như biên độ giá đang dẫn ra.
Một khách hàng Nam Mỹ cho biết giá HRC đạt mức 380 USD/tấn nhưng chưa mua. Ông nghĩ rằng áp lực lạm phát từ chi phí nguyên liệu thô và hàng tồn kho cao càng gây áp lực cho giá thép dẹt. Các thông báo ngưng sản xuất gần đây từ AK Steel và US Steel vẫn chưa tác động tới thị trường.
Trong khi đó, hàng tồn kho tháng 10 vẫn cao. Có thông tin cho rằng nhà máy ArcelorMittal đã ngưng sản xuất tại cảng Tây Indiana.
Một nhà máy tích hợp chào bán HRC tại mức 410 USD/tấn trong khi giá từ các nhà máy mini cạnh tranh hơn. Gía cho các đơn hàng lớn có thể là 380 USD/tấn.
Trong khi đó, giá HDG đạt mức 520 USD/tấn cho các đơn hàng thông thường và 510 USD/tấn cho đơn hàng lớn.
Định giá phôi thanh CIS
Platts đã giảm giá phôi thanh Biển Đen xuống 1 USD/tấn còn 267 USD/tấn FOB do thị trường bất ổn nhưng các khách hàng Thổ Nhĩ Kỳ tìm kiếm giá giảm 10-15 USD/tấn so với giá chào từ các nhà máy CIS.
Một lô hàng đã được bán tới Thổ Nhĩ Kỳ tại mức 268 USD/tấn CIF cho 20.000 tấn vào cuối tuần qua. Đây là giá thấp nhất trên thị trường nhưng các khách hàng Thổ Nhĩ Kỳ vẫn tìm kiếm giá cao hơn mức 270-275 USD/tấn CIF. Gía này không còn nữa tại Trung Quốc do họ đã tăng giá.
Một thương nhân chào bán tại mức 280-283 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ từ một nhà máy Trung Đông nhưng giá chào từ CIS đạt mức 270-275 USD/tấn FOB Biển Đen. Các nhà máy lớn có thể giảm nhẹ giá xuống dưới 270 USD/tấn FOB Biển Đen.
Định giá HRC EU
Platts vẫn duy trì giá HRC Bắc Âu không đổi tại mức 335-345 Euro/tấn xuất xưởng Ruhr.
Giá giao ngay tại Tây Bắc Âu không đổi tại mức 330-340 Euro/tấn nhưng ít thu hút. Trong khi đó, giá nhập khẩu đạt mức 300 Euro/tấn CIF Antwerp nhưng cho các thép chất lượng thấp đạt mức 270 Euro/tấn. Với thời gian giao hàng tăng, nhiều người mua do dự đầu tư vào hàng nhập khẩu.
Lễ hội ở Ấn Độ khiến thị trường HRC trầm lắng
Nhiều hoạt động kỷ niệm trên khắp cả nước như là một phần của lễ hội Hindu Dussehra đã ảnh hưởng đến nhu cầu HRC trong tuần này ở Ấn Độ. Platts định giá HRC IS 2062 loại A/B 3mm trong khoảng 27.500-28.500 Rupees/tấn (407-422 USD/tấn) xuất xưởng hôm thứ Tư.
“Nhu cầu trong nước ít ỏi, và nguồn cung dồi dào với sự xuất hiện của thép nhập khẩu”, một nhà cán lại ở Mumbai cho biết. Ông cho biết thép nhập khẩu giá rẻ cứ tiếp tục tràn về mặc dù New Delhi áp thuế tự vệ 20% từ ngày 14/9.
“Giá HRC nhập khẩu đã giảm 14% kể từ tháng 8”, Trong tuần cuối cùng của tháng 8, Platts đã định giá HRC của Trung Quốc khoảng 330 USD/tấn CFR Mumbai. Hiện tại, chào giá cho HRC SS400 dày 3mm vẫn không đổi so với tuần trước và giữ ở mức 290 USD/tấn CFR Mumbai. Mức giá này tương đương 384 USD/tấn hay 25.016 Rupees/tấn khi áp thuế hải quan 12,5% và thuế tự vệ 20%.
