Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 23/04/2015

 

Định giá phôi thanh CIS

Platts định giá phôi thanh CIS tại mức 370 USD/tấn FOB Biển Đen trong ngày thứ tư, bình ổn so với ngày trước đó. 

Một thương nhân Thụy Sỹ cho biết các đơn hàng được chốt vào Iskenderun và Aliaga với giá 390 USD/tấn CFR và 387 USD/tấn CFR. Gía này chưa được thị trường xác nhận.

Gía bán tới Ai Cập đạt mức 390-395 USD/tấn CFR tùy vào cảng nhập. Một nhà cán lại Ai Cập đặt mua 10.000 tấn phôi thanh CIS tại mức 395 USD/tân CFR Alexandria nhưng giá chào hiện đạt mức 400 USD/tấn CFR hoặc cao hơn với giá 398 USD/tấn CFR là giá tối thiểu. 

Một thương nhân London cho biết giá chào từ CIS đạt mức 370 USD/tấn FOB trong khi thương nhân Thụy Sĩ cho là 370-375 USD/tấn FOB. Một thương nhân Dubai cho biết giá chào đạt mức cao 380 USD/tấn CFR.

Nhu cầu tiêu thụ từ Ai Cập hỗ trợ phôi thanh CIS, Thổ Nhĩ Kỳ trầm lắng

Ai Cập vẫn là khách hàng tốt của các nhà máy phôi thanh CIS do việc áp thuế nhập khẩu thép cây gần đây đã thúc đẩy nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm bán thành phẩm.

Một nhà cán lại Ai Cập đã đặt mua 10.000 tấn phôi thanh CIS trong tuần qua tại mức giá 395 USD/tấn CFR Alexandria nhưng giá chào hiện tại đạt mức 400 USD/tấn CFR hoặc cao hơn, với mức 398 USD/tấn CFR là giá tối thiểu.

Một thương nhân tại Thụy Sĩ đã chốt đơn hàng tới Bắc Phi, gồm cả Ai Cập tại mức giá 390-395 USD/tấn CFR. Ông cũng đã chốt được giao dịch trên mức 400 USD/tấn CFR nhưng không tiết lộ người mua hoặc nơi đến.

Các đơn hàng đã được chốt tại Iskenderun và Aliaga tại mức giá 390 USD/tấn CFR và 387 USD/tấn CFR. Tuy nhiên, giá này không được tiết lộ rộng rãi trên thị trường do tiêu thụ vẫn thấp. Nguồn cung tháng 5 có sẵn tại thị trường biển Đen vẫn thắt chặt. 

Trong khi nhu cầu tiêu thụ ngoài Ai Cập vẫn yếu, các nhà máy đang tìm cách giảm giá chào bán. Gía phế tăng dường như giúp phôi thanh bình ổn. Phế HMS nhập khẩu vào Thổ Nhĩ kỳ tăng trong mấy ngày gần đây với vài đơn hàng chốt trên mứuc 270 USD/tấn CFR.

Các nhà máy CIS giảm giá thép cuộn để bảo toàn đơn hàng

Các nhà máy CIS đã giảm giá chào bán thép cuộn do nhu cầu tiêu thụ suy yếu và sự cạnh tranh gay gắt từ Trung Quốc và Nhật Bản. Đà suy yếu gần đây của giá phôi phiến CIS cũng khiến giá thép cuộn CIS sụt giảm.

Các nhà máy CIS gồm Nga và Ukraina đã giảm giá chào bán xuống để phù hợp với giá chào của người mua. Chênh lệch giá mua bán chỉ còn 5 USD/tấn. HRC hiện được giao dịch tại mức 350-360 USD/tấn còn CRC là 435-445 USD/tấn.

Một nhà máy giao hàng từ cảng Baltic đã bán được HRC và CRC sản xuất tháng 5 giao tháng 6 tại mức 345 và 430 USD/tấn FOB. So với giá FOB Biển Đen thì giá trên cao hơn 5 USD/tấn. Một nhà máy khác chào bán tới Nam Âu tại mức giá 370-375 Euro/tấn CIF, tương đương mức 397-402 USD/tấn. Nếu trừ phí vận chueyẻn và bảo hiểm 40 USD/tấn thì giá còn 360 USD/tấn FOB Biển Đen.

