Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 23/10/2012

Khả năng Nhật hạ giá phế H2 cho Hàn Quốc

Khả năng giá phế H2 của Nhật xuất khẩu sang Hàn Quốc giảm xuống 22.000 Yên/tấn dp các nhà sản xuất thép Hàn Quốc không còn mua hàng nữa.

Hyundai Steel đã mua phế H2 của Nhật trong tuần đầu tiên của tháng 10 với giá 23.500 yên/tấn fon, nhưng tuần rồi đã không còn đả động giao dịch.

Đứng trước nhu cầu yếu kém từ khách hàng Hàn Quốc, các nhà cung cấp phế Nhật Bản đang chuyển hướng nguồn hàng sang các đối tác khác là Trung Quốc và Việt Nam.

 Mỹ chú ý hơn đến thép cây Thổ Nhĩ Kỳ

Các chào bán thép cây Thổ Nhĩ Kỳ sang Mỹ đã tăng lên kể từ tuần trước, một số thương nhân đã chốt hợp đồng giao tháng 12.

Đầu tuần trước, giá thép cây Thổ Nhĩ Kỳ được chốt tại mức 590 USD/tấn cfr Houston nhưng giá chào cuối tuần đã tăng lên 600 USD/tấn cfr Houston.

“Tôi chắc rằng một số người vẫn đạt được mức giá 595 USD/tấn (tuần trước)” một thương nhân cho hay.

Người này đã đặt mua 4.000 tấn từ Thổ Nhĩ Kỳ hồi tuần trước với giá 630 USD/tấn, vận chuyển bằng xe tải, Houston. Ông cũng xác nhận giá tăng 5-10 USD/tấn từ tuần trước và hiện đang đứng ở mức 600 USD/tấn cfr Houston.

Khoảng cách giá chào thép Thổ Nhĩ Kỳ và Mexico, một trong những nguồn cung nhập khẩu chủ yếu của Mỹ, đã được nới rộng trong những tuần gần đây.

Giới thương nhân cho rằng các nhà sản xuất Mexico sẽ buộc phải điều chỉnh giá chào bán. Nguyên liệu tháng 10 và tháng 11 của Thổ Nhĩ Kỳ được khách hàng Mỹ đặt mua rất ít vì hầu hết đều tập trung vào thép của Mexico. Mexico hiện đang chào bán với giá 640-660 USD/tấn, đã bao gồm phí vận chuyển tới Houston.

Tại Platts, thép cây nhập khẩu hiện có giá 555-575 USD/tấn ngắn cif Houston, tương đương với 611-634 USD/tấn.

 

 

Thị trường thép hình Thái Lan yên ắng vì mưa

Thị trường thép hình ở Thái Lan trong những ngày này khá yên ắng do ảnh hưởng bởi mùa mưa, không nhiều giao dịch và giá cả vẫn ổn định.  

Tại Bangkok, thép hình V SS400 50mm*50mm*5mm có giá bán vẫn dao động quanh mức 700-720 USD/tấn (đã gồm VAT).

Ngoài ảnh hưởng bởi thời tiết mưa nhiều, Thái Lan cũng bước vào ngày hội Chulalongkorn (23/10/2012), vì vậy hầu hết các thương nhân tạm thời giữ nguyên giá chào.

Giới kinh doanh trong nước cho rằng giá sẽ không tăng trong ngắn hạn vì mưa còn kéo dài đến cuối tháng 10.   

Mỹ: Giá tấm mỏng tại thị trường giao ngay tăng

 

Giá tấm mỏng giao ngay và hoạt động thu mua tại thị trường Mỹ đã tăng đáng kể sau lần điều chỉnh nâng giá thêm 40 USD/tấn ngắn của một số nhà sản xuất trong nước.

Hầu hết các nhà sản xuất hiện đang chào bán HRC tại mức 600-620 USD/tấn ngắn ngắn, tùy thuộc vào số lượng đặt hàng. Tuy nhiên với mức giá này, họ sẽ không chấp nhận bất kỳ đàm phán nào với khách hàng. Một thương nhân cho biết thậm chí HRC đang được chào bán tại mức 630 USD/tấn ngắn.

“Mức giá HRC 600 USD/tấn dường như đang là mức chuẩn và tôi chắc rằng các đơn đặt mua của các nhà sản xuất nhận được đủ nhiều để cân bằng lại thị trường trong năm nay. Chúng tôi đã đặt mua tuần trước, trước khi giá được điều chỉnh vài ngày. Tuy nhiên chúng tôi không đặt mua nhiều vì nhu cầu thực tế vẫn còn yếu,” một trung tâm dịch vụ nói.

