Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 24/02/2014

Giá thép cuộn không gỉ Châu Á không đổi do giá bán và mua đưa ra khác nhau

Giá thép cuộn cán nguội không gỉ loại 304 2B dày 2mm xuất xứ Đông Á không đổi trong ngày thứ sáu tuần trước so với tuần trước đó và duy trì khoảng 2.350-2.400 USD/tấn CFR tại các cảng Đông Á do những kỳ vọng giá giữa người mua và người bán tiếp tục khác nhau.

Các chào giá thép cuộn từ Hàn Quốc và Đài Loan nghe nói lần lượt khoảng 2.400-2.430 USD/tấn CFR và 2.400-2.450 USD/tấn CFR trong tuần trước, cả hai đều không đổi so với tuần trước đó. Nhiều thương nhân cho biết khách hàng chỉ muốn mua với giá thấp hơn nhiều so với chào giá của họ, trong khi chính bản thân các thương nhân cũng khó nhận được khoản chiết khấu do các nhà máy không hạ giá bán.

“Các khách hàng của chúng tôi chỉ quan tâm liệu giá có dưới mức 2.300 USD/tấn CFR Trung Quốc hay không. Nhưng nhiều nhà sản xuất không sẵn lòng hạ chào giá xuống dưới 2.400 USD/tấn CFR do chi phí sản xuất cao”, một thương nhân Hong Kong nói. Ông nhấn mạnh rằng một số người tiêu dùng Trung Quốc đang chọn mua hàng trong nước thay cho hàng nhập khẩu vì giá thép không gỉ của nước này vẫn bình ổn sau Tết.

Một thương nhân ở Đài Bắc cho biết các khách hàng của bà đang đặt mua với giá 2.300-2.350 USD/tấn CFR Châu Á nhưng bà lưỡng lự hạ chào giá xuống dưới 2.400 USD/tấn CFR vì “giá niken đã một lần nữa tăng trở lại trong tuần này và không chắc các nhà máy sẽ điều chỉnh giá của họ như thế nào trong tuần tới”, bà nói.

Một thương nhân ở miền nam Kaohsiung đã chào giá 2.450 USD/tấn CFR Đông Nam Á trong tuần trước, và chỉ sẵn lòng bán ở mức giá thấp hơn 10 USD/tấn mà thôi. “Nhiều nhà máy hiện nay dự tính sẽ nâng giá lên trong tuần tới và chúng tôi đã đi trước đón đầu thông báo của các nhà máy” ông nói.

Các nhà sản xuất Hàn Quốc và Đài Loan được cho là sẽ yết giá tháng 03 trong tuần này.

 

Nisshin Steel nâng giá tôn và thép ống không gỉ trong nước

Nisshin Steel Holdings đã quyết định sẽ nâng giá CRC, HRC và thép ống không gỉ áp dụng cho các lô hàng giao tháng 04 để bù đắp chi phí cao hơn vì giá trị đồng Yên Nhật suy yếu và ferrochrome lên giá.

Nisshin Steel sẽ tăng thêm 10.000 Yên/tấn (98 USD/tấn) vào giá cơ bản của thép cuộn và thép ống austenite, ngoài ra cũng tăng 5.000 Yên/tấn cho loại thép ferrite, áp dụng cho cả hàng giao ngay và các hợp đồng giao sau. Có khoảng 2/3 khách hàng mua các sản phẩm thép austenite của nhà máy là mua giao sau trong những ngành công nghiệp như sản xuất xe hơi, máy móc và thiết bị- và 80-90% trong số này là đặt mua thép ferrite.

Lần tăng giá cuối cùng của Nisshin là hồi tháng 06/2013, lần đó nhà máy đã tăng 20.000 Yên/tấn cho các sản phẩm austenite và 10.000 Yên/tấn đối với thép ferrite.

“Yên Nhật đã suy yếu và giá ferrochrome tăng nên chúng tôi cần các khách hàng hiểu và thông cảm cho việc nâng giá lần này”, phát ngôn viên Nisshin nói. “Gã khổng lồ” trong ngành thép không gỉ đã không tính thêm các chi phí khác trong lần tăng giá này như giá điện được cho là sẽ tăng trong tháng 04 và vì vậy dự báo sẽ sớm có thêm một đợt tăng giá nữa.

Nisshin không tiết lộ giá niêm yết nhưng theo các nguồn tin xác nhận giá trên thị trường hiện nay của tôn cán nguội loại 304 dày 2mm tại Tokyo khoảng 310.000 Yên/tấn (3.069 USD/tấn), tăng 10.000 Yên/tấn trong tháng qua và tôn cán nguội loại 430 có giá quanh mức 240.000 Yên/tấn. Như đã đưa tin, nhà sản xuất hàng đầu thị trường, Nippon Steel & Sumikin Stainless cũng đã nâng giá bán trong nước của họ lên thêm 35.000 Yên/tấn cho CRC austenite và 30.000 Yên/tấn đối với CRC ferrite áp dụng cho các hợp đồng từ tháng 11.

Nisshin đã sản xuất được 540.000 tấn thép thô không gỉ từ tháng 04 đến tháng 12 tại xưởng ở Kinuura, miền trung Nhật Bản và xưởng Shunan thuộc phía tây nước này. Còn Shunan sản xuất được khoảng 65% tổng sản lượng của 9 tháng. Nisshin lên kế hoạch sẽ sản xuất tổng cộng 190.000 tấn trong quý này.

 

Giá quặng sắt quay đầu giảm sau đợt tăng ngắn ngủi

 

Giá giao ngay của quặng sắt nhập khẩu đã không thể duy trì được đà tăng trong tuần trước, do bị sức ép bởi hàng tồn kho ngoài cảng còn nhiều và tin tức hợp đồng được bán với mức giảm giá rộng hơn.