Một vài chào giá được nghe nói từ một nhà máy Trung Quốc ở mức thấp hơn là 287 USD/tấn CFR Mumbai. Tuy nhiên, vẫn chưa biết sự xác nhận của nhà máy.
Trong khi đó, HRC SAE 1006 dày 1.2-2 mm từ Hàn Quốc nghe nói được chào giá khoảng 330 USD/tấn CFR Mumbai trong tuần này. Mức giá này tương đương 399 USD/tấn (26.000 Rupees/tấn) gồm thuế hải quan 1% cho thép của Hàn Quốc và thuế tự vệ 20%. HRC của Nhật và Hàn Quốc được giảm thuế nhờ hiệp ước thương mại song phương, mặc dù vẫn phải chịu thuế tự vệ 20%.
Tâm lý thị trường trì trệ làm suy yếu triển vọng thị trường phế Mỹ tháng 11
Tâm lý thị trường suy yếu tiếp tục gây áp lực cho giá phế Mỹ. Nhiều nhà máy cho biết có thể mua phế tháng 11 tại mức giá giảm 20 USD/tấn so với tháng trước.
Mặc dù giá đã xuống mức thấp 6 năm, nhưng giá phế Mỹ đã giảm 50-60 USD/tấn trong tháng 10. Các nhà buôn phế hy vọng giữ giá bình ổn trong tháng 11 trong khi vài nguồn tin dự báo giá giảm.
Kể từ khi tăng được lên mức 280 USD, giá phế vụn đã giảm dần qua mỗi tháng sau đó. Platts giảm giá phế vụn Midwest xuống còn 180 USD/tấn đã tính phí giao hàng.
Thời gian giao hàng vẫn ngắn hơn 3 tuần cho nhiều loại thép. Gía HRC đã giảm còn 400 US/tấn trong khi thép tấm giảm dưới 500 USD/tấn và 4 nhà máy thép thanh chính thức thông báo giảm 25 USD/tấn kể từ thứ hai.
Giá phế cũ cũng giảm 20-30% trong khi giá phế chất lượng cao giữ nguyên. Các nhà máy sẽ không chuộng mua phế khi cuối năm cận kề.
So với cùng kỳ năm ngoái, doanh số bán phế cũng giảm một nửa. Trong khi các nhà máy thép sản xuất với 70.1% công suất trong tuần 12/10 thì năm ngoái là 76.5%.
Giá ống đúc miền đông Trung Quốc suy yếu hơn nữa
Giá giao ngay cho ống đúc ở miền đông Trung Quốc giảm trong tuần này giữa lúc sức mua chậm chạp. Giá suy yếu mặc dù các nhà sản xuất lớn trong khu vực này một lần nữa lại duy trì giá thép tròn đặc.
Tại Thượng Hải, chào giá trên thị trường bán lẻ cho ống thép loại 20# 219x6mm (GB/T 8163) từ các nhà máy ở miền đông phổ biến mức 2.700 NDT/tấn (425 USD/tấn) xuất xưởng gồm 17% VAT, giảm 50 NDT/tấn (8 USD/tấn) so với tuần trước.
Nguyên nhân khiến giá giảm là vì sức mua yếu cộng thêm nguồn cung dư thừa sẽ tiếp tục gây sức ép lên giá cho tất cả các loại thép ở Trung Quốc.
Nhu cầu không có sự cải thiện đáng kể trong tháng 9 và 10 năm nay, mặc dù mùa thu thường là lúc sức mua ống đúc từ lĩnh vực sản xuất và xây dựng mạnh lên. Do đó, các thương nhân đã chọn cách giảm giá trong tuần này.
Hôm 21/10, các nhà sản xuất thép tròn đặc lớn thông báo họ sẽ duy trì giá thép tròn đặc suốt 10 ngày cuối tháng này.