Gía thép cuộn đã giảm 15-20 USD/tấn so với tháng trước mặc dù chi phí đầu vào tăng. Các nhà máy CIS vẫn duy trì khối lượng xuất khẩu do tiêu thụ suy yếu tại Nga

Trong tháng 1-2, xuất khẩu tăng nhờ đồng dolla tăng giá mạnh so với Rub. Tỷ giá đã tnăg từ mức 65-69 Rub/USD tháng 1-2 lên 53 Rub/USD hiện tại. Với sự phục hồi của đồng Rub, giá HRC Nga đã phục hồi.

Nhu cầu tiêu thụ tại Nga quý này suy yếu mạnh so với Q1 và không cho phép các nhà máy bán nhiều hàng vào thị trường trong nước. Đó là lý do họ duy trì khối lượng xuất khẩu, 45% sản lượng tùy trường hợp. Tại mức tỷ giá hiện tại, giá HRC Nga (CPT Maxcova) cao hơn giá FOB Biển Đen 100 USD/tấn. 

Platts giảm giá HRC và CRC xuất xưởng CIS xuống 10 USD/tấn trong ngày hôm qua. còn lần lượt 350-360 USD/tấn và 435-445 USD/tấn FOB Biển Đen.

 Giá FeCr Trung Quốc không đổi

Giá giao ngay trong nước của ferrochrome 50% Cr xuất xứ Trung Quốc hôm thứ Tư được định giá không đổi so với tuần trước và duy trì mức 6.400-6.600 NDT/tấn (tương đương 78.8-81.3 cents/lb) – gồm 17% VAT và phí vận chuyển- do thị trường không thay đổi. Nhiều người tiếp tục đợi các nhà sản xuất thép không gỉ lớn trong nước đưa ra giá mua tháng 05.

Tình hình nguồn cung tháng này đã cải thiện so với một hay hai tháng trước. Nguồn cung tới các nhà máy theo hợp đồng dài hạn ổn định nhưng người mua đang tìm nguyên liệu giao ngay sẽ vẫn phải trả với giá cao hơn.

“Các nhà sản xuất hiện không tích trữ nhiều. Nếu anh muốn mua nhanh thì sẽ phải trả giá cao hơn mới được.”, đại diện một nhà máy ở miền trung cho biết. Ông này cho biết thêm rằng một hợp đồng giao ngay nghe nói được chốt với giá 6.800 NDT/tấn, mặc dù chưa rõ chi tiết. Nhưng mức giá này không được tính vào định giá do thiếu chi tiết và bởi vì không có người mua hay bán nào khác chốt với giá cao như vậy.

Nhu cầu được cho là ổn định do không có sự cắt giảm đáng kể trong sản lượng từ các nhà máy thép không gỉ lớn. Thị trường cũng đang đợi xu hướng giá từ giá mua tháng 05 của các nhà máy hàng đầu và hầu hết đều cho rằng giá tháng tới sẽ giảm hoặc không đổi. Bất cứ đà tăng nào cũng sẽ bị kìm hãm bởi thị trường thép không gỉ suy yếu cùng với khả năng sản lượng tăng ở miền nam vì giá điện được cho là sẽ giảm.

Nhưng một số thì tin rằng giá không thể giảm do tiêu chuẩn bảo vệ môi trường ngày càng nghiêm ngặt hơn đối với các nhà sản xuất ferrochrome, điều này đã dẫn đến việc ngưng sản xuất và cũng sẽ ngăn họ hoạt động trở lại ở nhiều nơi trong nước. 

Định giá HRC EU

Platts giữ giá HRC Tây Bắc Âu bình ổn tại mức 407.50 Euro/tấn xuất xưởng Ruhr trong ngày thứ tư.

Gía tại thị trường Benelux đạt mức 400-410 Euro/tấn nhưng tại Đức,giá đạt mức 405-410 Euro/tấn và 410-415 Euro/tấn. 

Gía chào HRC từ Trung Quốc đạt mức 375-380 Euro/tấn CIF Antwerp nhưng người mua không thu mua nhiều do thời gian giao hàng dài.

Gía chào thép mạ xuất khẩu TNK tiếp tục giảm

Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đã giảm giá chào xuất khẩu thép mạ trong tuần này kèm chiết khấu do nhu cầu tiêu thụ thấp và cạnh tranh gay gắt.

Nhu cầu tiêu thụ từ Bắc Phi vẫn mạnh trong khi Châu Âu trì trệ do tỷ giá dolla- Euro và khủng hoảng tại Trung Đông.