Platts định giá Iron Ore Index 62% Fe thấp hơn 1,5 USD/dmt so với tuần trước đó tại 122 USD/dmt CFR miền bắc Trung Quốc, sau khi bật tăng lên 124,5 USD/dmt vào đầu tuần trước. Giá tham khảo tại TSI của loại quặng này vào cuối tuần là 122,4 USD/dmt CFR Thiên Tân, giảm 0,8 USD/dmt so với thứ sáu tuần trước đó.

Rio Tinto đã tìm kiếm để bán một lô quặng cám Pilbara Blend 61% Fe kể từ thứ tư vì sức mua suy yếu và cuối cũng đã thương lượng trong một cuộc đấu thầu tại mức giá 121,89 USD/dmt CFR Thanh Đảo hôm thứ sáu.

“Dường như là sự phục hồi đầu tuần này đã không được sự hỗ trợ bền vững”, một nhà máy ở Hà Bắc nói. Tín dụng vẫn thắt chặt, nguồn cung quặng dư thừa và  lợi nhuận ngành thép không cải thiện đáng kể. Giá giao ngay của phôi vuông tại Đường Sơn, tỉnh Hà Bắc đã tăng thêm 40 NDT/tấn so với tuần trước đó lên 2.880 NDT/tấn xuất xưởng.

Giá quặng được bán dưới hình thức các hợp đồng dài hạn cũng phải chịu sức ép. Nhà xuất khẩu quặng sắt lớn thứ ba của Australia, Fortescue Metals Group, đã thông báo với các khách hàng trong tuần này rằng họ sẽ nâng mức chiết khấu cho quặng cám Fortescue Blend và Fortescue Blend giao tháng 03.

Quặng cám Fortescue Blend sẽ được bán với mức chiết khấu 2% cho mỗi đơn vị dmt- cao hơn so với 1,5% của tháng 02. Quặng cám Super Special sẽ tăng mức giảm giá từ 4% lên 5%, nguyên nhân chủ yếu là do hàng tồn tại các cảng Trung Quốc còn nhiều.

 

Giá nhập khẩu FeCr vào Trung Quốc không đổi trong bối cảnh thiếu sự quan tâm của người mua

Hôm thứ sáu, giá giao ngay của ferrochrome hàm lượng cacbon cao (58-60% Cr) xuất xứ Ấn Độ và quặng chrome (48-52% Cr) từ Nam Phi được chốt lần lượt tại 84-86 cents/lb CIF và 84-85 cents/lb CIF Trung Quốc, cả hai giá này đều không đổi so với tuần trước đó, trong bối cảnh rất ít người mua.

Tuần trước, các giao dịch ferrochrome Ấn Độ chủ yếu được hiện với giá 84-85 cents/lb CIF. Một thương nhân Thượng Hải cho biết vẫn có chào giá giữ nguyên mức 86 cents/lb CIF mặc dù không có hợp đồng nào được ký kết. Nhiều người cho biết mức giá này có thể được giao dịch đối với ferrochrome có hàm lượng phot pho và silic thấp hơn. Không có giao dịch quặng chrome nào được nghe nói nhưng các nguồn tin đã chốt giá có thể giao dịch tại 84-85 cents/lb CIF.

Sự quan tâm đối với hàng nhập khẩu trong tuần trước rất ít do một số người mua muốn chờ cho các nhà sản xuất thép không gỉ lớn ở Trung Quốc đưa ra giá mua tháng 03, trong khi số khác không hứng thú trong việc thu mua vì dự đoán giá có thể sẽ giảm thêm nữa.

Các nhà quan sát trong ngành dự báo rằng giá mua tháng 03 của các nhà sản xuất có thể được giữ nguyên không đổi hay giảm so với tháng 02. Các nhà sản xuất thường đưa ra giá mua hàng tháng của họ vào hai tuần cuối của tháng trước đó, giá trên thị trường giao ngay thường có trước sau đó mới có những đợt điều chỉnh lại giá.

Tuy nhiên, nhiều nhà sản xuất cho biết họ nhận thấy giá nhập khẩu không thể giảm do chi phí sản xuất cao. “Giá bán tại 85 cents/lb chỉ đủ bù đắp chi phí của chúng tôi mà thôi. Chúng tôi hiện còn không nghĩ đến lợi nhuận ở mức giá này”, một nhà cung cấp người Ấn Độ nói, ông nhấn mạnh rằng giá quặng chrome ở Ấn Độ đắt hơn. Những người này cũng chỉ ra sự bất ổn của sản lượng ở Nam Phi do vẫn còn các rắc rối về vấn đề cung cấp điện ở đó.

 

Phế Mỹ xuất khẩu sang Thổ Nhĩ Kỳ tăng xoa dịu niềm bi quan giảm giá

Một sự gia tăng mạnh về sản lượng phế Ferrite Mỹ xuất khẩu sang Thổ Nhĩ Kỳ cùng với xu hướng tăng nhẹ của giá phế xuất khẩu tuần này đã xoa  dịu tâm lý bi quan về giá suy yếu trong tháng 3.

Hơn 12 lô hàng phế đã được đặt mua bởi các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ từ các nhà xuất khẩu phế Mỹ trong tháng 2 đã giúp giảm hàng tồn kho tại Bờ Biển Đông. Gía bán phế HMS I/II (80:20) sang Thổ Nhĩ Kỳ giảm mạnh trong tháng 2, từ  380 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ còn dưới 350 USD/tấn đầu tuần này, tuy nhiên, trong 2 ngày thứ 5 và thứ 6, giá có xu hướng tăng nhẹ trở lại lên trên mức 350 USD/tấn CFR.