Thông báo này dẫn đến hai nhà sản xuất thép tròn đặc ở tỉnh Giang Tô là Zenith Steel Group và Changqiang Iron & Steel đã duy trì giá cho loại 20# 50-130mm ở mức lần lượt là 2.060 NDT/tấn (326 USD/tấn) và 2.010 NDT/tấn (318 USD/tấn) để xuất xưởng cuối tháng 10, gồm VAT.
Huaigang Special Steel, cũng ở tỉnh Giang Tô đã giữ giá cho loại thép này ở mức 2.050 NDT/tấn (324 USD/tấn) gồm VAT.
Shagang duy trì giá thép cây cho cuối tháng 10
Jiangsu Shagang Group cho biết hôm thứ Tư rằng sẽ duy trì giá thép cây trong nước cho 10 ngày cuối tháng 10. Việc duy trì giá xuất xưởng phản ánh giá thép cây giao ngay tương đối bình ổn ở thị trường trong nước, và quặng sắt vẫn trên ngưỡng 50 USD/tấn CFR.
Do đó, giá mới nhất của Shagang cho thép cây HRB400 đường kính 16-25mm vẫn ở mức 2.000 NDT/tấn (315 USD/tấn) trọng lượng lý thuyết và gồm 17% VAT. Ngoài ra, nhờ thị trường ổn định mà các đại lý không thể kỳ vọng khoản bù đắp lần này nếu họ đặt mua với Shagang trước giữa tháng 10.
Thỉnh thoảng khi thị trường đang suy yếu thì các nhà máy Trung Quốc bù đắp cho các đại lý của họ để giảm bớt bất cứ khoản thiệt hại nào mà họ có thể phải chịu.
Cho đến tuần này, giá giao ngay cho thép cây của Shagang ở thị trường Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang đã giữ ổn định ở mức 1.940-1.950 NDT/tấn xuất xưởng và gồm VAT.
Nhưng nguồn tin từ nhà máy dự báo giá sẽ không phục hồi trong những tháng tới vì sức mua vẫn còn teo tóp.
Cùng với thép cây, Shagang đã giảm nhẹ giá cuộn trơn cho HPB300 xuống 30 NDT/tấn còn 2.120 NDT/tấn gồm VAT.
Thép cây Châu Á không đổi do sức mua hạn chế
Giá thép cây giao ngay tới Châu Á duy trì ổn định hôm thứ Tư sau hai ngày rớt giá liên tục. Hoạt động thu mua im ắng ở Hong Kong và Singapore là nguyên nhân khiến thị trường chững lại.
Platts định giá thép cây BS500 đường kính 16-20mm duy trì mức 253-257 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế, mức giá trung bình 255 USD/tấn FOB, vẫn ở mức thấp nhất kể từ khi Platts bắt đầu định giá hồi tháng 11/2006.
Tại Hong Kong, các nhà cung cấp đang chào bán thép cây giao tháng 12 ở mức thấp chỉ có 270 USD/tấn CFR trọng lượng thực tế (với phí vận chuyển 257 USD/tấn FOB). Trong khi giá mua của một số người chỉ có 265 USD/tấn CFR.
Một nhà tích trữ xác nhận hôm thứ Ba rằng công ty ông đã đặt mua thép cây hồi tuần trước với giá khoảng 273 USD/tấn CFR để giao tháng 11 và 12.
Thị trường cũng đang theo dõi xem liệu một số lượng lớn các nhà máy Trung Quốc đã bắt đầu hạn chế sản lượng hay chưa và liệu điều này có giúp bình ổn giá thép hay không. Các nhà máy đang tỏ ra do dự để giảm giá xuống thấp hơn nhiều vì họ tiếp tục công bố những khoản lỗ.
Mức giá thấp nhất mà các nhà máy có khả năng xuất khẩu là 265 USD/tấn CFR Singapore, trong khi chào giá thấp hơn từ thương nhân khoảng 260 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết. 260-265 USD/tấn CFR, tương đương 253-258 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế, phí vận chuyển khoảng 15 USD/tấn và dung sai khối lượng 3%.
