Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 23/01/2018

Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ giảm mạnh giá mua phế

Nhà máy Kardemir giảm mạnh giá mua phế DKP tính theo đồng Lira trong bối cảnh giá nhập khẩu phế giảm.

Giá mua phế DKP tính bằng đồng Lira giảm 60 lira/tấn (15.8 USD/tấn) xuống 1.330 Lira/tấn (350 USD/tấn) trong khi giá mua của các nhà máy khác vẫn cao.

Nhà máy Colakoglu vẫn mua tại mức 1.400 lira/tấn (368 USD/tấn) trong khi Asil Celik giữ giá mua phế ở mức cao 1.440 Lira/tấn (379 USD/tấn).

Tại nhà máy Eregli của Erdemir, giá mua phế DKP vẫn ổn định ở mức 1.390 lira/tấn (366 USD/tấn) trong khi giá mua của Iskenderun tầm 1.385 Lira/tấn (364 USD/tấn).

Trong khi đó, nhập khẩu phế tăng mạnh trong vòng 11 tháng đầu năm ngoái. Thổ Nhĩ Kỳ nhập khẩu 18.9 triệu tấn phế trong tháng 1-tháng 11, tăng 18% so với cùng kỳ năm ngoái. Nhập khẩu từ EU và Mỹ trong cùng giai đoạn tăng trong khi từ CIS giảm mạnh.

Các nước EU vẫn là các nhà cung cấp phế lớn nhất cho Thổ Nhĩ Kỳ trong vòng 11 tháng tại mức 11.8 triệu tấn, tăng 25% so với cùng kỳ năm ngoái. Thổ Nhĩ Kỳ nhập khẩu 3.3 triệu tấn phế từ Mỹ trong cùng giai đoạn, tăng 6.8% so với cùng kỳ năm ngoái trong khi nhập khẩu từ CIS giảm 11.4% so với cùng kỳ năm ngoái xuống 2.4 triệu tấn.

Giá tấm mỏng Mỹ ổn định từ đầu tuần

Giá tấm mỏng Mỹ hầu như ổn định trong ngày thứ hai do các nhà máy giữ giá chào ổn định trong khi cố gắng tăng giá HRC và HDG.

Một nhà máy Mỹ đang bán 200 tấn HRC tại mức 700 USD/tấn trong khi giá chào bán 700-720 USD/tấn tùy vào kích cỡ đơn hàng. Người mua dần chấp nhận giá 700 USD/tấn trở lên với các đơn hàng nhỏ chốt mức 720 USD/tấn trong tuần trước.

Đơn hàng từ các nhà máy thép ống tăng cũng như các cam kết hợp đồng mạnh mẽ tại các nhà máy Mỹ tiếp tục thắt chặt nguồn cung HRC tại thị trường giao ngay. Thêm vào đó, vụ hỏa hoạn cuối tuần tại Middletown Works thuộc AK Steelcó thể thắt chặt hơn nữa nguồn cung trên thị trường.

Trong khi các nhà máy nội địa thành công hơn với giá HRC thì CRC và HDG tăng chậm hơn.

Do giá HRC tiếp tục tăng nên chênh lệch HRC và HDG giảm mạnh. Giá chào HDG tầm 820-880 USD/tấn chưa tính phụ phí kẽm dù mức cơ bản 800 USD/tấn vẫn có cho các đơn hàng lớn.

Một nhà máy chào bán 880 USD/tấn cho HDG nhưng chưa có giao dịch.

Giá giao dịch HDG tầm 910-920 USD/tấn trong tuần trước bao gồm cả phụ phí kẽm.

Các nhà máy CIS vẫn duy trì giá chào HRC ở mức cao

Một nhà máy Nga được nghe đã bán HRC tới Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 615 USD/tấn CFR, tương đương 600 USD/tấn FOB. Một nhà máy khác đã bán thép cuộn nhỏ hơn tại mức 575-585 USD/tấn FOB.

Một nhà máy Ukraina chào bán giá 600 USD/tấn CFR và chốt một đơn hàng ở mức 595 USD/tấn CFR, tương đương 580 USD/tấn FOB.

Vẫn còn ít nguyên liệu có sẵn và tồn kho đang giảm ở khắp nơi tại Trung Quốc, Đức, Nhật Bản và Ý. Qúa trình tích trữ hàng sẽ trợ giá. Giá CRC CIS được chào bán ở mức 630-635 USD/tấn FOB Biển Đen.

Tokyo Steel tăng giá ngoại trừ HDG và thép tấm dày

Tokyo Steel Manufacturing sẽ tăng giá hầu hết các sản phẩm thép cho hợp đồng tháng 2 thêm 1.000-2.000 Yên/tấn (9-18 USD/tấn) nhưng vẫn giữ giá HDG và tấm dày.