Tuy đợt nâng giá lần đầu thành công là vậy nhưng đa số đều cho rằng thị trường sẽ trở yếu nếu các nhà sản xuất tiếp tục nâng giá thêm nữa. “Tôi cho rằng không phải ai cũng muốn mua nhiều hơn lượng mình cần,” một thương nhân nói.

Tại Platts, HRC và CRC hôm thứ Hai được yết tại mức lần lượt là 600-620 và 720-740 USD/tấn ngắn xuất xưởng.

Đầu tháng 09, giá HRC và CRC tại Platts là 660-680 và 760-780 USD/tấn ngắn. Tuy nhiên giá đã giảm trong những tuần sau đó xuống chốt ngưỡng 570 và 700 USD/tấn ngắn vào đầu tháng này.

 

 

Thổ Nhĩ Kỳ nâng giá tấm mỏng

 

Các nhà sản xuất thép cuộn dẹt (cán phẳng) Thổ Nhĩ Kỳ đang nỗ lực nâng giá thêm 5-10 USD/tấn nhằm bù đắp chi phí cao hơn. Hơn nữa giá HRC nội địa cũng đang ở mức thấp hơn so với thép cây. Nhu cầu thị trường tuần này khá yếu do sắp đến lễ Eid (24/10-30/10). Tuy nhiên lực mua có thể tăng trở lại sau lễ.

Các nhà sản xuất Thổ Nhĩ Kỳ đang chào HRC với giá 570-575 USD/tấn xuất xưởng nhưng có thể chấp nhận mức 540-550 USD/tấn xuất xưởng nếu khách hàng đặt mua với số lượng lớn. Hiện tại các nhà sản xuất đang nhắm đến mức giá 575-580 USD/tấn xuất xưởng.

Giới thương nhân tin rằng nhu cầu sẽ tăng lên và ngăn chặn khả năng giá giảm sau lễ. Tuy nhiên một số ít cho rằng các nhà sản xuất và nhà dự trữ sẽ giảm thiểu lượng tồn trong tháng 11 và tháng 12, điều này có thể ảnh hưởng đến giá bán.

 

Chào bán phôi thanh CIS sẽ tăng sau lễ EID

 

Các chào bán xuất khẩu phôi thanh CIS rất hiếm do hầu hết các nhà tham gia thị trường đang có xu hướng chờ đến khi kết thúc lễ Eid vào tuần tới trước khi chào bán trở lại các hợp đồng giao tháng 11 và tháng 12.

“Một số nhà sản xuất đã chốt hợp đồng tháng 11 do đó thị trường những tuần rồi khá trầm lắng. Số khác tỏ ra khá lạc quan và tin rằng giá sẽ tăng sau khi khách hàng quay trở lại thị trường vào tuần tới,” một nhà kinh doanh cho hay.

Phôi thanh kích thước trung bình hiện đang được chốt tại mức 510 USD/tấn fob Biển Azov, thanh toán trước khoảng 30%, tuy nhiên thông tin này chưa được giới thị trường xác nhận.

Tại Platts, giá phôi thanh được điều chỉnh tăng 2 USD/tấn lên 507 USD/tấn fob Biển Đen hôm thứ Sáu tuần trước do chào bán từ Thổ Nhĩ Kỳ đang tiến tới mốc 530 USD/tấn fob, hơn nữa việc hạn chế bán ra của CIS cũng hỗ trợ đáng kể niềm tin thị trường.

Một số khách hàng đã tạm ngưng các giao dịch để tận hưởng kỳ nghĩ lễ Eid, một số khác cũng muốn chờ thêm thời gian trước khi đặt mua, trong khi đó nhu cầu từ Trung Đông và Địa Trung Hải không đáng kể. Tuy nhiên lượng phôi tồn trên thị trường hiện đang ở mức tương đối chứ không phải là quá cao.

Niềm tin vẫn lạc quan do giá phế liệu đang tăng lên. “Mùa đông sắp đến và được dự đoán là sẽ lạnh hơn so với năm ngoái. Công tác vận chuyển sẽ gặp nhiều khó khăn và chắc chắn giá phế liệu sẽ bị đẩy lên,” một thương nhân dự đoán.

 

 

Giá phế tại miền đông Trung Quốc tăng 16-24 USD/tấn tuần này

Các nhà máy ở miền đông Trung Quốc đã nâng giá thu mua phế vài ngày qua nhằm nỗ lực đảm bảo nguồn cung, nhưng có vẻ như giá sẽ không tăng thêm nữa trong ngắn hạn.