Gía niêm yết HDG 00.5mm trong nước vẫn tương đối bình ổn tại mức 610-650 USD/tấn trong tuần này trong khi giá chào xuất khẩu HDG 0.5mm đạt mức thấp 600-630 USD/tấn FOB kèm chiết khấu, giảm 10 USD/tấn so với tuần trước đó. 

Gía chào xuất khẩu PPGI 9022 0.5mm cũng giảm cùng mức tương tự xuống còn 700-730 USD/tấn FOB kèm chiết khấu trong bối cảnh tiêu thụ thấp và đồng dolla tăng mạnh trong khi giá chào nội địa đạt mức 710-750 USD/tấn FOB.

Dự báo xuất khẩu thép dầm hình H của Nhật sẽ giảm do trượt giá 

Đốm sáng được nhìn thấy khi thép dầm hình H Nhật Bản gần đây xuất hiện như một nhà cung cấp mới trên thị trường thép Châu Á dường như đang nhạt dần do giá mua thấp hơn từ các khách hàng ở nước ngoài. “Các nhà sản xuất muốn bù đắp sự sụt giảm của doanh số trong nước bằng cách xuất khẩu nhưng giá bán ở nước ngoài không hấp dẫn”, đại diện bán hàng từ một nhà sản xuất thép dầm hình H ở miền tây Nhật Bản cho biết hôm thứ Tư.

Xuất khẩu thép dầm hình H của Nhật trong tháng 02 đạt 42.886 tấn, tăng 27% so với tháng 01 và 57% so với năm ngoái, theo Thống kê thương mại Nhật Bản. “Đồng Yên mất giá đã khuyến khích các nhà máy trong nước tích cực xuất khẩu thép dầm hình H nhưng điều này có lẽ đã thay đổi”, một thương nhân ở Tokyo nói.

Đại diện bán hàng từ Yamato Steel ở Himeji cho biết nhà máy của ông gần như không ký được hợp đồng xuất khẩu nào trong tháng này. “Giá mua quá thấp nên chúng tôi không thể chấp nhận”. Giá đặt mua mà Yamato hiện nay đang nhận được cho thép dầm hình H cỡ lớn là khoảng 520-530 USD/tấn FOB, thấp hơn nhiều so với giá trên thị trường hiện tại ở Nhật.

Tại Tokyo, giá bán sỉ dành cho thép dầm hình H cỡ lớn đang phổ biến quanh mức 78.000-79.000 Yên/tấn (650-658 USD/tấn), không đổi so với một tháng trước, còn ở Osaka có giá 75.000-76.000 Yên/tấn, giảm 1.000 Yên/tấn so với tháng 03.

Nhà máy mini hàng đầu Tokyo Steel Manufacturing cho biết hôm thứ Hai rằng tình hình xuất khẩu của công ty đã trở nên trì trệ vì giá đặt mua chỉ ở mức 520-540 USD/tấn FOB cho thép dầm hình H cỡ lớn, giảm 10-30 USD/tấn so với một tháng trước.

“Các nhà máy Nhật hiện đang giữ giá niêm yết trong nước và cố gắng ngăn không cho chúng giảm. Nếu họ đổi ý và chấp nhận mức giá xuất khẩu thấp như vậy thì sẽ dẫn đến giá trong nước cũng sẽ giảm theo”, một thương nhân ở Tokyo cho biết.

Tokyo Steel đã quyết định sẽ duy trì giá bán tháng 05 cho thép dầm hình H, trong khi Nippon Steel & Sumitomo Metal Corp quyết định giữ giá hợp đồng tháng 04 cho loại thép này. Yamato Steel xác nhận hôm thứ Tư rằng công ty cũng không thay đổi giá thép dầm hình đối với những hợp đồng tháng 05. 

Nhu cầu tiêu thụ vẫn tốt nhưng lợi nhuận mỏng tại thị trường thép cuộn Bắc Âu

Nhu cầu tiêu thụ tấm mỏng vẫn đang khởi sắc do bức tranh kinh tế vĩ mô Châu Âu đã cải thiện. Tuy nhiên, trong khi doanh số bán ra tăng thì lợi nhuận các nhà máy vẫn vậy do cung vượt quá cầu.

Một trung tâm dịch vụ cho hay đã tăng trưởng 2 con số về khối lượng bán hàng trong Q1 qua so với cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên, giá bán không cao với giá thị trường dao động từ 400-415 Euro/tấn tùy thuộc vào từng khu vực. Platts vẫn duy trì giá xuất xưởng thép cuộn Ruhr tại mức 407.50 Euro/tấn.