Kể từ tháng 9, công ty đã tăng giá thép dài thêm tổng cộng 12.000 Yên/tấn và 11.000 Yên/tấn cho thép dẹt. Tuy nhiên, tiến trình hấp thụ giá trên thị trường khác nhau nên phía công ty chọn cách áp dụng mức tăng khác nhau cho tháng 2.

Xu hướng thị trường nhìn chung không thay đổi với nhu cầu tiêu thụ nội địa ổn định và cán cân cung-cầu thắt chặt giúp giá tăng. Theo dự báo, chi phí đầu vào như nguyên liệu thô và nguyên liệu phụ tăng so với năm tài chính mới trong tháng 4.

Công ty tiếp tục nhận được nhiều chào mua từ ngoài nước. Tuy nhiên, công ty không thể nhận được nhiều đơn hàng hơn vì không đủ nguồn cung. Công ty đang cố  gắng hạn chế đơn hàng xuất khẩu. Tokyo Steel nhận được giá chào mua thép dầm hình H ở mức 650-660 USD/tấn FOB và 580-600 USD/tấn FOB cho HRC, cùng ổn định so với tháng trước.

Tokyo Steel dự định sản xuất 200.000 tấn thép thành phẩm trong tháng này, giảm 15.000 tấn so với tháng 12. Trong đó, công ty dự định sản xuất 80.000 thép dầm hình H, giảm 20.000 tấn so với tháng 12 và 90.000 tấn HRC, tăng 10.000 tấn (bao gồm cả 20.000 tấn xuất khẩu). Sản lượng tấm dày tầm 15.000 tấn, không thay đổi so với tháng 12.

Giá tấm không gỉ tăng tại Nhật Bản

Giá tấm cắt không gỉ austenitic Nhật Bản tăng trong bối cảnh thị trường mạnh.

Giá tấm cắt 304 2.0mm tại Tokyo tăn 10.000 Yên/tấn so với tuần trước lên 350.000 Yên/tấn (3.165 USD/tấn). Đây là lần tăng giá đầu tiên kể từ tháng 4.

Một nhà phân phối thép không gỉ giải thích rằng trong khi thị trường chưa chấp nhận hoàn toàn giá mới thì các nhà phân phối củng cố được vị thế của mình.

Nhà máy Nippon Steel & Sumikin Stainless (NSSC) đã quyết định duy trì giá CRC không gỉ tháng 1. Dù vậy, công ty cũng nghĩ đó là cơ hội tốt để thu lại các mức tăng trước đó.

Kể từ tháng 10, NSSC đã tăng tổng cộng 35.000 Yên/tấn cho CRC austenitic và 20.000 Yên/tấn cho CRC ferritic.

Một nhà phân phối khác ở Tokyo cho biết tiêu thụ tấm cán nguội không gỉ nhìn chung ổn định và các nhà phân phối cũng đang cố gắng tăng giá CRC Ferritic. Giá thị trường cho tấm cán nguội Ferritic cũng sẽ tăng sớm.

Giá thị trường cho tấm cán nguội 430 2.0mm ở Tokyo ổn định ở mức 270.000 Yên/tấn (2.442 USD/tấn), không đổi so với tháng 4.

Doanh số bán tấm cán nguội ferritic và austenitic tại các trung tâm Nhật Bản trong tháng 11 đạt 59.337 tấn, giảm 0.3% so với cùng kỳ năm ngoái và 0.9% so với tháng 10.

Giá phế ổn định song thép cây suy yếu tại Đài Loan

Giá thép cây Đài Loan giảm 200 Đài tệ/tấn (6.80 USD/tấn) dù phế ổn định.

Nhà máy mini lớn là Feng Hsin Iron and Steel thông báo sẽ duy trì giá mua phế nội địa trong tuần thứ 6 liên tiếp ở mức  10.300 Đài tệ/tấn giao tới Đài Trung.

Tuy nhiên, giá thép cây giảm xuống 17.000 Đài tệ/tấn xuất xưởng Đài Trung cho thép cây cỡ cơ bản. Các nhà máy khác giảm giá trong bối cảnh tâm lý thị trường suy yếu. Có vài nhà máy giảm giá thép cây từ 100-200 Đài tệ/tấn.

Giá phế nội địa có thể suy yếu sớm nhưng hiện tại vẫn cạnh tranh hơn giá nhập khẩu, do đó sẽ không giảm nhanh như thép cây. Một nguồn tin cho biết giá thép cây Trung Quốc suy yếu đã ảnh hưởng tới tâm lý thị trường ở Đài Loan và dự báo giá phế và thép cây Đài Loan sắp tới sẽ tiếp tục giảm. 

