Thị trường tấm dày Mỹ đối mặt với thời gian sản xuất kéo dài
Các khách hàng tấm dày Mỹ tiếp tục vật lộn tìm kiếm đơn hàng do các nhà máy tuyên bố đã có đủ đơn hàng tháng 5.
Giá từ các nhà máy tầm 900-920 USD/tấn. Một trung tâm dịch vụ hco hay giá giao ngay tháng 5 gần mức 940-960 USD/tấn nhưng nguồn cung hạn chế.
Thời gian sản xuất tầm tháng 6. Tuy nhiên, chưa ai nhận đơn hàng tháng 6, một nguồn tin cho biết. Dự báo các nhà máy sẽ tăng giá thêm 40-60 USD/tấn cho tháng 6.
Cái chính cho các trung tâm dịch vụ là sự thắt chặt nguồn cung ngắn hạn và giảm tối thiểu rủi ro trong nửa sau năm 2018 với tồn kho giảm.
Thời gian sản xuất tấm dày cán trung bình tăng lên 10.3 tuần từ mức 9.9 tuần trong ngày 14.3. Thời gian sản xuất cho tấm dày đã vượt mức trung bình 9 tuần trong 4 tuần trước.
Giá tấm mỏng Mỹ ổn định trong bối cảnh nguồn cung thiếu hụt
Giá HRC Mỹ ổn định vào hôm qua do nguồn cung thiếu hụt khiến người mua gặp khó khăn bổ sung nguyên liệu.
Người mua chờ đợi đơn hàng tháng 5 được mở nhưng không có hy vọng cao về nguồn cung sẵn có sẽ tăng. Một nhà máy mini chào bán thép có sẵn tuần 23/4 ở mức 850 USD/tấn.
Các nhà máy mini và các nhà máy tích hợp khác đang chuẩn bị chào bán thép tháng 5 nhưng cũng đang giải quyết các hợp đồng dài hạn vì nguồn cung giới hạn.
Theo một trung tâm dịch vụ thì nếu không phải là khách hàng mua hợp đồng dài hạn thì rất khó để tìm được nguồn cung và phải trả nhiều cũng như đợi lâu.
Các nhà máy Mỹ ưu tiên các hợp đồng dài hạn, nhất là trong năm 2018, theo như CFO của một trung tâm dịch vụ cho hay.
Sự thắt chặt nguồn cung thể hiện ở thời gian sản xuất. Thời gian sản xuất HRC trung bình mở rộng ra tới 7.8 tuần từ mức 7.1 tuần ngày 14/3. Thời gian sản xuất CRC ở mức 8.2 tuần trong khi HRC tăng lên 9.2 tuần từ mức 9.0 tuần trước đó.
Các nhà máy phôi thanh CIS do dự chào bán
Các nhà cung cấp phôi thanh CIS do dự chào giá trước các dự báo tiêu cực từ người mua.
Một thương nhân dự báo giá sẽ xuống 520 USD/tấn FOB Biển Đen sớm, giảm 30 USD/tấn so với mức đỉnh tháng này. Tại Ai Cập, một người mua cho hay thị trường nội địa đã ngừng đặt hàng trước dự báo giá giảm hơn nữa. giá chốt phôi thanh gần đây nhất ở mức 560 USD/tấn CIF, tầm 540-543 USD/tấn FOB. Các giao dịch ở mức này cũng được báo báo bởi một thương nhân Châu Âu.
Các nhà máy do dự giảm giá chào bán. Một nhà máy Nga chào bán mức 550 USD/tấn FOB Biển Đen nhưng cho rằng người mua không quan tâm. Một nhà máy cho biết giá chào mua giảm so với tuần trước, xuống còn 530 USD/tấn FOB nhưng không có ý định chấp nhận mức này. Trong khi đó, một thương nhân cho biết đã giảm giá chào mua xuống 5 USD/tấn tới một nhà máy Ukraina, còn 530 USD/tấn FOB Mariupol ssau khi giá chào nhà máy giảm xuống 536 USD/tấn FOB từ mức 545 USD/tấn FOB Mariupol thanh toán trước.
Giá thép cây Thổ Nhĩ Kỳ ngừng tăng
Đà tăng giá thép cây nội địa Thổ Nhĩ Kỳ đã chững lại những ngày gần đây, với mức chào xuất khẩu cũng giảm xuống dưới 600 USD/tấn FOB.
Các nhà máy đã ngừng tăng giá thép cây theo sự suy yếu của đồng Lira với giá giảm xuống còn 610 USD/tấn. Đồng Lira tiếp tục giảm vào hôm qua, giao dịch ở mức 3.94-3.95 Lira so với đồng USD so với mức 3.87 Lira/USD vào thứ tư tuần trước.
Giá chào xuất khẩu giảm xuống 595 USD/tấn FOB tương ứng với giá chào nhập khẩu phôi thanh giảm. Nếu người mua chống lại những chào bán này, giá sẽ trượt thêm trong tuần tới, một nguồn tin cho biết.