Một lượng lớn hàng tồn tại các Vịnh Mỹ đã được tiêu thụ. Điều này chắc chắn sẽ tạo nền tảng cho cả giá nội địa lẫn xuất khẩu trong tháng 3.

Cách đây 1 tuần, dự báo giá phế Ferrote Mỹ giảm khoảng  40 USD/tấn dài , tuy nhiên, bây giờ các nguồn tin đồng tình rằng giá chỉ sẽ giảm tầm 15-20 USD/tấn dài.

Giá phế vụn Mỹ theo Platts trong ngày 21/2 là 403-407 USD/tấn dài giao tại Midwest.

 

Giá HRC Mỹ lại giảm, dự báo thời kỳ suy yếu

Giá HRC Mỹ cuối tuần qua lại giảm do người mua và người bán đều báo cáo rằng các mức giá thấp hơn đã xâm chiếm thị trường.

Giá HRC đã giảm còn 640 USD/tấn ngắn và mức giá 660 USD/tấn ngắn không còn tồn tại nữa.

Một người mua tại Midwest cho hay hai nhà máy EAF đang chào bán HRC tại miwcs 630 USD/tấn ngắn trong khi  số khác nỗ lực giữ giá ở mức 650 USD/tấn ngắn đối với các đơn hàng đầu tuần.

Giá giảm là không thể bàn cãi, tuy nhiên, một số người dự báo giá này có thể đã chạm đáy.

HRC giao dịch tại Midwest là 640 USD/tấn ngắn trong khi giá bán CRC vẫn cao.

Platts hạ giá HRC xuống 640-650 USD/tấn ngắn trong khi CRC vẫn ở mức 760-770 USD/tấn ngắn xuất xưởng Midwest.

Platts đưa tin về việc một giao dịch 30.000 tấn HRC đầu tuần này được chốt ở mức 580 USD/tấn ngắn từ một nhà máy EAF.

Các nhà máy cũng cảnh giác về giá thấp trên thị trường. Nhiều nhà máy tìm cách chốt đơn hàng tại mức giá thấp để có thể thúc đẩy doanh số bán trong Qúy 1. Tình trạng này diễn ra rất phổ biến trong 5 tuần trở lại đây. 

Giá chào mua gang thỏi thấp khiến thị trường trì trệ

Thị trường xuất khẩu gang thỏi CIS tiếp  tục trì trệ trong tuần qua do người mua tiếp tục hạ giá dự thầu xuống trong khi người bán vẫn kiên quyết giữ giá.

Một lô hàng gang thỏi sản xuất trong tháng 3 từ Ukraina được chốt tại mức 370 USD/tấn FOB Biển Azov thanh toán trước một phần. Lô hàng này được mua bởi một thương nhân để bán lại cho các nhà cán lại và khách hàng khác tại Thổ Nhĩ Kỳ.

Tuy nhiên, mối quan tâm mua hàng từ Ý và Thổ Nhĩ Kỳ đã giảm đáng kể so với tuần trước, với dự báo giá mua từ Ý hiện chỉ 400 USD/tấn CFR Marghera trong khi Thổ Nhĩ Kỳ chỉ ở mức thấp 380 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ. Gía phế cũng tiếp tục suy yếu ảnh hưởng tới giá gang thỏi. Gía chào mua phế Thổ Nhĩ Kỳ là 360 USD/tấn CFR trong tuần này, vẫn thấp hơn giá chào mua gang thỏi 20 USD/tấn.

Một nhà xuất khẩu Ukraina khác đang đàm phán lô hàng bán sang Mỹ tại giá chào 402 USD/tấn CIF NOLA. Tuy nhiên, giá chào từ Braxin trên mức 400 USD/tấn CIF.

Theo nguồn tin cho hay, giá bán từ các nhà xuất khẩu lớn của Nga theo giá FOB Biển Bantich thấp hơn mức cách đó 10 ngày tầm 10 USD/tấn. Sự mất giá của đồng nội tệ có thẻ xem là nhân tố có lợi do nó giúp các nhà máy hạ giá chào bán xuất khẩu trên danh nghĩa.

Giá gang thỏi FOB Biển Đen theo Platts giảm 3 USD/tấn, còn 370 USD/tấn FOB Biển Đen. 

Giá thép cây Maxcova bình ổn, các nhà máy tìm cách tăng giá

Các nhà máy thép cây CIS đang tìm cách tăng giá thép tháng 3 thêm ít nhất 1.000 Rub/tấn (28 USD/tấn) so với tháng trước để bù đắp tổn thất từ giá giảm do nguồn cung quá mức và sự cạnh tranh gay gắt giữa các nhà máy cuối 2013 đầu 2014.

Hệ quả của việc đồng Rub mất giá cộng với nguồn cung tăng từ việc tăng sản xuất của  NLMK Kaluga đã khiến giá CPT Maxcova giảm tới 1.000 Rub/tấn (30 USD/tấn), 6% từ tháng 11 tới tháng 1, từ mức 17.850 Rub/tấn xuống 16.790 Rub/tấn. Nếu tính bằng đồng USD, giá đã giảm 50 USD/tấn hoặc 9% từ mức 540 USD/tấn xuống mức 490 USD/tấn.

Một nguồn tin cho hay, vấn đề cần thiết bây giờ là cắt giảm sản xuất. Nếu cung cầu cân bằng, giá thép cây 12-14mm tháng 3 sẽ vượt mức 21.000 Rub/tấn (588 USD/tấn) đã gồm 18% VAT, hoặc 18.000 Rub/tấn (504 USD/tấn) chưa tính VAT.