Trong khi đó, giá phế nhập khẩu Đài Loan suy yếu với ít giao dịch hơn do các nhà máy Đài Loan do dự đặt hàng khi tâm lý thị trường phế Châu Á suy yếu. Các giao dịch phế HMS Mỹ khối lượng nhỏ chốt tại mức 350 USD/tấn CFR Đài Loan trong tuần trước.

Giá xuất khẩu thép cây Trung Quốc tăng trưởng

Tại Singapore, một nhà máy phía đông Trung Quốc chào bán thép cây 10-40mm ở mức tối thiểu 580 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết, tăng 10 USD/tấn so với cuối tuần trước. Một nhà môi giới cho biết một thương nhân chào giá 565 USD/tấn cho thép cây 10-32mm còn giá chào mua vẫn ở mức thấp 530 USD/tấn CFR.

Tại Hông Kông, các thương nhân chào giá 565 USD/tấn CFR trọng lượng thực tế cho thép cây 10-40mm và chào giá khác tầm 565 USD/tấn CFR cho thép cây 10-32mm, tương đương 552 USD/tấn và 555-557 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế.

Các chào giá 555 USD/tấn từ các nhà môi giới không còn nữa. Giá chào ít nhất lúc này là 565 USD/tấn CFR.

Một thương nhân miền đông ngưng chào bán trong bối cảnh tâm lý thị trường mạnh. Tương tự, các nhà xuất khẩu lớn không chào bán.

Giá phôi thanh Biển Đen tiếp tục suy yếu

Thị trường phôi thanh Biển Đen suy yếu từ hôm thứ hai do người mua giảm giá chào, gây áp lực cho các nhà máy CIS.

Các thị trường quan trọng như Thổ Nhĩ Kỳ và Ai Cập chào mua dưới 500 USD/tấn FOB Biển Đen. Một nhà cán lại Thổ Nhĩ Kỳ nhận được giá chào từ một thương nhân ở mức 520 USD/tấn CFR Marmara (495-500 USD/tấn FOB) từ một nhà máy Nga. Một thương nhân tìm cách chốt giao dịch nhanh nên đưa ra giá thu hút.

Trong khi đó, các chào giá khác cao hơn ít nhất 10 USD/tấn. Môt nhà cán lại cho rằng sẽ trả tối đa 520 USD/tấn CFR Izmir, tầm 490-495 USD/tấn FOB Biển Đen nhưng không có giá chào này. Dù vậy, vẫn có vài chào giá rẻ. Ví dụ, một nguồn tin cho biết vẫn còn 25.000 tấn sẵn sàng giao ở mức 500 USD/tấn FOB Biển Đen từ một nhà máy Nga.

Tại Ai Cập, phôi thanh CIS có sẵn tại cảng ở mức thấp 500-505 USD/tấn CIF Alexandria. Tuy nhiên, không có xác nhận cho giá chào này. Một nguồn tin cho biết các khách hàng Ai Câp chào mua tầm 510-515 USD/tấn CIF.

Giá xuất khẩu HRC Trung Quốc tăng

Giá xuất khẩu HRC Trung Quốc tăng ngày thứ ba liên tiếp tính tới hôm qua nhờ người mua tăng giá chào.

Tại thị trường Thượng Hải, giá HRC Q235 5.5mm giao ngay ổn định ở mức 4.080-4.100 NDT/tấn (638-641 USD/tấn) xuất xưởng có thuế.

Tại sàn giao kỳ hạn, hợp đồng HRC giao tháng 5 chốt ggiamr 25 NDT/tấn xuống 3.898 NDT/tấn.

Hầu hết các nhà máy Trung Quốc không chào bán thép thương phẩm vào hôm qua do đang cân nhắc giá dựa vào giá chào mua nhận được mấy ngày nay.

Một nhà máy phía đông nhận được giá chào mua 570-575 USD/tấn FOB Trung Quốc cho HRC SS400 giao tháng 3. Một nhà máy khác chào giá ở mức ổn định 580 USĐ/tấn FOB. Không có giao dịch trong ngày.

Đối với thép cuộn SAE, nhà máy Formosa Hà Tĩnh chào bán HRC SAE1006 tại mức 573 USD/tấn CFR Đông Nam Á giao tháng 3 hoặc 4, giảm 2 USD/tấn so với giá chào hiện tại tháng 12. Nhà máy FHS cũng chào bán HRC SAE tại mức 573 USD/tấn CFR Việt Nam giao tháng 3 hoặc tháng 4.

Giá HRC SAE 1006 2.0mm Trung Quốc cao hơn giá HRC SS400 5 USD/tấn.