Một số nguồn tin thị trường cho rằng xu hướng giảm giá thép thành phẩm và bán thành phẩm cũng sẽ được gây áp lực cho phế liệu nhập khẩu trong lần thu mua kế tiếp vào tuần tới.
Giá phôi thanh ở thị trường trong nước cũng giảm xuống 565 USD/tấn xuất xưởng trong những ngày gần đây, trong khi chào giá phôi thanh CIS cung cấp tới Thổ Nhĩ Kỳ giảm xuống 560 USD/tấn CIF. Tuy nhiên, giá chào mua thấp hơn 10-15 USD/tấn và điều này đã làm tăng áp lực giảm giá phôi thép.
Thị trường thép nội địa Trung Quốc suy yếu gây áp lực cho giá thép dây xuất khẩu
Giá thép dây xuất khẩu Trung Quốc giảm do áp lực giá nội địa suy yếu.
Tại Thượng Hải, giá thép dây Q195 6.5 mm giao ngay giảm 125 NDT/tấn so với tuần trước (20 USD/tấn) còn 3.875 NDT/tấn (612 USD/tấn) có thuế. Sự sụt giảm này chủ yếu là do sự phục hồi chậm của nhu cầu tiêu thụ cuối, giá niêm yết thấp, giá giao kỳ hạn suy yếu và hàng tồn kho thép giao ngay ở mức cao.
Một số nhà máy Trung Quốc đã ngừng bán trong bối cảnh không chắc chắn, nhưng đàm phán với các giá chào mua khối lượng lớn.
Một nhà máy xuất khẩu lớn ở vùng đông bắc Trung Quốc đã ngưng -bán nhưng đưa ra giá chào tầm 590-595 USD/tấn giao tháng 5, giảm từ mức 615 USD/tấn tuần trước.
Một nhà máy xuất khẩu ở phía đông Trung Quốc đã chào giá 600 USD/tấn FOB giao tháng 5, giảm 10 USD/tấn so với tuần trước.
Giá chào bán cho thép dây không hợp kim từ các nhà máy ở mức 565-580 USD/tấn FOB giao tháng 4-5, thấp hơn mức 575- 580 USD/tấn FOB tuần trước. Một số thương nhân tăng giá chào bán thêm 5 USD/tấn sau khi thấy một số nhà máy ở miền bắc Trung Quốc nâng giá trong nước vào trưa hôm qua.
Một giao dịch 10.000 tấn được chốt ở mức 560 USD/tấn CFR Manila, tương đương với 545 USD/tấn FOB. Không có thông tin chi tiết về giao dịch này và một số thương nhân nghi ngờ đơn hàng này sẽ được giao khi thị trường hồi phục.
Một thương nhân Philippines cho biết giá thấp nhất mà ông nghe được trong tuần này là một giao dịch ở mức 564 USD/tấn CFR Manila, tương đương với 549 USD/tấn FOB Trung Quốc. Không có giao dịch nào trong ngày hôm qua.
Công ty Jiujiang Wire tỉnh Hà Bắc đã hạ giá niêm yết trong tuần của mình xuống 70 NDT/tấn còn 3.730 NDT/tấn có thuế.
Giá xuất khẩu tấm dày Trung Quốc giảm do các thương nhân bán khống
Giá xuất khẩu tấm dày Trung Quốc tiếp tục giảm vào hôm thứ tư do các thương nhân giảm giá chào bán dù phía nhà máy vẫn giữ ổn định chào giá.
Các nhà máy Trung Quốc vẫn giữ giá chào không thay đổi so với tuần trước trong khoảng từ 605 - 615 USD/tấn.
Ở Việt Nam, các thương nhân chào bán tấm cán nóng SS400 và A36 Trung Quốc lần lượt ở mức 610 USD/tấn và 615 USD/tấn CFR Việt Nam. Tuy nhiên, người mua lo ngại xu hướng giảm này sẽ tiếp tục và do đó họ muốn chờ đợi.
Theo một nhà phân phối tại Việt Nam, giá chào bán cho HRC SS400 đã xuống dưới mức 600 USD/tấn CFR Việt Nam và giá thép tấm nóng thường thấp hơn thép cuộn cán nóng. Do đó, ông mô tả thị trường hiện tại là "bất thường".
Các chào mua khan hiếm trên thị trường. Một số thương nhân cho biết họ đã ngừng cung cấp bởi vì họ mua đi bán lại và giá yêu cầu của họ sẽ cao hơn nhiều.
Giá HRC Ấn Độ giảm do người mua thanh lý tồn kho
Giá thép cuộn cán nóng nội địa Ấn Độ giảm trong tuần này do nhu cầu tiêu thụ suy yếu vì người mua đổ xô thanh lý hàng tồn.