Tuy nhiên, các mức giá trên dường như vẫn chưa thể đạt được cho tới giữa tháng 3, và hiện tại thép cây vẫn được bán tại mức 20.400-20.450 Rub/tấn (571-573 USD/tấn) đối với loại 12mm và 20.000-20.050 Rub/tấn (560-562 USD/tấn) đối với loại 14mm đã tính VAT. Platts vẫn duy trì giá thép cây tại mức cố định 17.000-17.300 Rub/tấn (476-485 USD/tấn) CPT Maxcova.

Tuy nhiên, khi tính bằng đồng USD, giá bỏ VAT giảm tới 15 USD/tấn so với tuần trước đó dựa vào sự mất giá của đồng Rub. Tỷ giá USD: Rub đã xuống còn 35.8 Rub: 1USD  trong ngày 21/2 từ mức 35.1 ngày 14/2. 

Giá xuất khẩu thép cuộn CIS giảm nhẹ

Trong tuần qua, giá xuất khẩu thép cuộn CIS giảm nhẹ . Các nhà máy hầu như đã chốt sổ nhận đơn hàng giao tháng 3 hoặc hoàn thiện vài đầu tuần này. Nhà máy Magnitogorsk Iron & Steel Works (MMK) đã bán hết hàng tháng 3 và đang chuẩn bị cho sản lượng tháng 4 nhưng vẫn chưa công bố bảng giá. Trong khi đó, triển vọng thị trường không khả quan lắm do sự trì trệ tại thị trường xuất khẩu thép cuộn Trung Quốc và sự suy yếu ở Châu Âu.

MMK cho biết đã bán được HRC tháng 3 tại mức bình quân 540 USD/tấn (393 Euro/tấn) FOB Biển Đen trong tuần qua trong khi CRC là 610 USD/tấn. Trong khi đó, một nguồn tin cho hay MMK có thể bán với giá 535 USD/tấn.

Metinvest Ukraina vẫn giao dịch bình thường  trong tuần qua và dự báo vẫn vòn nhận đơn hàng giao tháng 3 trong tuần này. Gía của nó đã giảm 5-10 USD/tấn so với tháng trước. Metinvest muốn bán tại mức giá 520 USD/tấn FOB nhưng có thể sẽ phải hạ xuống 5 USD/tấn. Trong khi đó, CRC đạt mức 580 USD/tấn FOB.

Trong ngày 21/2, Platts hạ giá thép cuộn FOB Biển Đen xuống 5 USD/tấn, còn 520 USD/tấn đối với HRC và 595 USD/tấn với CRC. 

Thị trường thép ống đúc Trung Quốc tiếp tục suy yếu, giá không đổi 

Hoạt động giao dịch thép ống đúc Trung Quốc ở trong nước đang dần hồi phục sau Tết nhưng vẫn còn chậm chạp trong tuần trước. Giá giao ngay của thép ống đúc tại thị trường bán lẻ Thượng Hải về cơ bản thì vẫn ổn định nhưng niềm tin nhìn chung còn yếu do nhiều người dự báo thị trường có thể tiếp tục trì trệ từ đây cho đến tháng 03.

Hôm thứ sáu, thép ống 20# 219x6mm (GB/T 8163) được sản xuất từ các nhà máy ở Thượng Hải chốt tại 4.200 NDT/tấn gồm VAT 17%, không đổi so với tuần trước.

Thị trường giao ngay sẽ theo sát xu hướng của các nhà máy thép ống ở miền đông nước này cho đến hết tháng 02. Do cầu yếu, các nhà máy thép ống ở thành phố Lâm Nghi, tỉnh Sơn Đông không thể tăng giá xuất xưởng của họ được, mặc dù một số dự kiến sẽ nâng giá thép tròn đặc ở trong nước lên chút ít.

“Thị trường thép ống đúc khó mà có sự phục hồi rõ rệt trong một sớm một chiều, thậm chí là cho đến tháng 03”, một nhà máy ở miền trung dự báo một cách bi quan. “Ít nhất, chúng tôi đã không thấy bất kỳ tín hiệu nào cho thấy sự phục hồi trong số lượng các đơn đặt hàng của mình”, ông nói.

Tuy nhiên, một số nhà sản xuất thép tròn đặc ở miền đông đã phát đi các tín hiệu trái chiều về giá xuất xưởng của họ cho thép tròn đặc từ ngày 21-28/02.

Cụ thể hôm 11/02, Zenith Steel Group và Changqiang Iron & Steel, ở tỉnh Giang Tô, đã thông báo sẽ giữ giá thép tròn đặc 20# không đổi lần lượt tại 3.680 NDT/tấn (604 USD/tấn) và 3.630 NDT/tấn (596 USD/tấn) xuất xưởng đã có VAT. Cùng ngày, Huaigang Special Steel đã giảm giá xuất xưởng xuống 60 NDT/tấn (10 USD/tấn) còn 3.680 NDT/tấn gồm VAT. 

Nhà máy Erdemir tiếp tục  cắt giảm giá mua phế trong nước do hàng nhập khẩu giá rẻ

Nhà máy tích hợp lớn nhất Thổ Nhĩ Kỳ, Erdemir tiếp tục hạ giá thu mua phế DKP tính bằng đồng Lira vào cuối tuần qua do giá phế nhập khẩu giảm. Gía thu mua mới của nhà máy này là 830 TRY/tấn (381 USD/tấn), giảm 25 TRY/tấn so với giá mua trước.

Các nhà máy khác cũng hạ giá mua kể từ đầu tháng 2. Tại thị trường trong nước, giá mua hiện tại là 785-855 TRY/tấn (360-390 USD/tấn).