Các nhà máy trung và Đông Âu không chào bán nhiều bằng các nhà máy Bắc Âu do đang được hưởng lợi từ sản lượng thép giảm từ CIS. 

Mặc dù tỷ giá bất lợi, Trung Quốc vẫn vẫn xuất khẩu thép dẹt sang Bắc Âu, chủ yếu là thép tấm và CRC. Tuy nhiên, giá tại Châu Âu bình ổn nhờ đơn hàng mạnh.

HRC Trung Quốc đạt mức 375-380 Euro/tấn CIF Antwerp mặc dù không có nhiều người mua. Một khách hàng Benelux cho biết sẽ tìm kiếm thép từ Trung Quốc trong mấy ngày tới nhưng hy vọng giá bình ổn. 

Các nhà máy Châu Âu hài lòng với doanh số hiện tại nhưng cũng cho biết khối lượng đơn hàng sẽ không cải thiện nếu không có sự vắng mặt của Ilva. Nhà máy này đang ngưng sản xuất tại nhà máy lò cao lớn nhất. Tuy nhiên, Ilva không còn năm vị trí át chủ bài trên thị trường nữa.

Giá HRC Ấn Độ vẫn không đổi do nhu cầu ổn định 

Giá HRC ở Ấn Độ vẫn không đổi trong tuần này do lực cầu ổn định.

Những cơn mưa trái mùa tháng trước ở miền bắc và miền tây Ấn Độ đã gây thiệt hại mùa màng, dẫn đến nhu cầu tấm lợp từ lĩnh vực nông nghiệp suy yếu. Người mua cũng chỉ muốn mua khối lượng nhỏ để dùng ngay. Đại diện một nhà máy ở Delhi cho biết người mua hiện đang do dự mua để tích trữ vì cho rằng giá sẽ giảm thêm nữa.

Chào giá HRC IS 2062 loại A/B dày từ 3mm trở lên, tiếp tục phổ biến quanh mức 30.500-32.000 rupees/tấn (484-508 USD/tấn) xuất xưởng tuần này.

Các nhà máy Ấn Độ sẽ phải đưa ra giá tương đương với hàng nhập khẩu, do người mua từ chối mức giá cao trong nước khi thép nhập khẩu có giá rẻ hơn. “Tuy nhiên, các nhà máy trong nước lại không sẵn sàng bán với giá tương đương với giá nhập khẩu”, một nhà cán lại cằn nhằn, và giải thích lý do vì sao ông lại nhập HRC từ nhiều nước khác nhau trong đó có Trung Quốc và Brazil.

Chào giá HRC S400 dày từ 3mm trở lên loại thương phẩm xuất xứ Trung Quốc tuần này tiếp tục dao động quanh mức 365-375 USD/tấn FOB (400-410 USD/tấn CFR hay 25.182-25.808 rupees/tấn). Mức giá này tương đương 430-441 USD/tấn (trong đó thuế hải quan là 7.5%).

Trong khi đó, HRC kích thước như trên của Nhật đang được chào giá 405-415 USD/tấn CFR và của Hàn Quốc có giá 410-415 USD/tấn CFR, thép của cả hai nước này đều được hưởng mức thuế hải quan dưới 1% nhờ hiệp ước thương mại song phương được ký kết với  Ấn Độ. 

 Nhiều nhà xuất khẩu cuộn trơn Trung Quốc hy vọng giá phục hồi

Giá xuất khẩu cuộn trơn Trung Quốc vẫn còn suy yếu trong tuần này. Tuy nhiên, đà phục hồi của giá giao kỳ hạn thép và quặng sắt của ngày thứ Tư khiến một số nhà xuất khẩu tăng giá lên một chút.

Hôm 22/4, Platts định giá xuất khẩu cuộn trơn SAE1008 đường kính 6.5mm giảm 2 USD/tấn so với tuần trước còn 350-360 USD/tấn FOB. Tương tự, cuộn trơn Q195 đường kính 6.5mm giảm 35 NDT/tấn (6 USD/tấn) so với tuần trước còn 2.270-2.280 NDT/tấn (366-368 USD/tấn) gồm 17% VAT.

Hôm thứ tư, Jiujiang Wire Rod đã nâng giá xuất khẩu cho cuộn trơn chứa bo tuần thứ hai liên tiếp lên 10 NDT/tấn. Nhiều người cho biết việc tăng giá là đúng đắn bởi vì đơn đặt hàng trong nước của nhà máy đang tiến triển tốt.