Giá thép cuộn CIS tiếp tục giảm
Giá xuất khẩu HRC và CRC CIS đã giảm trung bình 10 USD/tấn so với đầu tuần này. Một nhà máy Nga đã bán HRC tới Thổ Nhĩ Kỳ với giá 285-290 USD/tấn CFR giao từ cảng biển Baltic. Phí vận chuyển là 20-22 USD/tấn nên giá FOB là 265-270 USD/tấn.
Thị trường vẫn lo lắng các nhà máy Nga có thể đạt được mức giá cho phép họ hòa vốn hay không và nếu giá tiếp tục giảm thì có nguy cơ các nhà máy phải cắt giảm sản lượng vào tháng 11-12.
Các nhà máy Nga có ưu thế về khoảng cách nên có phí vận chuyển cao. Không giống như các nhà máy Ukraina, các nhà máy Nga nằm cách xa cảng gần nhất cũng 1.000 km. Nếu chi phí sản xuất HRC ở mức 200 USD/tấn hoặc cao hơn thì cộng với giá 30-40 USD/tấn sẽ ra giá bán của Nga.
Phí vận chuyển bằng xe lửa cho đoạn đường từ 1.100-1.200 km sẽ là 1.400-1.500 Rub/tấn tại mức tỷ giá hiện tại, tương đương 23 USD/tấn. Dựa vào sự suy yếu của đồng Rub, phí vận tải tính theo dolla đã giảm nhẹ.
Nhu cầu tiêu thụ tại thị trường Nga đã cải thiện trong Q3. NLMK đã bán được hơn 200.000 tấn so với Q2. Trong cùng thời điểm, MMK đã tăng bán thép tới CIS thêm 380.000 tấn. Trong khi đó, vài nguồn tin nghi ngờ về khả năng cắt giảm sản lượng của Trung Quốc với vài hy vọng là sẽ xảy ra vào tháng tới.
Bengang giảm giá HRC tháng 11 xuống 63 USD/tấn
Benxi Iron & Steel (Bengang) sẽ giảm giá xuất xưởng tháng 11 cho HRC xuống 400 NDT/tấn (63 USD/tấn). Nhà máy cũng đã hạ giá các sản phẩm khác xuống 50-150 NDT/tấn.
Giá xuất xưởng của Bengang cho HRC Q235 5.5mm sẽ còn 2.240 NDT/tấn, trong khi CRC DC01 1.0mm và HDG DC51D 1.0mm còn lần lượt 2.350 NDT/tấn và 2.930 NDT/tấn NDT/tấn, cả hai đều giảm 120 NDT/tấn so với tháng trước. Tất cả các giá đều chưa có 17% VAT và có hiệu lực từ ngày 21/10.
Mặc dù điều đáng nói là cùng với việc giảm giá xuất xưởng HRC, Bengang cũng đã giảm chiết khấu cho HRC tháng 11 xuống 260 NDT/tấn. Điều này có nghĩa là chi phí mua HRC chỉ giảm 140 NDT/tấn. Hơn thế nữa, giá HRC của nhà máy vẫn cao hơn khoảng 700 NDT/tấn so với giá trên thị trường giao ngay.
Nhưng không giống như những doanh nghiệp khác vẫn duy trì giá tháng 11 trong khi bí mật tăng chiết khấu, Bengang đã trở thành người đầu tiên công bố mức giảm lớn mà đồng thời lại bóp chẹt cả khoản chiết khấu. Công ty không thể giải thích lý lẽ đằng sau việc này nhưng thừa nhận rằng việc giảm giá có khả năng sẽ làm bào mòn niềm tin thị trường.
Các đại lý ở Thượng Hải nghi ngờ rằng việc giảm giá của Bengang sẽ gây ảnh hưởng đến thị trường giao ngay nhưng có lẽ sẽ kéo giá xuống sâu hơn trong tháng tới. “Là một nhà phân phối chính cho thép Bengang, chúng tôi đang bị lỗ nặng trong năm nay chủ yếu là do giá rớt liên tục”.