Trước đó, nhà máy Kerdemir cũng đã giảm giá mua xuống 855 TRY/tấn (390 USD/tấn) trong ngày 11/2. Nhà máy lớn khác Colakoglu cũng giảm giá mua trong ngày 14/2 còn 785 TRY/tấn (360 USD/tấn) trong khi Asil Celik tiếp tục giảm còn 800 TRY/tấn (368 USD/tấn ).

Trong tuần qua, giá phế tàu Thổ Nhĩ Kỳ cũng giảm thêm nữa. Gía mua của Ozkan và Ege Celik là 355 TRY/tấn, trong khi phế nóng chảy từ xác tàu thuyền được chào tới các nhà máy khác tại Tây Thổ Nhĩ Kỳ gồm IDC, Cebitas, Habas đạt mức thấp 350 USD/tấn. Tất cả đều thấp hơn đầu tháng 2 khoảng 30 USD/tấn.

Shagang giảm giá thép cây xuống 8 USD/tấn cho các giao dịch cuối tháng 02 

Shagang, nhà sản xuất thép hàng đầu của tỉnh Giang Tô, miền đông Trung Quốc, đã giảm giá thép cây xuống 50 NDT/tấn (8 USD/tấn) từ ngày 21-28/02. Lần giảm giá gần đây nhất của nhà máy này là vào ngày 11/01 và họ đã giữ giá không đổi kể từ đó.

Sau khi điều chỉnh, giá xuất xưởng của Shagang đối với thép cây HRB400 đường kính 16-25mm còn 3.410 NDT/tấn (560 USD/tấn) gồm VAT 17%. Nếu các đại lý của những nhà máy đáp ứng đủ mức đặt hàng theo kế hoạch tháng họ sẽ nhận được khoản chiết khấu 50 NDT/tấn dành cho các đơn đặt hàng trong 20 ngày đầu tiên của tháng 02.

Tuy nhiên, Shagang đã giữ giá cuộn trơn HPB300 không đổi tại 3.390 NDT/tấn có VAT.

Việc giảm giá thép cây của Shagang cho thấy giá giao ngay thấp hơn. Một thương nhân ở thành phố Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang nói rằng giá giao ngay đã chạm đáy khoảng 3.270-3.280 NDT/tấn trong tuần trước, sau đó tăng lên cỡ 3.370 NDT/tấn trong tuần này. Giá trước Tết dao động quanh 3.400 NDT/tấn.

Ông này cho biết giá giảm sau Tết là do sự cạnh tranh giữa các thương nhân với nhau nhằm xả hàng. Một số người đã bán gần như là ở mức thấp của tuần trước, nghĩa là họ rất có thể bị lỗ nặng trong tháng này mặc dù đã có khoản trợ giá của Shagang.

Hôm thứ sáu, giá giao ngay Bắc Kinh của thép cây HRB400 đường kính 18-25mm được sản xuất từ nhà máy Hebei Iron & Steel vẫn duy trì tầm 3.230-3.240 NDT/tấn, trọng lượng thực tế đã có VAT. Cùng ngày, hợp đồng thép cây giao kỳ hạn tháng 05 trên sàn SHFE được chốt tại 3.389 NDT/tấn, giảm 0,15% so với phiên giao dịch trước đó và đã để mất 0,67% so với ngày 14/02. 

Sức mua mạnh từ Thổ Nhĩ Kỳ hỗ trợ giá phế Mỹ

Trong tuần qua, các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đã đặt mua khoảng 12 lô hàng phế ngoài nước, chủ yếu từ Benelux, Bờ Biển Đông Mỹ và Bantich với giá cả bình ổn. Đây có thể xem là tuần mua mạnh nhất của Thổ Nhĩ Kỳ cho rới thời điểm này trong năm nay.

Platts tăng giá xuất khẩu phế HMS 1& 2 (80:20)  thêm 1USD/tấn so với tuần trước, đạt mức 351 USD/tấn do người mua đặt mua các lô hàng giao nhanh tại mức giá tăng trong ngày 20/2, và mức giá bán 340 USD/tấn đã lặn khỏi thị trường.

Các nhà máy đã trở lại thu mua do ngày càng có nhiều nhà cung cấp phế lớn từ chối bán tại mức giá thấp dưới 350 USD/tấn CFR, và giá này cũng đã đem lại khoản lợi nhuận cao hơn cho tới lúc này. Tuy nhiên, hầu như các thành viên thị trường đều nghĩ rằng bây giờ là quá sớm cho việc tiên liệu về sự phục hồi bởi vì giá thép vẫn ở mức 550-560 USD/tấn FOB cảng Thổ Nhĩ Kỳ và thị trường thép nội địa Thổ Nhĩ Kỳ vẫn trì trệ.

Phế nội địa Nhật Bản và phế xuất khẩu Mỹ tiếp tục giảm trong tuần qua. Nhà máy Tokyo Steel Manufacturing đã hạ giá thu mua phế xuống 500 Yên/tấn (4.9 USD/tấn) đối với hầu như tất cả các loại phế từ ngày 21/2. Gía thu mua phế H2 tại công xưởng Utsunomiya ở Bắc Kanto đạt mức 35.500 Yên/tấn (346 USD/tấn). Nhà máy này cũng giảm giá thu mua phế tổng cộng 1.500-2.000 Yên/tấntừ đầu tháng 2 tới nay.

Hyundai Steel Hàn Quốc hủy đơn hàng phế Nhật trong tuần qua do nó đã đảm bảo đủ nguyên liệu. Gía đặt hàng phế H2 trong ngày 14/2  là 33.000 Yên/tấn (322 USD/tấn), giảm 500 Yên/tấn (4.9 USD/tấn) so với tuần trước đó. Nó đã đặt mua tổng cộng 25.000 tấn gồm cả phế H2 và Shindachi tháng 3.