Tại Giang Tô, nhà sản xuất Shagang Group nâng giá thu mua thêm 130 NDT/tấn, theo đó phế HMS 6mm lên 2,650 NDT/tấn (424 USD/tấn) giao đến tận nhà máy và đã gồm VAT 17%.

Các nhà sản xuất khác là Suzhou Steel cũng nâng giá thu mua phế 150 NDT/tấn còn Xingcheng Special Steel và Wuxi Xuefeng Iron & Steel cùng nâng giá 100 NDT/tấn lên 2.740 NDT/tấn, 2.680 NDT/tấn và 2.700 NDT/tấn.

Như vậy, phế HMS (>6mm) tại Giang Tô đầu tuần này có giá bình quân đã cao hơn 50 NDT/tấn so với cuối tuần trước với mức dao động 2.650-2.750 NDT/tấn, đã gồm VAT.

 Shagang giữ giá xuất xưởng thép cây cuối tháng 10

Nhà máy thép cây Shagang ở miền bắc Trung Quốc quyết định không điều chỉnh giá thép cây xuất xưởng cuối tháng 10 nhưng sẽ nâng giá cuộn trơn 30 NDT/tấn (5 USD/tấn).

Như vậy, Shagang quyết định giữ giá thép cây HRB400 16-25mm giao 10 ngày cuối tháng này ở mức 3.950 NDT/tấn (626 USD/tấn) sau khi nâng giá tổng cộng 150 NDT/tấn trong 20 ngày đầu tháng. Riêng với cuộn trơn Q235 6.5mm giá được điều chỉnh tăng lên 3.830 NDT/tấn trong những ngày cuối tháng. Tất cả đã bao gồm VAT 17%.

Tại Hàng Châu, sản phẩm thép cây HRB335 16-25mm của Shagang đã tăng 80 NDT/tấn kể từ nửa cuối tuần rồi và kết thúc ở mức 3.820 NDT/tấn trong ngày thứ Sáu. Giá từng chạm mức cao nhất 3.850 NDT/tấn vào ngày 10/10/2012 trước khi xuống trở lại.

Các nhà sản xuất lớn khác trong khu vực như Yonggang and Zhongtian Iron & Steel cũng đã có quyết định tương tự như Shagang giữ giá xuất xưởng thép cây không đổi những ngày cuối cùng của tháng 10, đúng như kỳ vọng của các nhà kinh doanh sau khi cân nhắc kỹ về triển vọng thị trường.

 Thép cây miền bắc Trung Quốc tăng nhẹ

Bất chấp giá thép cây trên thị trường giao dịch kỳ hạn tăng mạnh trong ngày đầu tuần, nhưng giá thép cây trên thị trường giao sau tăng rất nhẹ vì các nhà kinh doanh không muốn mạo hiểm chạy theo trong bối cảnh nhu cầu yếu kém như hiện nay.

Theo đó, thép cây HRB400 18-25mm sau khi tăng 20-30 NDT/tấn trong ngày thứ Sáu cuối tuần tiếp tục tăng thêm 10-30 NDT/tấn nữa trong ngày thứ Hai đầu tuần và đang dao động quanh mức 3.700-3.720 NDT/tấn (591-595 USD/tấn), đã bao gồm 17% VAT trong ngày thứ Hai đầu tuần.

Việc giá cả trên thị trường giao ngay tăng với biên độ nhẹ là vì các thương nhân sợ nếu tăng quá nhiều sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho nhà máy Hegang nâng giá xuất xưởng cuối tháng 10 mà dự kiến sẽ công bố trong tuần này. Thương nhân không muốn mua với giá cao từ nhà máy vì sức mua không tốt.

Trên thị trường giao sau, thép cây giao kỳ hạn tháng 5/2013 chốt phiên đầu tuần tăng 2,22% lên 3.732 NDT/tấn.   

Thị trường HRC mất kiểm soát đầu tuần

Thị trường thép cuộn cán nóng Trung Quốc mất kiểm soát trong ngày thứ Hai đầu tuần với giá cả tăng-giảm hỗn độn.

Tại Thượng Hải, một số thương nhân vẫn cố giữ giá HRC Q235 5.5mm ổn định như ngày thứ Sáu tuần trước ở mức 3.780 NDT/tấn (604 USD/tấn), nhưng một số khác lại điều chỉnh giảm 10-20 NDT/tấn xuống 3.750-3.760 NDT/tấn để đẩy mạnh doanh số bán. Trong khi đó ở khu vực Lecong (Quảng Đông), thương nhân lại nâng giá 20 NDT/tấn lên 3.800-3.830 NDT/tấn. Tất cả đã bao gồm VAT.