Tại thị trường Thượng Hải hôm thứ Tư, Platts định giá HRC Q235 5.5mm ở mức 1.900-1.920 NDT/tấn xuất xưởng gồm 17% VAT, không đổi trong 7 ngày làm việc liên tiếp.
Giá HRC Châu Á ổn định nhưng niềm tin vẫn còn yếu ớt
Hôm thứ Tư, giá HRC giao ngay ở Châu Á đã ngưng giảm sau hai ngày lao dốc liên tục trước đó. Nhưng các nhà quan sát thị trường vẫn còn bi quan về giá sắp tới, vì cho rằng khối lượng giao dịch hạn chế cộng thêm sự cạnh tranh gay gắt giữa những người bán.
Platts định giá HRC SS400 3.0mm trong khoảng 265-270 USD/tấn FOB, mức giá trung bình 267,5 USD/tấn, bằng với ngày trước đó và vẫn ở mức thấp kỷ lục kể từ khi Platts bắt đầu theo dõi thị trường này hồi tháng 01/2006.
Nghe nói một nhà máy lớn ở đông bắc đang chốt các hợp đồng ở quanh mức 276 USD/tấn CFR Việt Nam, trong đó phí vận chuyển khoảng 8 USD/tấn. Tuy nhiên, không có thêm chi tiết nào. Các nhà máy lớn khác như Anshan Iron & Steel vẫn chào giá 275-280 USD/tấn FOB, nhưng không có bất kỳ giao dịch nào được ký kết.
“Thị trường HRC ổn định với lượng giao dịch hạn chế. Phần lớn người mua vẫn đang giữ thái độ chờ đợi”, một thương nhân ở Việt Nam nói. Tuy nhiên, ông nghĩ khối lượng giao dịch sẽ cải thiện vào cuối tuần này hay tuần tới khi người mua trì hoãn đặt mua một thời gian dài.
Chào giá phổ biến của Trung Quốc cho thép cuộn SAE1006 2.0mm duy trì ở mức 275-278 USD/tấn CFR Việt Nam, nhưng không có giao dịch nào được chốt.
Trung Quốc: Giá HDG xuất khẩu lao dốc nhanh hơn
Các nhà máy thép Trung Quốc đã hạ giá xuất khẩu cho HDG xuống thêm nữa trong tuần này với nỗ lực khuyến khích sức mua ở nước ngoài. Mặc dù nhiều thương nhân thấy đơn hàng không có khả năng phục hồi trong tháng này và sợ thị trường xuất khẩu thép dẹt trì trệ, trong đó có HDG, có lẽ sẽ kéo dài đến tháng 11.
Một nhà xuất khẩu cho biết một nhà máy lớn ở miền bắc nói với ông rằng trong tuần này chào giá cho HDG DX51D 1.0mm phủ 140 gram kẽm trên một mét vuông đã giảm 10 USD/tấn còn 385 USD/tấn FOB. Do đó, giá HDG loại phủ 120 gram kẽm trên một mét vuông hiện giờ khoảng 370 USD/tấn FOB.
Một nhà xuất khẩu cũng xác nhận bây giờ ông có thể mua được HDG phủ 120 gram kẽm trên một mét vuông ở quanh mức 370 USD/tấn FOB, nhưng các khách hàng vẫn không thể hiện nhiều sự quan tâm. Nhu cầu ở nước ngoài sẽ cải thiện hơn một chút vào cuối tháng 11 hay 12 do hoạt động tái tích trữ trước Giáng sinh và Năm mới.
Tuy nhiên, ông nhấn mạnh rằng giá xuất khẩu khó mà phục hồi bởi vì vào thời gian đó nhu cầu trong nước sẽ ít hơn và nhiều loại thép hơn có lẽ đã được hướng vào thị trường xuất khẩu.
Một nhà xuất khẩu khác cho biết một số chào giá khác của nhà máy cho HDG phủ 120 gram kẽm trên một mét vuông vẫn không thay đổi từ đầu tháng này ở mức 385-390 USD/tấn FOB, nhưng giá đều có thể thương lượng miễn là có đơn đặt hàng.