Giá cho HRC IS 2062, cuộn dày 2.5-10mm tại mức 43.250-44.250 Rupees/tấn hôm thứ tư, giảm 250 Rupees/tấn.
Trong khi hầu hết các nhà máy tiếp tục cung cấp ở mức 44.000 Rupees/tấn, hầu hết các giá chào mua là 43.500 Rupees/tấn hoặc thấp hơn. Một giao dịch nghe chốt ở mức 43.750 Rupees/tấn cho 44.000 tấn HRC bởi một thương nhân ở Mumbai. Một giao dịch tương tự đã được nghe ở cùng mức tại phía bắc.
Người dùng cuối không muốn phải dự trữ hàng tồn kho khi năm tài chính kết thúc vào ngày 31/3, thương nhân Mumbai cho biết. Một thương nhân ở miền Nam Ấn Độ cho hay: "Doanh số bán hàng trong tuần này rất thấp". Hầu hết các đơn đặt hàng trong tháng đã được đặt, và mua hàng chỉ phục vụ cho các mục đích khẩn cấp.
Bên cạnh đó, hầu hết các ngành tiêu thụ cuối như ô tô, sản xuất và hàng tiêu dùng bền tiếp tục phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng tiền mặt và sự suy thoái tương tự, các nguồn tin thị trường cho biết.
Tâm lý thị trường suy yếu kéo giá xuất khẩu HRC Trung Quốc
Giá xuất khẩu HRC Trung Quốc tiếp tục giảm vào hôm qua do tâm lý thị trường suy yếu và các thương nhân giảm giá chào bán dù các nhà máy giữ nguyên.
Một giao dịch chốt đầu tuần cho HRC thương phẩm Trung Quốc ở mức 595 USD/tấn CFR Việt Nam. Giá chào FOB tầm 600-610 USD/tấn FOB giao tháng 5.
Đối với loại SAE, một giao dịch chốt mức 620 USD/tấn CFR Việt Nam cho 10.000 tấn HRC SAE1006 có 50% loại dày 2mm. Các thương nhân chào bán 615-620 USD/tấn CFR Việt Nam giao tháng 5, trong khi giá chào mua tầm 615 USD/tấn CFR Việt Nam.
Trong khi đó, một nhà máy Nga chào bán HRC SAE1006 loại nhỏ ở mức 620 USD/tấn FOB Nga giao tháng 6. Tuy nhiên, giá này không cạnh tranh đối với nguyên liệu Trung Quốc.
Giá HRC Q235 5.5mm giao ngay tại Thượng Hải giảm 60 NDT/tấn xuống còn 3.870-3.890 NDT/tấn (611-614 USD/tấn) xuất xưởng có thuế.
Giá giao kỳ hạn chốt giảm 81 NDT/tấn xuống 3.735 NDT/tấn.
Giá thép cây xuất khẩu Trung Quốc giảm do tâm lý thị trường suy yếu
Giá xuất khẩu thép cây Trung Quốc giảm do người bán giảm giá chào bán trong bối cảnh người mua xa lánh và tâm lý thị trường suy yếu.
Thép cây giao kỳ hạn tháng 5 trên sàn SHFE chốt giảm 32 NDT/tấn xuống còn 3.617 NDT/tấn (571 USD/tấn).
Giá giao kỳ hạn tăng vào chiều thứ ba và tiếp tục tăng trong phiên giao dịch qua đêm trước khi giảm lại vào hôm thứ tư. Một nhà máy lớn giảm chào giá thép cây 10-40mm xuống còn 550 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng lý thuyết, giảm 5 USD/tấn so với thứ sáu tuần trước và giá này đã đàm phán.
Một nhà môi giới Singapore nghĩ rằng các nhà máy có thể bán 540 USD/tấn, tương đương 557 USD/tấn FOB Trung Quốc. Một nhà máy khác giảm giá chào xuống 10 USD/tấn còn 580 USD/tấn CFR Hồng Kông.
Hai thương nhân Trung Quốc cho biết tâm lý thị trường suy yếu. Họ dự báo tồn kho sẽ không thay đổi nhiều trong số liệu công bố vào hôm qua do mùa mưa lớn ở miền đông và các nhà máy chậm chạp tái sản xuất ở phía bắc Trung Quốc.
Tại Hồng Kông, chào giá thép cây 10-32mm ở mức 575 USD/tấn. Các chào giá khác tầm 580 USD/tấn CFR cho thép cây 10-40mm Trung Quốc và Nga nhưng không ai mua. Một nhà máy được cho là đang gấp rút bán hàng vì đang tích cực tìm kiếm giá chào mua.
Tại Singapore, một nhà máy phía bắc vẫn duy trì giá chào 575 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết và đã nhận đủ đơn hàng giao tháng 4. Giá chào mua giảm 10 USD/tấn còn 530-550 USD/tấn CFR.
Một thương nhân Thượng Hải không muốn chốt đơn hàng sau khi giá thép cây giao kỳ hạn giảm.