Tại thị trường trong nước, nhà máy Hyundai và Dongkuk thông báo sẽ giảm giá thu mua phế trong nước xuống 5.000 Won/tấn (4.7 USD/tấn) kể từ 25-26/2.

Các nhà máy Đông Nam Á trở lại thị trường nhập khẩu để bảo toàn các lô hàng phế Mỹ lớn do nhận thấy các giao dịch tăng lên. Trong ngày 19/2, một nhà máy Đài Loan đặt mua 25.000 tấn phế giao tháng 3 từ Mỹ tại mức giá 364 USD/tấn CFR.

Một nhà cung cấp phế Mỹ khác đã bán một lô hàng phế Ferrite Mỹ lớn tại mức giá 367 USD/tấn CFR Nhật Bản, lô hàng  32.000 tấn phế tổng hợp tại mức giá 362 USD/tấn CFR Hàn Quốc, lô phế vụn tại mức 367 USD/tấn CFR và loại tấm và cấu trúc có giá 372 USD/tấn.

Một nhà máy Hàn Quốc khác cũng đặt mua lô hàng 30.000 tấn phế HMS 1 Mỹ tại mức 363 USD/tấn CFR trong ngày 14/2.

Tại thị trường nội địa Mỹ, giá phế vụn theo TSI đạt mức 405 USD/tấn dài giao tại Midwest trong tuần qua, tăng 4 USD/tấn dài so với giá trước đó. Tuy nhiên, so với tháng trước đó, giá vẫn thấp hơn 5.4%. 

Giá thép tấm tại Trung Quốc tăng và dự báo giá sẽ tiếp tục đi lên 

Giá thép tấm tiêu chuẩn hàng hóa tại thị trường nội địa Trung Quốc đã tăng thêm 20 NDT/tấn trong tuần trước. Nhiều thương nhân đưa tin với Platts rằng giao dịch đã cải thiện hơn một chút và giá thép bán thành phẩm tăng có thể giúp hỗ trợ cho giá thép tấm duy trì ở mức như hiện nay, nếu không lên cao hơn.

Hôm thứ sáu, thép tấm Q235 14-20mm được giao dịch phổ biến quanh mức 3.500-3.520 NDT/tấn (572-575 USD/tấn), tăng 20 NDT/tấn so với giá niêm yết của Platts hôm 14/02. Các thương nhân cho biết một số giao dịch có thể được thực hiện với giá 3.530 NDT/tấn và giá có thể tăng hơn nữa nếu như giá phôi thanh tiếp tục đi lên.

Các giao dịch tại Thượng Hải đã cải thiện từ thứ hai (17/02) cùng với sự tăng đều đặn của giá phôi thanh kể từ tuần trước. Tuy nhiên, thị trường đã trở nên im ắng trong ngày thứ sáu sau khi giá phôi tiếp tục tăng thêm.

Một đại lý khác ở Thượng Hải tỏ ra rất bi quan, công ty của bà hoặc sẽ giữ giá thép tấm bình ổn hoặc sẽ nâng giá lên trong tuần tới vì có nhiều giao dịch trong vài ngay qua. “Giá HRC giao dịch trên sàn có thể gây ảnh hưởng đến chào giá của chúng tôi, tuy nhiên chúng tôi không nhất thiết phải theo xu hướng này”, bà nói. Theo như Platts được biết, công ty này đã giữ chào giá không đổi trong ngày thứ Tư và thứ Năm mặc dù giá HRC giao dịch trên sàn suy yếu.

Nghe nói một nhà máy ở miền đông đang chọn cách xuất khẩu thép tấm thay vì cung cấp cho thị trường trong nước và một số nhà máy đang tu sửa trang thiết bị của họ nên sẽ giảm nguồn cung ra thị trường. Anyang Iron & Steel và Shaoguan Iron & Steel được biết là sẽ tiến hành bảo trì trong tháng này, làm giảm sản lượng tổng cộng đến 62.000 tấn.

Theo các thống kê từ một nhà cung cấp thông tin ở Thượng Hải MySteel, thép tấm tồn kho tại các nhà kho lớn ở Thượng Hải còn tổng cộng 205.500 tấn tính đến ngày 21/02, tăng 4.200 tấn so với tuần trước đó. 

 Hegang giữ giá HRC không đổi trong tháng 03

Hebei Iron & Steel (Hegang), “gã khổng lồ” trong ngành thép Trung Quốc, đã thông báo hôm 21/02 rằng sẽ giữ giá xuất xưởng của HRC và CRC không đổi trong tháng 03. Theo đó, HRC Q235 5.5mm và CRC SPCC 1.0mm của nhà máy vẫn sẽ duy trì lần lượt tại 3.600 NDT/tấn (589 USD/tấn) và 4.500 NDT/tấn (737 USD/tấn) đã có VAT 17%.

Quyết định của Hegang có nghĩa là tất cả các nhà sản xuất thép hàng đầu ở Trung Quốc- ngoại trừ Baosteel đã đánh cược là giá sẽ lên- còn lại đều giữ giá xuất xưởng HRC của họ không đổi trong tháng 03 so với tháng 02. Giao dịch chậm lại trong tháng này cùng với triển vọng u ám của thị trường thép trong cả năm nay sẽ làm các nhà máy không có hy vọng về việc nâng giá, một nhà phân tích ở Thượng Hải nói.