Một thương nhân ở Thượng Hải cho biết thêm rằng sự sụt giảm của giá HDG đã bị hạn chế từ đầu năm tới nay. Tuy nhiên, khó mà nói sự bình ổn sẽ kéo dài lâu hơn bao nhiêu thì vì sức mua thường sụt giảm trong hai tháng cuối năm.
Thị trường thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ khởi sắc
Giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ tăng lần đầu tiên trong 5 tháng nhờ tiêu thụ cải thiện cho phép các nhà máy tăng giá mặc dù các giao dịch thực sự khan hiếm.
Tại Iskenderun, giá tăng lên mức 340-345 USD/tấn FOB và xuất xưởng mặc dù một nhà máy EAF tại Izmir có vẻ mún chấp nhận giá 325 USD/tấn FOB do thiếu nhu cầu tiêu thụ. Một nhà máy cho biết giá tới Dubai có thể đạt mức 310-320 USD/tấn FOB.
Giá 340 USD/tấn FOB là giá xuất khẩu thực tế cho các lô hàng 3.000-5.000 tấn bán tới Ai Cập. Thị trường đã sôi nổi hơn và giá bán tới Iraq đạt mức 355 USD/tấn xuất xưởng với giá chào Ai Cập đạt mức 350 USD/tấn FOB. Tuy nhiên, ông không chắc giá 340-345 USD/tấn CFR có được chấp nhận không.
Một nhà máy tại Izmir chào bán tại mức 325 USD/tấn FOB nhưng các nhà máy khác chào bán tại mức 340-345 USD/tấn FOB.
Platts tăng giá thép cây thêm 3 USD/tấn lên mức 331 USD/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ. Đây là lần đầu tiên giá đã tăng kể từ tháng 5.
Giá cuộn trơn Châu Á giảm sâu hơn do sức mua yếu
Giá cuộn trơn của Trung Quốc ở Châu Á lại giảm một lần nữa trong tuần này bởi vì chào giá thấp từ những nhà cung cấp Trung Quốc trong bối cảnh sức mua chậm. Hôm thứ Tư, Platts định giá cuộn trơn dạng lưới 6.5mm giảm 2 USD/tấn so với tuần trước còn 270-273 USD/tấn FOB. Mức giá trung bình 271,5 USD/tấn FOB là mốc thấp kỷ lục mới kể từ khi Platts định giá hồi tháng 10/2006.
Các nhà xuất khẩu thép lớn ở miền bắc đã hạ chào giá xuống 5 USD/tấn còn 275 USD/tấn FOB tính đến ngày 21/10. Các nhà máy không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc giảm giá bởi vì đang bị sức ép để hoàn thành đơn đặt hàng của họ.
Jiujiang Wire Rod, một nhà cung cấp lớn ở tỉnh Hà Bắc và là một nhà xuất khẩu năng động đã giảm giá xuất xưởng hàng tuần trong nước xuống 5 NDT/tấn (1 USD/tấn) còn 1.815 NDT/tấn (286 USD/tấn) xuất xưởng gồm VAT.
Trong khi các thương nhân cũng đang chào bán cuộn trơn với giá thấp hơn trong tuần này, giá đặt mua của người mua ở nước ngoài cũng quá thấp để các nhà cung cấp chấp nhận. Các thương nhân đang chào giá 280-283 USD/tấn CFR TP.HCM, giảm từ mức phổ biến 281-285 USD/tấn CFR của tuần trước.
Với phí vận chuyển tới thành phố khoảng 9 USD/tấn, nên giá FOB là 271-274 USD/tấn FOB. Không có giao dịch nào được xác nhận tính đến thứ Tư, khi người bán không muốn chấp nhận giá mua dưới mức 280 USD/tấn CFR Việt Nam.
Tại thị trường Trung Quốc, cuộn trơn Q195 6.5mm được định giá hôm thứ Tư ở mức 1.930-1.940 NDT/tấn (304-306 USD/tấn) gồm 17% VAT, bằng với tuần trước đó.