Thị trường bấn loạn trước những quyết định trái chiều từ thương nhân. Người giảm giá thì cho rằng lực mua đầu cơ đã kết thúc, trong khi lượng cung hàng tại các thị trường đang tăng lên. Còn người tăng giá thì cho rằng giao dịch vẫn rất tốt kể từ cuối tuần rồi và thị trường giao ngay cũng đang nhận được hậu thuẫn từ xu hướng giá lên của thị trường giao sau.   

Bằng chứng là lượng hàng tồn tại Lecong đã giảm 10.000 tấn trong tuần rồi xuống còn 730.000 tấn.

 Sản lượng HRC Trung Quốc giảm nhẹ trong tháng 9

Sản lượng thép cuộn cán nóng HRC theo ngày của Trung Quốc tiếp tục giảm trong tháng 9, nhưng mức độ đã chậm hơn. Các nhà tham gia thị trường tin rằng hầu hết việc bảo trì hàng năm ở các nhà máy đã hoàn tất và giá thép tăng gần đây đã khuyến khích sản xuất gia tăng trở lại trong tháng 10 này.

Theo số liệu từ Cục thống kê quốc gia, Trung Quốc sản xuất được 13.257 tấn thép băng và tấm cán nóng trong tháng 9, tương đương 441.900 tấn/ngày, giảm 1,4% so với tháng 8.

Tangshan Iron & Steel, Jinan Iron & Steel và Shougang Jingtang Iron & Steel tất cả đều đã tiến hành bảo trì các nhà máy cán băng trong tháng 9, dẫn đến thất thoát một lượng 600.000 tấn HRC. Còn trong tháng 10 này cũng mới chỉ nghe duy nhất một nhà máy là Chongqing Iron & Steel tiến hành bảo trì nhà xưởng, ước tính sản lượng HRC bị cắt giảm vào khoảng 150.000 tấn.

Một thương nhân ở miền nam Trung Quốc cho hay, nhà sản xuất Liuzhou Iron & Steel đã khôi phục sản thường trở lại sau khi đưa lò đốt số 5 vào hoạt động từ giữa tháng 10 sau hơn hai tháng bảo trì.

 Tokyo Steel hạ giá thép ống vuông tháng 11

Nhà sản xuất Tokyo Steel Manufacturing của Nhật cho biết sẽ hạ giá xuất xưởng thép ống vuông giao tháng 11, nhưng sẽ duy trì không đổi các sản phẩm thép còn lại.

Như vậy, ống vuông khổ cơ bản 200x200mm, dày 6mm được hạ 4.000 Yên/tấn (51 USD/tấn) xuống mức 67.000 Yên/tấn (848 USD/tấn) và thép ống có độ dày khác được hạ từ 2.000-5.000 Yên/tấn. Duy nhất chỉ có một sản phẩm thép ống 150-175mm, dày 4.5-12mm được nâng giá 9.000 Yên/tấn lên 80.000 Yên/tấn (1.013 USD/tấn). Việc nâng giá sản phẩm thép ống 150-175mm là do giá bán hiện tại không thêm bất kỳ một loại phí nào.

Tại Tokyo, thép ống vuông STKR400 200x200mm, dày 6mm của Tokyo Steel được thương nhân bán với giá 100.000 Yên/tấn (1.266 USD/tấn).

Ông Kiyoshi Imamura-Giám đốc điều hành của Tokyo Steel nói công ty sẽ giữ nguyên các sản phẩm thép khác không thay đổi trong tháng 11. Chúng tôi không giảm giá bán để nhanh chóng bán được hàng mà cái chúng tôi ưu tiên là lợi nhuận. Trong tháng 9 Tokyo Steel sản xuất 190.000 tấn thép và trong tháng 10 này dự kiến sản lượng sẽ giảm xuống 180.000 tấn.

 
Giá xuất xưởng tháng 11 của Tokyo Steel
   
 
  yên (¥)/tấn USD($)/tấn ¥/t
thay đổi
H-beams(senior) ¥68,000 $861 ¥0
Dầm hình H(200x150mm) ¥71,000 $899 ¥0
Thép hình U(100x150mm) ¥67,000 $848 ¥0
  ¥77,000 $975 ¥0
Thép cây (13-25mm) ¥54,000 $684 ¥0
HRC(1.7-22mm) ¥57,000 $722 ¥0
P&O coil(1.7-6mm) ¥60,000 $759 ¥0
HDG(0.6mm) ¥77,000 $975 ¥0
Ống vuông (200x200mm,6mm) ¥67,000 $848 -¥4,000
Thép tấm (9-40mm) ¥62,000 $785 ¥0