Tuy nhiên, giá xuất xưởng của các nhà máy không đòi hỏi sự phục hồi từ thị trường như họ đã từng dựa vào, một nhà phân tích của công ty giao dịch kỳ hạn nói hôm thứ Năm, trước khi có quyết định của Hegang. Hiện nay, giá giao ngay chịu ảnh hưởng nhiều hơn bởi các yếu tố khác như tâm lý, thị trường giao dịch giao sau và giao dịch trên sàn. Thật vậy, nếu sàn SHFE đưa ra giá giao dịch kỳ hạn cho HRC vào cuối năm nay theo như kế hoạch thì điều này có lẽ sẽ còn làm hạn chế vai trò của các nhà máy trên thị trường hơn nữa.

Thứ sáu tuần trước, HRC Q235 5.5mm tại Thượng Hải có giá 3.420-3.450 NDT/tấn đã có VAT 17%, không đổi so với ngày trước đó. Hợp đồng HRC giao dịch kỳ hạn tháng 05 trên sàn SSEC tăng nhẹ 0.006% lên 3.447 NDT/tấn.

Nhà phân tích Xu Xiangchun nói trong một buổi hội thảo ngành thép vào tuần trước tại Thượng Hải rằng rất khó để giá thép bật tăng một cách đáng kể trong thời gian ngắn do sự biến động của giá nguyên liệu. Cuộc khủng hoảng tín dụng tại Trung Quốc, giá quặng sắt đi xuống và có khả năng sẽ gỡ bỏ việc giảm thuế xuất khẩu cho HRC chứa nguyên tố bo vẫn còn là những rủi ro lớn đối với giá HRC Trung Quốc, ông nói. 

Gía chào bán-mua tại thị trường HRC Bắc  Âu vẫn chênh lệch 30 Euro/tấn

Tuần qua, thị trường thép cuộn Bắc Âu vẫn ổn định do khoảng cách giá chào bán và mua vẫn ở mức 30 Euro/tấn.

Các nhà máy tích hợp tiếp tục giữ giá chào tại mức 480 Euro/tấn đối với HRC giao Qúy 2, tuy nhiên, các nhà môi giới vẫn kịch liệt phản đối mức giá này. Một nhà máy cho hay, trong một số trường hợp mức giá cơ bản 480 Euro/tấn vẫn được chấp nhận, tuy nhiên, một nguồn tin khác tại Đức cho hay các đơn hàng vẫn chốt ở mức 460 Euro/tấn DDP đối với HRC giao cuối tháng 3.

Một nhà môi giới cho biết, sau một thời gian đàm phán dài, họ đã chốt được đơn hàng HRC giao tháng 4 ở mức 450 Euro/tấn xuất xưởng trong khi một nguồn tin khác ở Đức cho biết đang chào mua tại mức 450 Euro/tấn xuất xưởng nhưng không tìm được người cung cấp.

Triển vọng thị trường Qúy 2 vẫn chưa chắc chắn, do các nhà máy dự định giữ vững giá chào bán trong khi  các nhà môi giới gặp phải khó khăn  trong việc tăng giá chào bán tới người tiêu thụ. Một nguồn tin cho hay ngành sản xuất xe hơi đang hỗ trợ đắc lực cho các nhà máy tích hợp do nhu cầu mua hàng tương đối mạnh trong ngành.

Theo  Platts, giá HRC  giao ngay hiện đã tăng 30 Euro/tấn so với mức giá thấp nhất trong tháng 7 năm ngoái. 

Thị trường thép cây Mỹ trì trệ

Người mua thép cây Mỹ đều đã lui về tâm lý chờ đợi và cố gắng hoãn lại việc đặt hàng cho tới khi họ thấy nhu cầu tiêu thụ tăng lên và xu hướng giá cả rõ ràng hơn.

Một nhà máy thép cây cho biết ông không dám trữ nhiều hàng vì số lượng đơn đặt hàng không lớn như mong đợi. Hiện tại, tình hình xây dựng không khả quan, và thị trường đang chờ một sự khởi sắc.

Trong khi nhu cầu về nhà kho, chung cư và cơ sở vật chất cho ngành công nghiệp sản xuất ô tô tăng thì triển vọng của ngành xây dựng trường học và của Chính Phủ lại yếu ớt. Gía thép cây Số 5 hiện đạt mức 645 USD/tấn xuất xưởng đối với các đơn hàng nhỏ, tuy nhiên, có thể được đàm phán dưới mức 640 USD/tấn ngắn cho các đơn hàng lớn hơn.

Mặc dù các nhà máy trong nước đã thu hồi lại giá tăng 20 USD/tấn ngắn dự kiến trong tháng 2, tuy nhiên, các nhà phân phối cho hay giá bán của các nhà máy thực sự không giảm. Áp lực giá thấp đang đè lên vai của các thương nhân và nhà môi giới. Đó là những người đang  ngồi trên hàng triệu dollars hàng tồn kho mà không có lối thoát.

Không có triển vọng giá tăng khi mà giá phế vẫn đang trên đà giảm, hàng nhập khẩu tăng cao từ Thổ Nhĩ Kỳ đến trong tháng 1 và nhu cầu tiêu thụ cho ngành xây dựng chậm chạp từ điều kiện thời tiết khắc nghiệt.

Một nhà phân phối khác nhận định giá phế thực sự là nhân tố chính ảnh hướng tới giá thép cây. Việc các nhà máy đang do dự không hạ giá chào xuống nhiều là do họ tin rằng giá gần phục hồi trở lại.

Theo một nguồn tin khác cho hay, nhu cầu tiêu thụ tại Southeast thì mạnh và hàng tồn tại đây không cao. Gía thép cây tại đây có thể đạt mức 635 USD/tấn ngắn FOB. Platts vẫn duy trì giá thép cây tại Đông Nam Mỹ ở mức 630-640 USD/tấn ngắn.

Các thành viên thị trường cho biết Bộ Thương Mại Mỹ quyết định không áp dụng thuế đối kháng đối với với thép cây nhập khẩu Thổ nhĩ Kỳ. Ảnh hưởng của quyết định này trong thời gian ngắn là chưa rõ, tuy nhiên, dự báo vơi thuế suất thấp thì Thổ Nhĩ Kỳ vẫn sẽ xuất thép cây tới Mỹ. Họ vẫn đang chào bán hàng tháng 3 tại mức 610 USD/tấn CFR cảng Vịnh, không đổi so với tuần trước.  

Giá xuất khẩu HDG Ấn Độ không đổi do sức mua từ Mỹ chậm lại 

Giá xuất khẩu HDG Ấn Độ vẫn không đổi trong tuần trước, các nhà sản xuất trong nước đã từ bỏ những nỗ lực mà họ đã thực hiện kể từ tháng 01 nhằm nâng giá lên. Họ sẽ sẵn sàng duy trì mức giá hiện nay.

Thứ sáu tuần trước, giá giao dịch của thép cuộn loại thường dày 0.3mm phủ 90 gram kẽm trên một mét vuông giữ cố định tại 870-880 USD/tấn CFR Mỹ giao tháng 03, không đổi từ ngày 20/01. Mức giá này gồm phí vận chuyển khoảng 55-60 USD/tấn.

Một nhân viên cấp cao trong ngành ở Mumbai xác nhận một lô hàng 15.000 tấn HDG dày 0.3mm giao tới Mỹ vào tháng 03 có giá khoảng 870 USD/tấn CFR. “Sức mua đã chậm lại”, ông nói, cho thấy hầu hết các nhà nhập khẩu HDG ở Mỹ đang mua từ các chính nhà cung cấp trong nước của họ do giá nguyên liệu thấp hơn.

“Ngay cả khi những khách hàng người Mỹ hiện không muốn mua từ chúng tôi, chúng tôi có thể bán các lô hàng của mình cho thị trường nội địa”, ông nói.

Một thương nhân ở Singapore cho hay những người mua ở Mỹ muốn tiếp tục phản đối mức giá hiện tại bởi vì họ không vội mua thêm để tích trữ vào kho. “Nhu cầu HDG tại Mỹ đã suy yếu do mùa đông kéo dài. Hiện nay, không có ai đang thu mua vì họ vẫn chưa bán hết hàng dự trữ trong kho”.

Thời tiết xấu kể từ đầu năm nay đã gây cản trở đến các hoạt động sản xuất và xây dựng tại Mỹ, vì vậy nhu cầu tiếp tục trì trệ.

Mặc dù nhu cầu HDG tại Ấn Độ vẫn tiếp tục ổn định, nhưng giá xuất khẩu lại chịu ảnh hưởng chủ yếu từ thị trường quốc tế hơn là yếu tố cung cầu ở trong nước, một thương nhân ở Mumbai nói. 

Nhiều nhà nhập khẩu phôi thanh Đông Nam Á tỏ ra thận trọng khi phế giảm giá

Nhiều nhà cán lại ở khu vực Đông Nam Á tiếp tục tỏ ra thận trọng trong việc mua phôi thanh của họ do giá phế đang giảm và nhu cầu thép thành phẩm trì trệ. Các nhà nhập khẩu trong khu vực nhìn chung đều đang đưa ra giá mua từ 520-525 USD/tấn CFR mặc dù chào giá khoảng 525-540 USD/tấn, tùy vào xuất xứ của lô hàng.

Cụ thể, phôi thanh từ Nhật Bản được bán với giá 530 USD/tấn CFR Jakarta, Indonesia  và 20.000 tấn phôi thanh xuất xứ trong khu vực này giao tháng 04 được đặt mua tại 523 USD/tấn CFR Koh Sichang, Thái Lan cách đây hai tuần. Phôi thanh lò cao của Trung Quốc được chào giá 520 USD/tấn CFR Indonesia trong tuần trước, giảm so với 525 USD/tấn CFR hồi cuối tháng 01.

Nhiều nhà máy bằng lò hồ quang điện trong khu vực không muốn hạ giá chào bán của họ xuống bởi vì họ đã lỡ mua phế với giá cao hồi tháng 12 và đầu tháng 01 nên chi phí sản xuất phôi thanh cao. Các chào giá phôi thanh từ Hàn Quốc phổ biến tầm 520 USD/tấn FOB (tương đương 540 USD/tấn CFR Philippines).

Một số thương nhân cho biết họ đã nghe nói phôi thanh Đài Loan được chào bán từ 525-530 USD/tấn CFR Đông Nam Á do đôla Đài Loan suy yếu.

“Mọi người phải quan sát giá phế hiện nay. Giá phôi thanh không thể tăng khi mà phế tiếp tục đi xuống như vậy”,  một thương nhân ở Manila nói. Các giao dịch phế HMS1 lô lớn được chốt tại 362-363 USD/tấn CFR Hàn Quốc trong tuần trước, giảm mạnh so với 385 USD/tấn CFR Hàn Quốc hồi giữa tháng 01.

“Người mua hiện nay tỏ ra quan tâm hơn so với trước Tết”, một thương nhân trong khu vực nói. Tuy nhiên, chênh lệch giá giữa người mua và người bán đang ngăn các giao dịch diễn ra. Những người khác cho biết giá trị các đồng tiền trong khu vực suy yếu so với đôla Mỹ cũng tiếp tục làm hạn chế hàng nhập khẩu vào mỗi nước.