Do sự gia tăng khiêm tốn, nên một thương nhân Trung Quốc yết chào giá xuất khẩu không đổi so với tuần trước và giữ ở mức 382 USD/tấn FOB cho cuộn trơn chứa bo. Tuy nhiên, một vài nhà máy quy mô nhỏ hơn đang chào giá cao hơn 2 USD/tấn, khoảng 370 USD/tấn FOB, hôm thứ Tư nhờ giá giao kỳ hạn phục hồi.

Một thương nhân khác cho biết hôm thứ Tư rằng ông không biết sắp tới giá sẽ đi đâu. Ông cho hay một vài thương nhân Trung Quốc đang bán khống và gây hỗn độn trong giá thị trường. Ông chào giá tuần trước 377-378 USD/tấn FOB. Tuy nhiên, số khác thì lạc quan hơn vì giá có thể phục hồi vào cuối tháng 04 hay đầu tháng 05, nhờ sự cải thiện của nhu cầu trong nước.

Người mua ở Việt Nam sẵn sàng trả với giá 372-374 USD/tấn CFR (phí vận chuyển 12-14 USD/tấn) cho thép dây chứa bo, nhưng mức này quá thấp để có thể chốt được hợp đồng.

Một nhà máy hàng đầu đang chào bán thép dây chứa cr ở mức 350 USD/tấn FOB, thấp hơn 5 USD/tấn so với giữa tuần trước. Một thương nhân Thượng Hải cho biết ông tin rằng các giao dịch có thể được thực hiện ở mức 345 USD/tấn FOB. Một số nhà xuất khẩu đang chấp nhận đơn đặt hàng với giá 340 USD/tấn FOB cho cuộn trơn chứa cr.

Gía HRC Mỹ bắt đầu chạm đáy 

Gía HRC tại Midwest Mỹ dường như đã bắt đầu chạm đáy quanh mức 440 USD/tấn, do các nhà máy không sẵn lòng giảm giá thêm nữa.

 Platts định giá HRC và CRC bình ổn tại mức 440-450 USD/tấn và 570-590 USD/tấn xuất xưởng Midwest (Indiana).

Một người mua phủ nhận thông tin có giá chào thấp hơn mức 440 USD/tấn từ hai nhà máy khác nhau.

Một nhà máy mini Midwest cho biết phần lớn HRC đạt mức giá 440-450 USD/tấn cho các đơn hàng tới 500 tấn. Gía thép chưa thể tăng lên do thời gian giao hàng vẫn ngắn và chi phí sản xuất tăng. 

 Gía chào xuất khẩu CRC, HRC gặp áp lực nhu cầu tiêu thụ thấp

Gía chào CRC và HRC đã gặp áp lực từ nhu cầu tiêu thụ thấp trong khi vấp phải sự cạnh tranh gay gắt từ CIS và Trung Quốc. Tuy nhiên, do giá phế nhập khẩu tiếp tục tăng trong mấy tuần gần đây đẩy chi phí sản xuất tăng nên các nhà máy không thể cạnh tranh lại với đối thủ được lợi thế từ giá quặng thấp.

Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ bắt đầu chào bán HRC tại mức 395-405 USD/tấn FOB, và CRC đạt mức 515-525 USD/tấn FOB cho các đơn hàng lớn. Tuy nhiên, mặc dù chiết khấu, nhu cầu tiêu thụ thép Thổ Nhĩ Kỳ vẫn thấp, đặc biệt là Châu Âu trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt.

Tuy nhiên, các nhà máy cố gắng duy trì giá chào trong nước bình ổn tại mức 425-440 USD/tấn xuất xưởng đối với HRC và 530-545 USD/tấn xuất xưởng cho CRC. Tuy nhiên do các khó khăn về tiền mặt từ sự thiếu hụt đồng dolla tiếp tục kìm hãm giao dịch và ngăn cản sự phục hồi nhu cầu tiêu thụ.

Gía chào nhập khẩu giá thấp từ CIS cũng tiếp tục gây áp lực cho các nhà máy nội địa. Các nhà máy Ukraina đang chào bán HRC tại mức 375-385 USD/tấn CFR trong khi giá chào từ Nga đạt mức 385-395 USD/tấn CFR. Các nhà máy CIS đang chào bán CRC tại mức 455-470 USĐ/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ.